VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 5 TN NĂM B
Mc 1,29-39
TIN MỪNG
29 Vừa ra
khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có
ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của
bà.31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ
các ngài.
32 Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người.33 Cả thành xúm lại trước cửa.34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc
đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người
là ai.
35 Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó.36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm.37 Khi gặp Người, các ông thưa:
"Mọi người đang tìm Thầy đấy! "38 Người bảo các ông: "Chúng ta
hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa,
vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó."39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao
giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
29 On leaving the synagogue he entered the house of Simon and
Andrew with James and John.
30 Simon's mother-in-law lay sick with a fever. They immediately
told him about her.
31 He approached, grasped her hand, and helped her up. Then the
fever left her and she waited on them.
32 When it was evening, after sunset, they brought to him all
who were ill or possessed by demons.
33 The whole town was gathered at the door.
34 He cured many who were sick with various diseases, and he
drove out many demons, not permitting them to speak because they knew him.
35 Rising very early before dawn, he left and went off to a
deserted place, where he prayed.
36 Simon and those who were with him pursued him37 and on
finding him said, "Everyone is looking for you."
38 He told them, "Let us go on to the nearby villages that
I may preach there also. For this purpose have I come."
39 So he went into their synagogues, preaching and driving out
demons throughout the whole of Galilee .
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 1,31
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Mẹ vợ của ông Simon bị bệnh
gì? (Mc 1,30)
a. Phong
hủi
b. Huyết
trắng
c. Câm
d. Sốt
02. Ai đã chữa cho bà nhạc mẫu ông
Simon khỏi bệnh? (Mc 1,30)
a. Ông
Phêrô
b. Ông
Phaolô
c. Đức
Giêsu
d. Ông
Môsê
03. Chiều đến, rất nhiều người ốm
đau và những ai bị quỷ ám của thành này được cứu chữa. (Mc 1, 29-33)
a.
Thành Giêrusalem
b.
Thành Nadarét
c.
Thành Caphácnaum
d.
Thành Bêlem
04. Sáng sớm, Đức Giêsu đi ra nơi
hoang vắng, ở đó người làm gì? (Mc 1,35)
a. Nghỉ
ngơi.
b. Dạy
dỗ các môn đệ.
c. Xa
lánh những ồn ào.
d. Cầu
nguyện.
05. Đức Giêsu đi khắp miền Galilê
để làm gì? (Mc 1,39)
a. Rao
giảng trong các Hội Đường.
b. Trừ
quỷ.
c. Làm
phép rửa cho mọi người.
d. Chỉ
a và b đúng
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu đi khắp miền Galilê,
rao giảng trong các Hội Đường của họ và làm gì? (Mc 1,39)
02. Một trong những môn đệ đi với
Đức Giêsu đến nhà nhạc mẫu ông Simon? (Mc 1,29)
03. Khi Đức Giêsu và các môn đệ
đến, bà mẹ vợ ông Simon đang bị gì? (Mc 1,30)
04. Ai đã chữa cho bà nhạc mẫu ông
Simon khỏi bệnh? (Mc 1,30)
05. Bà mẹ vợ của ai được Đức Giêsu
chữa lành? (Mc 1,30)
06. Chiều đến, rất nhiều người ốm
đau và những ai bị quỷ ám của thành này được cứu chữa. (Mc 1, 29-33).
07. Đức Giêsu ra nơi đâu để cầu
nguyện? (Mc 1,25)
08. Sáng sớm, Đức Giêsu đi ra nơi
hoang vắng, ở đó Người làm gì? (Mc 1,35)
Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Đức Giêsu
chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật,
và trừ nhiều quỷ.
Tin Mừng thánh Máccô 1,34a
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 5 TN NĂM B
Mc 1,29-39
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề :
Chúa
Giêsu chữa bệnh
* Câu
Tin Mừng Mc 1,31
31 Người
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. d. Sốt (Mc 1,30)
02. c. Đức Giêsu (Mc 1,30)
03. c. Thành Caphácnaum (Mc 1,29-33)
04. d. Cầu nguyện (Mc 1,35)
05. d. Chỉ a và b đúng (Mc 1,39
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Trừ quỷ (Mc 1,39)
02. Giacôbê (Mc 1,29)
03. Lên cơn sốt (Mc 1,30)
04. Đức Giêsu (Mc 1,30)
05. Simon (Mc 1,30)
06. Caphácnaum (Mc 1,29-33)
07. Hoang vắng (Mc 1,25)
08. Cầu nguyện (Mc 1,35)
Hàng dọc: Rao Giảng
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 5 Thường Niên - Năm B
Lời Chúa: G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23;
Mc 1,29-39
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Cứu vớt con người
Quang cảnh náo nhiệt
ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết
mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi về nhà của
Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên nơi
cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay
và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người
trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu
không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn
cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của
Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những
nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời
gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt
động, đó là xoa dịu những đớn đau cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về
cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu
nhà thương; biết bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng
thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi
dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các
môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của mình tới những vùng đất xa lạ để rao
giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật
bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn,
bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải
gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff là một thuỷ
thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm
viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng
Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già,
bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126
người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn
phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác
là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn
lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa
sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm
được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta
đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người
khác trở về cùng Chúa.
Đi gieo Tin Mừng
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay
tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm
việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin
Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc
đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì
Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say
mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng
dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con
người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin
Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức
thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu
vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm
tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa
phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời
phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây
nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên
lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình
người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ
nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin
Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc
con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh
lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự
trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói
tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng
đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon
là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục
vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin
Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi
vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi
sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan
trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với
Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng
suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với
Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn
thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn
khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha
qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm
mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể
thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng
bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con
người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin
Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1- Bạn hãy thử tóm
tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Bạn tha thiết với
việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết
quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi
đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.
Chiều và sáng
(Trích trong ‘Manna’ - Lm Nguyễn
Cao Siêu)
Suy Niệm
Sốt không phải là một
bệnh nan y. Nhưng người bị sốt cao không dậy nổi, chỉ nằm thôi. Khi Đức Giêsu
và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon thì bà mẹ vợ ông đang sốt, nằm trên
giường. Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia đình ông. Ngài lại gần, nhẹ nhàng
cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cơn sốt lui ngay khiến bà có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn
giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói
một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái. Ngài cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau
này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết
lại đứng dậy được (x. Mc 5,41), như sau này Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm
trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để
một người nằm có thể đứng lên.
Sức sống nào truyền
qua cử chỉ cầm tay ấy? Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy?
Chúng ta cũng cần
được Chúa cầm tay khi không dậy nổi, cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần
chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là
lúc kết thúc ngày sabát. Người ta đem đến cho Đức Giêsu bao người yếu đau đủ
loại. Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến nhiều người phải đứng ngoài. Không rõ bao
nhiêu người được chữa lành chiều tối hôm đó. Nhiều người đã có thể tự về nhà
một mình...
Đức Giêsu đụng chạm
đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ
mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế giới hôm nay vẫn
phải đối đầu với bệnh tật. Những bệnh nan y như ung thư, tim mạch, sida (aids),
siêu vi... Cần có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu
và mệt mỏi, Đức Giêsu đã thức dậy sớm, khi các môn đệ còn ngủ say. Ngài tìm
được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo.
Cầu nguyện là nhu cầu
thật sự của Đức Giêsu.
Ngài cần có thời gian
rút lui, sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng
công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan.
Đức Giêsu thấy mình
cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ
mạng. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con, và vì Ngài được Cha sai.
Ngài sống hết mình
cho con người, cho đám đông, nhưng Ngài cũng say sưa cầu nguyện và hoạt động.
Cầu nguyện đưa Ngài
đến với con người, hoạt động đưa Ngài đến với Cha.
Thành công ở
Caphácnaum không làm Ngài dừng chân.
"Mọi người đang
tìm Thầy", mọi người vẫn cần Thầy.
Nhưng Ngài biết còn
nhiều chỗ khác cũng đang rất cần.
"Hãy đi nơi
khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi. Giữ được tính tự do và cơ động,
Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào
là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những yếu tố nào để được coi là một đời
sống Kitô hữu quân bình?
Mẹ Têrêxa Calcutta đã
trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác ái, nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô
nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để giúp đỡ những người cùng khốn ở gần
nhà bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, Đấng
ưa thích sự thinh lặng,
xin dạy chúng con
thinh lặng để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe
và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con
thinh lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước
những vấp váp của tha nhân,
biết quay đi truớc
những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con
thinh lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng
kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước
những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con
thinh lặng nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa
và đem lại an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây
đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con
thinh lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự
thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy
chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích
kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao
Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo Mẹ Têrêxa
Calcutta)
Ngôn ngữ của con tim
Jean Ralté
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng
càng ngày người ta càng đi tìm kiếm một cái gì đó, một lời gần gũi mình trong
cuộc sống. Không ai còn thích nghe những diễn từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp
cao siêu, như những đám mây. Chúng ta hết thảy đều tìm kiếm một lời nhanh chóng
đưa đến hành động. Thế giới chúng ta khao khát những gì cụ thể. Đây là một thế
giới đòi hỏi có những người biết làm chứng bằng chính cuộc đời mình trước khi
làm chứng bằng lời nói.
Ngôn ngữ của con tim.
Cuộc sống của Chúa
Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài người. Ngài không nói ngôn ngữ của những triết
gia nay của những nhà thần học hoặc của các tư tế và ký lục ở thời đại của
Ngài. Người con trai bác thợ mộc nói ngôn ngữ của con tim. Khi Ngài đến với con
người, Ngài gặp họ trong toàn bộ con người của họ, thân xác và tinh thần. Ngài
không tách rời giữa lời nói và hành động. Trước khi đến hội đường Caphanaum,
Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon và Anrê. Ngài vừa mới đến thì người ta nói với
Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu của ông Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa
Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì điều này sẽ an ủi bà chăng? Nhưng Chúa
Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài nói với bà bằng ngôn ngữ của con tim.
Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm tay và làm cho bà chỗi dậy. Ngài không
cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi. Ngài chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã
giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon liền phục vụ những người khách của ông. Cử
chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân đối với việc loan báo Tin Mừng vừa được
thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn ngữ của Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con
tim.
Như một vệt thuốc
súng.
Và này đây, tin đồn
lan khắp cả thành phố. Có một người đáp ứng được sự mong chờ của những con tim
bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hành động
trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng tuôn đến, mỗi người tìm đến một luồng
khí mới cho cuộc đời của mình. Và này đây, trong những phong trào của chúng ta,
người ta khám phá ra hành động của Thiên Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được
hình thành, rồi một nhóm khác nữa… Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành
động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như một vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta,
trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở trong nhóm trẻ của chúng ta, v.v… Nhưng
chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy Ngài, phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về
“thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì
thế giới?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ
mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi chúng
ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện
diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài
chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những
kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm
cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của
chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta.
Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng
có thể hành động như nhạc mẫu ông Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để
chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ điệp của Ngài cho thế giới, bên ngoài thành
phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa không còn đến chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính
chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các nhóm của chúng ta không còn là
những nhóm khép kín, nhưng là những điểm chiếu tỏa, từ đó phát xuất đời sống
đức tin để mang Tin Mừng đến những làng mạc lân cận.
Đối với chúng ta là
những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ loan báo cho loài
người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta làm việc
này theo cách của Ngài, bằng lời nói và bằng hành động, nói ngôn ngữ của con
tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn ngoan con người. Chính với những anh em
đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai chúng ta đến để nhân danh Ngài chúng ta
cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ phận sự của chúng ta là trở thành tôi tớ
mọi người để cứu được nhiều người. Amen.
Không có nghỉ ngơi cho việc tốt
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho
Tàng’)
Mẹ vợ là đối tượng
của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một
thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi
người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ mẹ vợ của
thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô làm đầu
tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ một lần duy nhất
trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất quan trọng đối với
chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon, đã lo lắng cho người
mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói với Chúa Giêsu về bà,
Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành động này của Chúa
Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn toàn ngạc nhiên,
ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài. Các bạn
nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã
không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài
nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà được tiền định này, “phụ nữ trong
vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm
gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ
mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại
nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao
động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả những người bệnh
trong thành phố, những người đau bệnh và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả
theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã
dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu
tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công
việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những
khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ
của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa
những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy
khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi
đến những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm
viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của
ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã
bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả
tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại
khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong
sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản
được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem không phải là vô nghĩa. Tuy
nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng đại tinh thần vô vị lợi trong
việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có
cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở
nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của
chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà
thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi
trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta
cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện
trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân,
những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục, một tu sĩ, những gì chúng
ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì
xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính mình. Không có
sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ
biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước
sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
Lương y từ mẫu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến,
Không ai trong chúng
ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy
những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một
nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn
hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng
không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của
trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật
chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều
nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là
hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.
Thật vậy, “đời người
là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông
không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân
ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối
với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào
Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy thời Đức Giêsu
nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước hết, Đức Giêsu
không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau
khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà
mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà
và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến
đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách
giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi
trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau
khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ
công trình yêu thương của Chúa Cha.
Kế đến, khi cầm lấy
tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức
Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu
nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau
khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy
sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả
trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm
bay vào cõi trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu
đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau
khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải
thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông
tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau
khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức
Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi
đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang
tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện,
đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của
Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên
Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ
là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò,
một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ
đại hơn.
Thưa anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin
Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu
chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm
chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta,
dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền
không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có
mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ,
như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh
bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu
thương, được chăm sóc tận tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô
II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã
nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất
cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ
ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên
đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng
dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là
tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không
phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm
biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những
người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch
sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những
người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu
sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện
luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con
người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm
viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như
vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật
được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới
Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức
Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của
kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không
biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương,
chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho
thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với
nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một
tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó,
chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé
của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là
cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.
Chúa Giêsu, người Công Giáo đầu tiên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày
Chúa Nhật’ - Achille Degeest.)
Thánh sử Marcô trình
bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang thi hành chức vụ như: loan báo Nước Trời,
chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm nay nhấn
mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào cuộc đời bình thường của con
người đến thế nào. Người mới giảng dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội họp xong
Người lại mau mắn theo Phêrô và Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện không hay
trong nhà mình, song điều đó cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho
nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi chiều, hẳn là
vào lúc mà ngày Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân được mang
tới. Người biểu dương quyền năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy lui bệnh tật và
xua đuổi tà thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm, nhưng sau khi đã
chia sẻ những thực tế tầm thường ấy của đời sống nhân loại, Chúa đã thức dậy
trước bình minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân mật của Chúa Cha. Người trở
về nguồn. Người không giây phút nào mất liên lạc với Cha Người. Người trở lại
cùng với loài người, với những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha. Người không để
bị lôi cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ của những
người ở Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước của sứ mạng
mình. Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong lúc đợi chờ
sai môn đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu nhỏ, song
gợi ý trong bài này.
1) Tiến lại gần,
Người cầm lấy tay bà. Thánh sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành
nhạc mẫu của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận
ra nỗi quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên
Chúa, Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh
tẩy con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài
người. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu
việt thi hành vai trò mà Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con
người trong nhân cách riêng và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn,
Thiên Chúa đã nắm lấy tay con người; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con
Người của Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách “cầm
lấy tay” từng người, bất luận họ ở trình độ lương tâm và kiến thức nào. Không
một con người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không được chính Đức Kitô chú ý
riêng. Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm đoạt được nhân loại, Người
tự cho mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong giây phút chúng ta đang lâm
cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng, chúng ta có nghĩ tới bàn tay
nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ không?
2) Chúng ta hãy đi
đến khắp mọi nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì mục đích đó mà Ta
được sinh ra. Chúa Giêsu, từ
Thiên Chúa mà ra, không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể
nọ. Chức vụ Người thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình
nồng nhiệt. Người ta bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa
Giêsu đã tự tháo gỡ. Tại sao vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích
vô biên lôi cuốn. Trước hết là kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều
kích vô biên sâu thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy
của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo.
Chúng ta là công giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để
cho trí óc của mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là
một nền thần học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc
suy tư trong lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo
ngăn cản nó khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động,
khi nào người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho
Thiên Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo
trong việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó
với “nơi khác”, tức là đời sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công
giáo là sự hướng lòng mình, vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân
loại vô biên, chính là đức ái thần linh vậy.
Đau khổ
Cho đến ngày hôm nay,
đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề nan giải trong số kiếp của con người. Thực
vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ? Phải chăng đau khổ là một hình phạt do tội
lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại sao những người công chính cũng gặp phải
nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã bất công khi cư xử với chúng ta?
Từ câu chuyện của ông
Gióp, chúng ta rút ra được một bài học đức tin, đó là trong những giờ phút khổ
đau, chúng ta đừng vội kêu trách Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống,
không bao giờ muốn cho con người phải khổ, phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là
do con người gây ra cho nhau, vì thiếu yêu thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp
đỡ.
Cùng với ông Gióp, là
người tín hữu, chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với Thiên Chúa trong những
giờ phút đen tối, cũng như phải sống Tin Mừng thế nào trong mối liên hệ với
những người đau khổ.
Đau khổ là một cái gì
gắn liền với thân phận con người, nhưng đồng thời lại là cơ hội để con người
đến với nhau một cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì
chúng ta tin rằng Chúa yêu thương mọi người, cho nên không thể nghĩ rằng đau
khổ và bệnh tật là hình phạt của tội lỗi.
Một quan niệm sai lạc
và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống đạo đức một cách thụ động,
bởi vì Chúa để cho những khổ đau xảy ra, cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón
nhận để đền tội và lập công. Cách thức suy nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi
nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ bất hạnh. Mọi thái độ cam chịu ở đời này để
được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin
Mừng đến cho nhân loại bằng một thái độ tôn giáo hoàn toàn trái ngược lại với
sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ của Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho
bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa những kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã
chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài thật là cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn
giáo.
Vì tin vào Chúa của
tình thương mà phải ra tay cứu chữa những kẻ đau yếu tật nguyền, cho họ được
khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng tin rằng quả thật Chúa yêu thương con
người và Ngài đã dùng con người để cứu chữa con người. Bởi vì khi con người
được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh tật và khổ đau, thì vẫn có thể cảm
thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau
bất hạnh của người khác, chúng ta đã có thái độ như thế nào? Cảm thông và giúp
đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
Cách đáp ứng
Vấn nạn về nỗi đau
khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của người công chính, là một vấn nạn
lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ. Đây là một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt.
Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông vẫn phải chịu đựng những thảm cảnh khủng
khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi đau khổ vẫn còn
là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều
người có thể có cùng một quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những
người đau khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức, thảm
cảnh… Trong thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ Thiên
Chúa, vì tội lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức
Giêsu đối với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì? Người không chấp nhận quan điểm
rằng đau khổ là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm điều
ác. Thiên Chúa luôn muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy khi
Đức Giêsu phản ứng trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác gì một câu trả
lời đối với câu hỏi “tại sao có đau khổ?”.
Phản ứng đó rất thực
tiễn – như chúng ta nhận thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận
thấy đám đông những người bị đau yếu về thể xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức
Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân mình cho mỗi người, chữa lành cho từng
người một. Người không tự cô lập khỏi đau khổ của nhân loại. Người đã tự mình
trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những người bị thương tích và đau yếu.
Nỗi đau khổ là một
tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị trước nỗi đau khổ. Người cũng không
giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường làm. Người không thích nhìn thấy con
người đau khổ. Đau khổ là một trong những sự dữ mà Người đến để kháng cự lại.
Người có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, và mang lại điều tốt lành
cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng… đã
ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã
trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một cơ hội để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng
cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu, Người mặc khải cho chúng ta về lòng thương
xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân loại.
Nỗi đau khổ của những
người khác cũng là một cơ hội cho chúng ta nữa. Chúng ta không có khả năng chữa
lành, nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc người khác. Và chăm sóc chính là
một công việc có tác dụng chữa lành. Chỉ cần hiện diện bên cạnh người đau khổ,
tự thân điều đó rất có giá trị rồi. Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng,
bởi vì điều đó có nghĩa thay vì giải tỏa được nỗi đau đớn của người đó, chúng ta
phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng ta đến với
những người đau khổ với đôi bàn tay trống rỗng. Chúng ta có thể làm được gì cho
họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay trống rỗng đó, để an ủi họ. Những người
đau khổ mong mỏi rằng chúng ta không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ vững lập
trường đứng dưới chân thánh giá, giống như Đức Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản
chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà trong một số chừng mực nào đó, đã là gay go
lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau khổ khát khao, chính là thông truyền cho họ
sức mạnh của sự ấm áp tình người. Một người vẫn có thể được lành mạnh, mặc dù
không hề được chữa lành.
Còn đối với nỗi đau
khổ của riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một yếu tố không tránh
khỏi của tình trạng nhân loại, mặc dù con đường đau khổ là một con đường chật
hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng
chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng.
Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường đau khổ, thì nó không còn giống như trước nữa.
Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta rằng mặc
dù con đường này dẫn tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà kết thúc ở
sự Phục sinh. Do đó, đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành một cơ hội
để chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng được chia sẻ trong
vinh quang Phục sinh của Người.
Dành thì giờ
Lần kia, có một người
đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng
qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu
đấy?”
Người đàn ông la lớn
trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.
Người đàn ông cưỡi
ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng.
Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề
của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình.
Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây
không phải là một lối sống hay ho gì.
Người ta có thể quá
muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho
bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình
trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với
những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải
biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là
thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý,
tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục
luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận
thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho
bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất
cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn.
Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu
nguyện ở đó”. Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu
nữa.
Nơi hoang vắng làm
được gì cho Người? Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi năng lực đã bị mất
đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung. Nhưng nhất là trong suốt những giây phút
cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc
đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công
trong sứ vụ của Người.
Lời cầu nguyện hữu
ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói
hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là
người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng,
nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn. Bởi vì ngay khi dừng chân lại,
thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây
phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua
công việc. Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người
đó. Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu quả là cuộc
sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt. Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự
thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của
chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị
đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng
nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để
chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi. Rất nhiều người có khuynh hướng cho là
lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu
nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh. Nhưng lời cầu
nguyện cũng có thể có tác dụng. Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải
cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu không có lời cầu nguyện, thì
người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình,
tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh
mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính
mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một
nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết
hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn
thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và
cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần
phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
Thăm viếng
Kinh nghiệm của những
lần đi thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy: Nhiều
lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện
gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa
được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống.
Thì ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể
trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Chúa Giêsu chữa lành nhiều
bệnh nhân, với những chứng bệnh khác nhau. Sở dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài
chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta
không thể làm phép lạ, không thể cứu chữa họ. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần
vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn
đau của họ, bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng
mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc
phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ,
trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài phán với những người bên hữu:
- Hãy vào lãnh nhận
phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các
ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi
đã cho mặc, khi ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm. Vì khi các
ngươi làm những việc ấy cho một trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Trong Cựu Ước chúng
ta cũng thấy như thế:
- Đừng chậm trễ trong
việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại gia đình hay tại
bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa dịu những đớn đau tinh thần, cũng như thể
xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải những gì cho các bệnh nhân? Tôi xin thưa:
- Hãy lắng nghe họ tỏ
lộ tâm sự với một thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây quả là một nghệ
thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước
những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn
có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm
thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta
phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ nói những gì và sẽ nói như thế nào? Ngoài
ra chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn
cũng giúp bệnh nhân phần nào trong việc bình phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng,
chúng ta cũng cần phải tế nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở thích hay nhu
cầu của bệnh nhân. Những món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là những món
quà quý giá. Ngoài ra, một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho
bệnh nhân rất nhiều.
Trong phạm vi và khả
năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ những người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu
đã làm.
Tình thương
Chúa Giêsu khởi đầu
công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và
làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài,
nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là
một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia,
cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì
Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị
dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm
đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc
mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa
cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền
Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng
con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên
thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật
dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người
hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết
chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc
nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa
cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu
được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm
thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng
tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm
của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh
sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi
người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu
gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét
tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ
có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu
Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể
hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau
đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở
chúng ta.
Phần đông chúng ta
không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những
anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì
sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm
viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý
khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự
thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại
trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta
đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ
ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy
chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời:
“Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay
không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá
ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và
những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác
sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm
và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông
tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng
tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như
vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết?
Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ,
bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa
nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối,
ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ
thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở
về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người
nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh
và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không
bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên
đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều
kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất
là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và
giảm sút lòng tin... chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng
ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật
của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi
hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu
chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình
thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải Đức Giêsu
đến trần gian để cứu chữa những người bệnh hoạn, tật nguyền, quỷ ám không? Sứ
mạng của Ngài là gì? Tại sao Ngài làm những việc ấy?
2. Bạn có nghĩ rằng:
nếu mình mà làm được phép lạ như Đức Giêsu, mình cũng sẽ chữa bệnh, trừ quỉ… và
đi tới đâu cũng sẽ thi ân giáng phúc tới đó y như Ngài vậy? hiện nay mình chỉ
kém Ngài vì không có bản tính Thiên Chúa thôi?
3. Theo bạn thì tình
thương làm nên phép lạ, hay phép lạ làm nên tình thương? Nói cụ thể hơn, muốn
giúp người, điều quan trọng nhất là có tình thương hay có tài năng? Tình thương
làm nên tài năng, hay tài năng làm nên tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Dù quan tâm hàng
đầu là loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn cứu giúp mọi người theo sự thúc đẩy của
tình thương
Bài Tin Mừng hôm nay
kể chuyện Đức Giêsu chữa các bệnh tật, các chứng quỷ ám. Trong cuộc đời công
khai, Ngài đã từng chữa lành biết bao nhiêu con bệnh thuộc đủ mọi loại, biết
bao người bị quỷ ám, và làm một số người chết sống lại, v.v... Điều đó khiến
nhiều người có cảm tưởng rằng Ngài là một chuyên gia chữa bệnh, chữa quỷ ám.
Thật ra không phải như vậy! Ngài đến thế gian chủ yếu không phải để làm những
việc ấy, mà để cứu chuộc toàn nhân loại và loan báo Tin Mừng cho họ. Tuy nhiên,
khi thực hiện sứ mạng ấy, Ngài đã phải đối diện với biết bao nhiêu cảnh đau
thương của con người, về tinh thần cũng như thể chất. Tình thương chan chứa của
Ngài đối với con người khiến Ngài biết bao lần “chạnh lòng thương” và ra tay
cứu giúp (x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13). Sách Công vụ Tông đồ còn
cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị
ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người “ (Cv 10,38).
Điều chúng ta cần noi
gương Ngài không phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì, mà chính là khả năng
“chạnh lòng thương” trước những đau khổ của tha nhân. Khi đã biết “chạnh lòng
thương”, thì tình thương sẽ thúc đẩy và dần dần tạo cho ta khả năng hành động
phù hợp với sự đòi hỏi của tình thương. Thiết tưởng tất cả mọi Ki-tô hữu muốn
thật sự là Ki-tô hữu đều phải biết “chạnh lòng thương”, biết nhạy cảm trước
những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những người chung
quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của tình thương.
Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết Thiên Chúa
đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta. Ai không nhạy cảm như thế là dấu
chứng tỏ họ không có Thiên Chúa - là Tình Thương - ở nơi mình: “Ai không yêu
thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa” (1Ga 3,10; x. 3,17; 4,8).
2. Vì yêu thương và
dấn thân hết mình mà Ngài làm nên những phép lạ
Có phải vì Ngài làm
phép lạ dễ dàng, nên Ngài tỏ tình thương với mọi người cũng dễ dàng chăng?
Nếu ít hiểu biết về
Đức Giêsu, chúng ta có thể nghĩ rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền
năng làm phép lạ, có khả năng chữa bệnh, đuổi quỷ, nên Ngài tha hồ mà “thi ân
giáng phúc” ở bất cứ nơi nào Ngài đến. Đối với Ngài, việc “thi ân giáng phúc”
quả là quá dễ dàng, Ngài có mất mát hay thiệt thòi gì đâu? Còn ta, hễ giúp đỡ
ai, làm cho ai hạnh phúc hơn là ta phải mất mát, hy sinh, phải chịu thiệt thòi,
phải chấp nhận đau khổ. Nếu Ngài cũng bị hạn chế như ta, làm sao Ngài có thể
“thi ân giáng phúc” không cần tính toán như thế được? Nếu ta cũng làm được phép
lạ như Ngài, ta cũng sẽ “thi ân giáng phúc” cho mọi người đâu kém gì Ngài!
Hay vì Ngài yêu
thương tha nhân hết mình, nên Ngài mới có nhiều khả năng cứu giúp người khác
như vậy?
Nghĩ như thế quả cũng
có lý! Nhưng theo thiển ý tôi, người viết bài này, nghĩ ngược lại có thể có lý
hơn. Nghĩa là: không phải vì Ngài có khả năng làm phép lạ nên Ngài tỏ tình yêu
thương một cách dễ dàng; mà ngược lại, chính vì Ngài yêu thương hết mình, và
cũng hết mình muốn ra tay cứu giúp người khác, nên Ngài mới làm được những phép
lạ như thế. Cách nghĩ sau có vẻ hợp với Kinh Thánh hơn.
Đức Giêsu, Thiên Chúa
Nhập Thể, có những giới hạn của Ngài
Rất nhiều người nghĩ:
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, mà đã là Thiên Chúa thì ắt Ngài phải biết hết,
làm được hết, có đầy đủ mọi nhân đức, ở trong tình trạng hoàn hảo, chẳng cần
tập tành khổ luyện gì hết. Nghĩ như thế không phải là không có lý. Nhưng rất có
thể họ quên rằng Đức Giêsu là một “Thiên Chúa Nhập Thể”, nghĩa là một
“Thiên-Chúa-làm-người”. Khi nhập thể thì Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối đã mặc
lấy thân phận hữu hạn và tương đối của con người (x. Pl 2,6-9). Chẳng hạn, là
Thiên Chúa vô hạn, Ngài có thể hiện diện cùng một lúc ở khắp nơi, nhưng cũng
chính Thiên Chúa ấy, khi nhập thể, mặc lấy thân phận hữu hạn của con người, thì
Ngài không thể ở khắp nơi cùng một lúc như thế. Thiên Chúa và Đức Giêsu chỉ là
một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa ấy đã mặc lấy hai cách hiện hữu khác
nhau: một đằng là thần linh, vô hạn, bất biến, tuyệt đối; một đằng là con
người, hữu hạn, vô thường và tương đối... Nếu không như thế thì đâu còn là nhập
thể nữa!
Kinh Thánh nói về Đức
Giêsu
Thánh Phao-lô đã nói
về sự giới hạn và yếu đuối của Đức Giêsu như sau: Ngài “mang thân phận yếu hèn”
(2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16); “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương
diện” (Dt 2,17); “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng
không phạm tội” (Dt 4,15). Thiên Chúa đã “sai chính Con mình đến mang thân xác
giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta” (Rm 8,3b). Ngài phải
chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11) và chắc chắn cũng phải chiến đấu để thắng nó.
Trong việc Ngài cảm thấy sợ hãi đến đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cuộc tử nạn sắp
tới, ta thấy ngay thân phận yếu hèn của một con người ở nơi Ngài, và thấy Ngài
cũng phải chiến đấu rất cam go mới thắng vượt được bản thân yếu đuối mà vâng
theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41-44).
Khi Ngài còn nhỏ, rất
có thể Mẹ Maria cũng phải tập cho Ngài ăn, nói, đi đứng và dạy cho Ngài biết
đọc, viết, tính toán như bao người mẹ khác tập cho con mình. Ngài cũng phải cố
gắng vất vả khi phải học cho thuộc những bài học, khi làm những bài luyện
tập... Ngài cũng phải học thánh Giu-se mới biết làm thợ mộc, và khi làm việc
cũng cảm thấy mệt mỏi và vất vả. Những gì Ngài có được - như sự hiểu biết, các
nhân đức, sự hoàn hảo - không phải sẵn có nơi Ngài do bản tính thần linh vô hạn
của Ngài, mà theo thánh Phao-lô, Ngài cũng phải học, phải luyện tập với bao
gian lao cực khổ không khác gì chúng ta: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải
trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8); “Thiên Chúa
(...) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở
thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Cũng
thế, Ngài có được những giá trị cao quý ấy phần nào do quyết tâm thực hiện bằng
ý chí yếu đuối của con người ở nơi Ngài.
Những phép lạ Ngài
làm rất có thể là do tình thương cao độ của Ngài
Trong chiều hướng ấy,
ta cũng có thể nghĩ rằng những phép lạ Ngài làm được để cứu giúp người khác một
phần đến từ Thiên Chúa, nhưng một phần khác là do tình yêu cao độ và sự dấn
thân hết mình của Ngài cho tha nhân. Điều này phù hợp với kinh nghiệm bình
thường của con người: chẳng hạn biết bao người mẹ bất tài mà chỉ vì tình thương
bao la đối với con mà làm được những chuyện phi thường; những người có tình
thương bao la rộng rãi thường phát triển khả năng nhiều hơn những người khác.
3. Đừng sợ mình không
có khả năng, hãy sợ mình không đủ tình thương
Vậy thấy Đức Giêsu
cứu giúp biết bao người, chúng ta đừng vội cho rằng: nếu tôi có tài năng như
Ngài, tôi cũng sẽ cứu giúp được nhiều người như Ngài. Nghĩ như thế hóa ra Ngài
chẳng hơn gì chúng ta! hóa ra nếu có ai cứu giúp ai thì do người cứu giúp ấy có
khả năng cứu giúp mà thôi! Nghĩ như thế, đời sống tâm linh và tình thương của
chúng ta không bao giờ phát triển được! Muốn làm được những việc như Đức Giêsu,
thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta phải có tình thương thật sự và cao
độ như Ngài. Khi đã có tình thương rộng lớn, bao trùm, tình thương ấy sẽ thúc
đẩy chúng ta hành động, thúc đẩy chúng ta luyện tập để có nhiều khả năng cứu
giúp người khác. Tại sao ta có thể làm được biết bao chuyện cho cha mẹ, vợ con,
anh em ta, mà lại không thể làm như vậy cho người khác? Chính vì ta có rất
nhiều tình thương đối với người thân, nhưng lại không đủ tình thương đối với
người khác. Vậy, đừng sợ mình không có khả năng cứu giúp người khác, hãy sợ
rằng mình không có đủ tình thương đối với họ.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy
con chưa hữu ích lắm cho tha nhân chung quanh con không phải vì con không có
tài năng cho bằng vì con chưa đủ tình thương đối với họ. Biết bao người ít tài
năng hơn con, nhưng họ lại hữu ích cho tha nhân hơn con, chính vì họ đã yêu
thương nhiều hơn con. Vì tình yêu có khả năng khiến người ta làm được tất cả.
Điều con thiếu hơn cả chính là tình yêu, xin Cha hãy ban cho con.
Con đã viếng thăm Ta
Athur Tonne
Vị linh mục dừng lại
nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ.
Bà ứa nước mắt kêu lên: "Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm
nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm sự; bao lo âu, bao rắc
rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích lệ; nhưng ngài cảm
thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngừng một lát rồi kêu
lên: "Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi
vấn đề". Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết vấn đề nào cả. Rồi
ngài bắt đầu hiểu ra: Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay
kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, những chứng bệnh khác nhau. Người làm
được vì Người là Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể làm đuợc như Chúa? Chúng
ta không thể làm phép lạ, không thể chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói
hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức
Kitô.
Chúng ta có thể thăm
người bệnh, như vị linh mục trong câu chuyện, chúng ta cảm thấy bất lực, đến
ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm, thiếu thốn mà chúng ta không thể làm thuyên
giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên
đàng cho những ai viếng thăm người bệnh. "Ta đau các con đã viếng thăm…
Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng thúc dục chúng ta: "Đừng chậm trễ thăm
người bệnh vì nhờ thế con được quí mến." Thăm viếng người bệnh một cách
thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong bệnh viện; có thể xoa dịu tinh thần, trợ
lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì cho người bệnh; lắng nghe khi họ cần biểu
lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển,
một người đến thăm biết thông cảm khi họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng
mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem
đến một tin vui một sự kiện xây dựng hoặc nụ cười, một câu chuyện trên Tivi hay
báo chí. Cắt một bài vắn trong báo hay tạp chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng
nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các
loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh tinh thần. Khi chọn quà bạn cần dùng óc
tưởng tượng cố gắng để món quà thích hợp với tư cách, khung cảnh, nghề nghiệp
và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông:
"Tôi sẽ cầu nguyện cho." Tốt hơn nên nói; "Tôi sẽ cầu nguyện cho
anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay… "Sáng mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh
(chị)". Đừng nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm, nội qui của bệnh nhân. Hãy tế
nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô trong giới hạn của bạn, nhưng đầy
tình thương.
Xin Chúa chúc lành
cho bạn.
"Người đến gần cầm tay nâng bà dậy"
(Suy niệm của Noel Quesson)
Bác sĩ Tissot người
Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của
người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt
nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục
trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và
xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm
sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot
thường nói chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích
xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho
ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy.
Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể
nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa
thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu.
Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm
thành bí tích, đem lại ơn ích cho người lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ
yếu giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, để họ trung thành với niềm tin không
nao núng trong thử thách cả và thể xác lẫn tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật
thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích
này, Chúa để ý tới những bệnh nhân, Chúa cảm thông nỗi đau buồn của họ. Chúa
muốn chữa lành tâm hồn tội tình con người "bệnh" bằng bí tích Hoà
giải, chữa lành và tăng sức con người đau yếu bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào
con người trải qua cái chết, đi vào vinh quang phục sinh, lúc đó mới hết những
khuyết tật nơi thân xác và tinh thần. Chúa đã đến với những người đau khổ để
nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được
chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục vụ mọi người. Hậu quả của căn bệnh phần xác
là nằm liệt, không làm việc được, không phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn
đòi chúng ta phải phục vụ anh em, làm đầy tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp
chúng ta có lại khả năng phục vụ, Chúa đã ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những
lúc thân xác ta không mang bệnh nạn, nhưng mất khả năng phục vụ, chính là lúc
chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu tinh thần bác ái, ta phải mau mắn chạy
đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh
tật là những ám ảnh do tà thần được phép Chúa, thử thách lòng trung kiên của
chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa
xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm hồn và thân xác chúng con, cho
chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt thành phục vụ anh chị em chúng
con.
Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta
tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu
tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người
giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu
nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.
Vừa ra khỏi Hội đường
Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông
Gioan cùng đi theo.
Sau khi đã giảng dạy
và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng
thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia,
nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên
đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan
cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp
nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng
cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện
cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng
con.
Lúc đó, bà mẹ vợ ông
Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người ta lấy làm ngạc
nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày
xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y
khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám
con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa
nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của
thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những
rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số
những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn
với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt
nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không
còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó
ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang
"dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta
không thể tránh được.
Họ liền nói cho Người
biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.
Thái độ cầu nguyện
đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện
tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà . Tôi lắng nghe những gì người ta
đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh,
cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần
học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử chỉ của Đức Kitô".
Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã "làm những việc
kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó.
Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran
vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang
nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn sốt". Khi rước lễ, con
cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con .
Người đỡ bà dậy. Bà
liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi đọc câu này trong
bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây,
từ "ègeire", có nghĩa là "làm cho sống lại" . Ong cũng dùng
một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: "Hãy chỗi
dậy!" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6).
Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ"
theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh
cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau
khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4) Ngay trong thời Người,
tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân . Người
chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho "Thời
cánh chung": chỉ khi đó con người mới được "cứu độ" thực sự,
nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự
sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình
trạng "không tin" đến tình trạng "tin": kẻ nào đón nhận đức
tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi.
Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để "phục vụ”.
Sự dữ mà Đức Giêsu
nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm
hồn, đó là trung tâm" của người bị bệnh... khi họ không "phục vụ” anh
em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp đãi” Máccô muốn nói
với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ “phục vụ”
mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình":
"Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và
hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin
Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để
con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ khác" lên hàng
đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ', "hiến dâng mạng
sống" và yêu thương!
Chiều tối, khi mặt
trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người
chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất
nhiều quỷ.
Có thể nói, cùng một
tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên
Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa
cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta.
Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không
bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc
thang.
Ngày nay, cũng như
thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được
chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự
điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển
"đô thành trần thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là
thứ "chất độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là
phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần
phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này
tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm
nay.
Người trừ rất nhiều
quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.
Đề tài “Bí mật thiên
sai" lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và
1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.
Người buộc mọi người
phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa".
Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ
biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người ta chỉ chạy đến
với Chúa, như với một "người chữa bệnh" đến thuần. Tuyên bố quá sớm
Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ
phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát
biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập
giá. Thiên Chúa không phải là "toàn năng" theo nghĩa chúng ta thường
hiểu . . Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối" đối với
chúng ta . . . bởi vì Người là "tình yêu toàn năng". Nếu ông là Con
Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi. . . Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc
hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ! Đúng vậy Người đã
minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của
thái độ "phục vụ” . . . Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong
khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng
tiếng.
Lạy Chúa, xin giúp
con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp
con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa trần gian ...
"bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và
cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (l Cr
1,25).
Sáng sớm hôm sau, lúc
trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.
Ngay đêm đầu tiên mà
Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều "cốt yếu”
sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là "Gặp gỡ Chúa
Cha".
Ông Simon và các bạn
kéo nhau đi tìm Người...
Vào sáng sớm; khi
bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người
đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh
đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi
đến "một nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu
nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở "bên cạnh
Chúa Cha", chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa". Chính trong
khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu Tin Mừng trên đây
không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một
điểm nóng bỏng của "ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức
Giêsu. Nhờ đó, Người đang "kêu gọi" ta, nhưng "trong yên
lặng": ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn bệnh trầm trọng
nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ nào biết "ẩn
mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được cứu độ.
Lúc đó, mọi cơn sốt
và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này bạn, người anh em
đang mang bệnh của tôi...
Này bạn, người anh em
đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra "tin vui"
được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?
Khi gặp Người, họ
thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"' Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi
nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những
nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng, lạy Chúa Giêsu,
xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa.
Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con,
cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục
sinh.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Chữa bệnh cho nhạc
mẫu Phêrô (1,29-31)
Hoạt động thứ hai này
của Chúa Giêsu có thể được xem như một sự kiện “nho nhỏ” mà do tính cách vắn
gọn Maccô đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh này đã được
Maccô tháp vào chuỗi trình thuật mang tựa đề “Cái ngày Chúa Giêsu rao giảng ở
Caphanaum” khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34. Câu chuyện
xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng vụ, đây là
một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ được phép
di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và Anrê,
trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu sẽ
thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại thật
gọn gàng: nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô không mô
tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không nặng, dầu vậy
cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn, “họ liền nói cho
Ngài biết bà đang đau ốm” (c. 30b). Không thấy đề cập rõ đến người can thiệp
cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn tiến trình của đức tin:
Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên đám bạn hữu Ngài đã xin
Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm một cử chỉ đơn giản là
nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa với các trình thuật thời
đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy, thường dùng sức mạnh của
lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự việc xảy ra hoàn toàn
kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ lập tức hồi phục hoàn
toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục vụ Chúa Giêsu và các
bạn Ngài.
Vì thiếu khía cạnh
huyền diệu, trình thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng người thời nay.
Để nắm rõ được đây là hành vi có liên quan đến sứ mệnh “Mêsia” của Chúa Giêsu,
chúng ta phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật được quan niệm
như là một dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch sử Cựu Ước, cơn
sốt luôn được nga hình dung như những một trong những hình phạt Chúa đe sẽ gởi
đến cho đám dân bất tín bất trung của Ngài: “Nếu các ngươi phế bỏ Lề Luật của
Ta, nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra thực hành các huấn
lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây Ta sẽ giáng cho
các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con mắt và nhọc mệt
tâm hồn” (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).
Vào thời Chúa Giêsu,
người ta dễ dàng gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì thế mà sử gia
Luca đã tường thuật việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như một cuộc trừ
quỷ (Lc 4,39). Như thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu đối với bà cụ
này minh họa quyền năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự Chết. Đây chính
là Đấng Mêsia mang đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến.
Tuy nhiên cần phải đi
xa hơn. Nhằm mục đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của mình, Maccô đã đọc lại
biến cố này dưới nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính cách dùng một công
thức diễn đạt của Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó. Trong tiếng Hy Lạp, động từ
trong câu Maccô sử dụng khi viết: “Ngài đỡ bà ấy dậy” (c.31b) cũng chính là
động từ sau này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu: “Ngài đã chỗi dậy (sống
lại) (16,6)”. Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu
không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua
việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như “Đức Kitô và như vị Chúa Tể”
(Cv 2,36) Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội lỗi, lôi họ ra khỏi cõi chết.
Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè xuống được đứng dậy. Và khi cho
thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt đầu phục vụ các vị khách của bà
(x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc các Kitô hữu được mời gọi “phục
vụ” Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu Ngài khỏi sự dữ
để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.
Chúng ta được mời gọi
thường xuyên đọc lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước hết đây là hành
vi có tính lịch sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều kích lịch sử
của biến cố được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan trọng hơn.
Chúng ta phải đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi chép cho cộng
đoàn Kitô hữu, dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ luôn
đặt niềm tin vào vị “Chúa Tể” hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu độ Giáo Hội cũng
như trần gian.
Câu chuyện chữa bệnh
cho nhạc mẫu Phêrô đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia muốn tìm kiếm các
chi tiết thấy nơi trình thuật trên một “kỷ niệm tận mắt” của nhân chứng Phêrô.
Qua câu chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai của nhóm Mười Hai
(3,16) lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa Giêsu và các bạn
Ngài của nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không? Chúng ta không
thể biết được; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô (trong 1Cr 9,5) là
Phêrô có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải đáp vấn nạn được
nêu ra.
Một thành công rực rỡ
(1,32-34)
Đoạn văn ngắn gọn này
được ví như “bản tóm tắt” các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ khi Ngài khởi đầu
sứ vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại dưới tựa đề “Cái
ngày tại Caphanaum” (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh sự thành công rực
rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh và trừ tà (c.
32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn đến. Khi nói
rằng “cả thành”, Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để mang lại cho nó
trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan đến dân Do Thái
cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là đám quần chúng
bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang thông thường rất
đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến đủ thứ thầy trị
bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp…
Nhờ khả năng điều trị
phi thường nên Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a), chẳng một ai dám
nghi ngờ Đức Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài hấp dẫn, mê hoặc kẻ
khác. Một truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng sở dĩ Chúa Giêsu bị
chết treo là vì “Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê hoặc dân chúng”.
Tuy nhiên nếu Maccô
ghi nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh và trừ ta thì ông
vẫn cẩn thận cho thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện ngay giữa sứ vụ rao
giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm phép lạ. Ngài chỉ
trưng ra “các dấu chỉ” cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến qua bản thân Ngài
(1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động chữa bệnh của Chúa
Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi người biết Ngài là
ai (c.34b).
Đây là một lối diễn
tả mới mẻ về “Bí mật Đấng Mêsi” từng được nhiều người lưu tâm. Chúa Giêsu rất
muốn đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài mang đến ơn cứu
độ cho họ.
Tuy nhiên Ngài buộc
phải ngăn cấm ma quỷ không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia của Ngài (1,24).
Thực ra, ngay lúc này đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời, là vô tình khiến
dân chúng hiểu lầm rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang bủa vây họ bằng
một cây đũa thần. Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi “thời sau cùng”, đám
người đương thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân “các dấu chỉ và phép lạ”
được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia đặc biệt không
muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài đòi hỏi (x. Các
cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu “Đức Kitô” và “Con Thiên Chúa”
chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của
Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông, Maccô đã tự gán cho mình bổn
phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ kín về Ngài (1,44; 3,12; 5,43;
7,24b.36; 8,30; 9,9.33).
Như thế, Maccô mời
gọi độc giả tự hỏi về thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu mà ông chưa
đưa ra câu trả lời. Câu trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ ràng ai nấy
đều biết là Đấng Mêsia đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử nạn (8,29-33).
Từ đó, mới lộ ra quy tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này –mọi “bí mật” về thân thế
Chúa Giêsu chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi nền tảng Maccô đặt
ra cho họ: “Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai?” và rồi người ta sẽ trả lời ngay: “Hãy
đi theo người dẫn đường…”.
Cầu nguyện và thi
hành sứ vụ (1,35-39)
Maccô có khuynh hướng
đưa ra các tương phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của Chúa Giêsu qua
việc phục vụ đám đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh đối chọi về vị
đạo sư thèm được sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa (c.35). Chắc hẳn
là sau bao mệt mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can đảm Chúa Giêsu mới
có thể dậy sớm lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm một chốn cô liêu
cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề cập tới (6,46;
14;35-39) ở mỗi chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở đây người ta dễ
dàng nắm được nội dung bản văn: Chúa Giêsu không muốn để cho mình bị cuốn trôi
bởi cơn sóng của đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ Ngài đã làm. Ngài
cần suy nghĩ về tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.
Rõ rànglà các môn đệ
đi tìm kiếm Chúa Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ mà việc chữa trị
thành công của Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33). Sự kiện đám quần
chúng đang mê mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức khẩn trương đầy
nguy hiểm. Vị đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa ra một cắt
nghĩa lệch lạc nào về vai trò của Ngài (c. 38).
Nêu ra cho họ điểm
trọng yếu là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là then chốt
trong sứ mệnh của Ngài. “Chúng ta hãy đi chỗ khác…” điều này có nghĩa là sứ vụ
đòi hỏi phải “lên đường” đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là phô diễn
phép lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin vui về Ơn
Cứu Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ rao
giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận của Ngài
rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người “Nước Thiên Chúa
đã kề bên họ”, phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời xác nhận
cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó” (c.
38d). Câu nói: “Vì Thầy đến” mang đầy ý nghĩa cao với. Trong Phúc âm Gioan, để
diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau này sẽ nói rằng “Ngài đến từ
Thiên Chúa”, đây là một lời xác nhận về thiên tính của Ngài (Ga 8,42; 13,3;
16,27-28).
Bản văn đã kết thúc
bằng một hành vi mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận ra Caphanaum chỉ
là một điểm tựa trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng
“trong toàn xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có biên giới phân cách
rõ rệt với các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh đất tuyệt vời để thi
hành một sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa Giêsu rao giảng trước
tiên trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng thường tập trung cầu
nguyện và nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung lời rao giảng bằng các
hành vi trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối thượng của Ngài (1,27).
Chương này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã biết liên kết thật kỳ
diệu mọi đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi người sứ mệnh “Mêsia” của
Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với việc loan báo Tin Mừng và
với các “dấu chỉ” minh xác về thân thế Ngài.
Chú giải của Fiches Dominicales
TỪ HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP
MIỀN GALILÊ. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ âm thầm trong
“nhà”
Ba câu chuyện nhỏ xảy
ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau
như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm
thầm trong “nhà của ông Simon" (Phêrô); rồi đến "ngoài cửa”, nơi
"cả thành xúm lại”, sau cùng là "một nơi hoang vắng” ở đó, trong lúc
Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền
giáo.
Đức Giêsu, có các môn
đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến "nhà hai ông
Simon và Anrê “. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày
hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo
cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến "căn nhà mà
Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa
điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị
trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô thuật tiếp:
"Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu
chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những
hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung:
"nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét
các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ
tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ
giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi
kiệt” (Lv 26, 15-16a).
J . Pótin chú thích
thêm: "người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên
tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần;
vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội" ("Jésus, lhistoire vraie",
Centurion, trang 162 ) .
Câu chuyện được tiếp
tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.
Trước tiên là sự
thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: "Lập tức họ nói cho Người biệt
tình trạng của bà”.
Tiếp đó là cử chỉ
chữa lành: "Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.
Dưới ánh sáng Phục
Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và
cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là điều được ám chỉ
một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp,
động từ "đỡ dậy" cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu:
"Người đã chỗi dậy rồi" (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong
khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức
Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của
sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là "Đức Chúa và Đấng
Kitô" (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài
người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết" ("LEvangile
de Marc", Centurion, trang 33).
Người bệnh bỗng phút
chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà
bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người
Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki
tô đã đến "cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi
đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình: "Cơn
sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho
thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình,
Máccô chắc chắn nghĩ đến việc "phục vụ " Đức Kitô mà mỗi Kitô hữu
được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của người
khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó " (Sđd) .
2. Rồi đến “trước
cửa” có “cả thành xúm lại”:
Khi mặt trời lặn, đối
với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.
Hết bị ràng buộc bởi
những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở
lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu "mọi kẻ ốm đau
và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, "cả thành xúm
lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một
nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài:
"Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.
- Người ra lệnh cho
chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong
hội đường (c.25): "Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.
M.E.Boismard đặt câu
hỏi: "Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1
câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?…Vào
thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi
vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi
anh hùng giải phóng đến để "khôi phục lại vương quốc Israel" (Cv 1,
6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện
công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải
thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người
bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt
giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ.
Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người
là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh
lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là "bí mật Mêsia" (“Jésus, un
homme de Nazareth", Cerf, trang 46-47).
Danh hiệu "Đấng
Kitô" và "Con Thiên Chúa" chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày
dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự
sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu
chết.
3… Và “những nơi
khác" phải đến để rao giảng:
Các câu từ 35 đến 39
đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum
và mở rộng ra khắp miền Galilê.
Trái ngược hoàn toàn
với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức
Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.
- Chúng ta đang ở vào
lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong
tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, "ngày của Chúa".
Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng
của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám
đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật
với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E.
Boismard chú giải, "Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự
tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều
lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa" (Sđd, trang 49).
Các môn đệ thì chạy
đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó "mọi người
đang tìm Thầy". Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi
trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. "Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xă chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó”.
Từ đó, "Người đi
khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin
Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài câu Tin Mừng ở
trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu
nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của
sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi
kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng,
người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: "Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó". Các
phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một "nơi khác như thế
("Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô
rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể
được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử
bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến
một nơi các: "Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc" (13,10)
("L'evangile se lon saint Marc", Cerf, trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Cầu nguyện và
truyền giáo"
(Mgl. L.Daloz, trong
"Qui dong est-il?", Desclée de Brouwer, trang 17).
"Cuộc đời của
Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra
đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi
tìm Chúa và quấy rầy Người: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong cuộc
sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện.
Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha,
trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “ Thầy phải lo việc của Cha Thầy".
Người là Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi
đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người.
Nhưng Người đi nơi khác, "đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của
sứ vụ truyền giáo của Người: "Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Mối
tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ,
lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với
Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ . Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ
thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người".
2. “Một bài giáo huấn
về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật"
(F. Deleclos, trong:
"Prends ét mang La Parole, "Centurion - Duculot, trang 137-138).
"Đoạn Tin Mừng
kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là “chuyện
nhỏ”, nó xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn
Tiệc ngày Chúa- nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin,
làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ
vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui
hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không
chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl
28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để
phục vụ bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức
của đau khổ".
3. "Phép lạ chữa
lành như là dụ ngôn về sự sống lại"
(H. Denis, trong
"100 mots pour dire Jésus", Desclée de Brouwer, trang 183).
"Lạy Chúa, con
chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con
được lành mạnh”.
Câu kinh đọc trước
Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm
nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như
ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng
tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà
người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không
chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không, đến để chữa
bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ
Người không bảo: "Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng: "Đức Tin đã cứu
con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức
Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép
lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà chú giải hiện nay
đã có một nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều.
Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài
Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế
chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của
Chúa".
Ðời Sống Thường Nhật
Mc 1, 29-39
An Phong, OP
Thánh Máccô trình bày một ngày
làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng
Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện
"gia đình" của những người thân thuộc, nhưng không quên ra đi
"đến các làng xã chung quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta
thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Ðức Giêsu. Cuộc đời phong phú của
Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh : chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc
nước, với Chúa Cha và với con người... Ðời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực
cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng
ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau : ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi
giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm,
linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả
những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa
Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận
ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng
thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội
thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với
nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy,
những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối liên đới hữu ích và sung mãn
trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Ðức
Kitô, chính Thánh Thần của Ðức Kitô là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh
Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống nhất với Ðầu là Chúa Kitô,
trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được
rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không
có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên
kết với một linh đạo khác thì chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô
được.
Trong "một ngày sống"
của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất
cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm
nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.
Chúa đã sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.
Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng con,
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đã từng sống.
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đã từng sống.
CON ÐƯỜNG NÀO CHÚA ÐI
Mc 1,29-39
Như Hạ, OP
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm
sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại còn đầy những
người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài lề xã hội ? Làm sao hạnh phúc khi
con người chưa được làm người vì bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền
thống lỗi thời ?
THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể
đem lại mùa xuân cho nhân loại. Ðức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy sức
mạnh phá tan mọi đau khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi
Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là sức mạnh đó. Người biết rõ đau khổ xuất phát tự
đâu, tự mối tương quan bị đổ vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính
của sự đổ vỡ đó là ma quỉ. Nhưng ma quỉ cũng không làm gì được nếu con người
không muốn. Cuối cùng chính vì lòng tham dục của con người, tội lỗi đã lọt vào
trần gian và gây nên đau khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có gì mâu thuẫn
giữa quan điểm Phật giáo và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô
giáo phân biệt những dục vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính
kiêu ngạo đã đẩy con người lên cõi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đã
vỡ mộng. Do đó có đau khổ. Hạnh phúc trở thành giấc mơ.
Nhưng có những đau khổ không tùy
thuộc vào dục vọng hay ý muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng
những thiên tai khủng khiếp. Biết bao sinh linh đã bị chìm ngập trong dòng nước
lũ tại miền Trung hay tại Venezuella vừa qua. Chính ông Job đã kinh nghiệm sâu
xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể hiểu nổi chương trình quan phòng của Thiên
Chúa. Cuộc đời như chìm trong sự nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đã
thốt lên : "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không
một tia hi vọng. Lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ" (Jb 7:6-7).
Ðức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội
của một cơ chế bất công. Nhưng Người đã tìm thấy ý nghĩa và niềm hi vọng ngay
trong những đau khổ. Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con
người. Bởi thế, Người đã ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành
trong thân xác và tinh thần con người. Ðiển hình, Người đã chữa lành "bà mẹ
vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường" (Mc 1:30). Khắp nơi
"Ðức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều
quỷ" (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như giới hạn nhốt chặt thân
phận con người. Chính vì thế, quyền năng Thiên Chúa đến như một sức mạnh giải
thoát. Nếu đời là bể khổ, Ðức Giêsu đã lặn ngụp xuống bể khổ đó và đẩy nhân
loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đã dùng chính những cay đắng của
bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, nước
bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi hám thế tục. Nhờ đó,
hình ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người và cuộc đời Kitô hữu.
SỨ MỆNH GIẢI THOÁT
Ðức Giêsu đã dùng quyền năng
Thiên Chúa để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản
chất, Tin Mừng là một sức mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao
giảng tới đâu, niềm vui dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc tìm Ðức
Giêsu, các môn đệ reo lên : "Mọi người đang tìm Thầy đấy !" (c.37).
Nhưng chính lúc mọi người tìm
Thầy, Thầy lại không muốn dừng lại để hưởng trọn lòng ngưỡng mộ đó. Thầy không
bằng lòng với những gì đã làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua.
Còn nhiều nơi khác, nhiều người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy.
Chính Thầy đánh thức các ông khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy :
"Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao
giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (c.38). Tin Mừng phải
hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi. Cảnh nhân loại khổ đau đã
thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng:"Người đi khắp miền Galilê, rao giảng
trong các hội đường của họ, và trừ quỷ" (c.39).
Ðó là cách Người thi hành sứ mệnh
rao giảng Tin Mừng. Nói khác, "đối với thánh Marcô, Ðức Giêsu rao giảng
Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm toàn thể biến cố, lời nói và hành động"
(Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần
chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần. Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những
hình ảnh linh động. Ngang qua hành động, Tin Mừng đã được công bố cho muôn dân.
"Phép lạ là Tin Mừng đang hành động" (Dupuis 1995:280). Cộng thêm với
lời Ðức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con người chấp nhận Nước Thiên Chúa.
Nhất là khi trừ quỷ, Ðức Giêsu càng tỏ rõ uy quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin
Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đã đến ngày tàn. Ðức Giêsu đã mở ra một chân
trời mới, phóng tầm nhìn nhân loại tới Nước Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự
do. Từ nay con người sẽ không còn phải gò bó trong những đòi hỏi luân lý cứng
ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng vì Nước Trời đã đến nơi con
người Ðức Giêsu Kitô.
Tin Mừng Ðức Giêsu đã đem lại
nguồn an ủi và hi vọng lại cho bao người sầu khổ và thất vọng. Vì Ðức Giêsu đã
hoàn toàn đồng hóa với những người nghèo và Tin Mừng đã được rao giảng cho họ
trước tiên. Tất cả những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xã hội
đều góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa. Vì chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui
giải thoát nhờ cái chết và sự phục sinh của Ðức Giêsu. Người không chấp nhận
đối xử phân biệt với những người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại
những cơ cấu xã hội và tôn giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng
cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích
giải phóng toàn diện con người. "Người không phải là một nhà cách mạng
chính trị, nhưng cuộc sống và cái chết của Người có một chiều kích chính trị,
vì Người có những thái độ thách thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và
chính trị" (Dupuis 1995:281).
Cũng thế, Giáo hội không phải là
một tổ chức chính trị. Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người
nghèo bị đàn áp bất công. Vì "thúc đẩy thực hiện công lý và tham gia vào
việc biến đổi thế giới là một "chiều kích cốt yếu" của sứ mệnh Phúc
Âm hóa của Giáo hội." (Dupuis 1995:282) Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu
sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết. Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ
chế tôn giáo và xã hội bất công, người môn đệ Ðức Kitô có nghe thấy những tiếng
rên siết của bao người bất hạnh đó không ? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại
mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang đến trên quê hương, vì các môn đệ Ðức
Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được
kể vào số những môn đệ đó không ? Tôi có sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện
chí và can đảm đối diện với những thách đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no
cho mọi người không ?
Kiên Nhẫn Như Ông Gióp
(Mc 1, 29-39)
Fr. Jude Siciliano, OP
Thưa quí vị.
"Kiên nhẫn như ông
Gióp" là câu nói đầu lưỡi của thế giới công giáo, phổ thông nhất là ở ngôn
ngữ các nước tây Âu. Nó ngụ ý tán thưởng những ai kiên cường chịu đựng nghịch
cảnh lâu dài. Nhưng chắc chắn bài đọc một hôm nay không chứng minh được điều
đó. Ngược lại, bài đọc cho thấy trong đau khổ, ông cũng phẫn uất như ai :
"Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và
chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê ?" Hoá ra ông Gióp
chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan bình dân thời đó thì khổ đau là
hình phạt của những điều dữ người ta đã phạm. Nhưng xét trong lương tâm, ông có
làm gì xấu đâu ? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong thế này : Con
cái chết hết, của cải tiêu tan, mình đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh, cả đến người
vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: "Ông còn kiên vững trong
đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi ? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi
cho rồi" (G 2,9). Ông Gióp đã không hiền lành chấp nhận số phận. Ông phản
kháng và lý lẽ của ông có phần thuyết phục. Lời cầu khẩn đó xem ra khuyến khích
những ai đang chịu đựng cuộc đời gian truân, túng quẫn được phép ta thán trước
Thiên Chúa . "Kiên nhẫn như ông Gióp" xem ra không còn mấy ý nghĩa.
Vô số người dám gán cho Thượng đế
là nguyên nhân gây nên những bất hạnh của mình, bởi mặc dầu đã cố gắng hết sức
ăn ngay ở lành, đáng được Thiên Chúa thương gởi tới điều may mắn. Thì thực tế
không phải vậy, toàn gian truân, khổ dịch. Lại có những người khác không dám mở
miệng kêu ca, mà giữ im lặng khó hiểu với tâm can uất ức. Lâu dần họ trở nên
lạnh lùng, thù địch cùng Thiên Chúa. Trong thánh kinh Cựu ước chúng ta cũng
thấy vô số lời phàn nàn trước tôn nhan Thiên Chúa, nhất là trong các thánh
vịnh: "Ngày con kêu cứu không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng được
yên" (Tv 22,3). Suy nghĩ kỹ, những lời than vãn như trên không phải để
trách móc Thượng đế mà để bày tỏ cảm xúc chân thực của lòng mình. Chúng có khả
năng làm tan biến thái độ đạo đức giả hình, dồn ép, sơ cứng. Càng trung thực
bao nhiêu thì càng đạo đức bấy nhiêu. Chúng ta có quyền giải bày lòng mình
trước Thượng đế, Ðấng có thể thay đổi sự việc, bằng không, chúng ta là những kẻ
thụ động nhu nhược.
Trong quá trình sống, nhiều lúc
tình hình xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát, có bàn tay nào đó điều khiển cuộc đời
chứ không phải đương sự. Chúng ta tự hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây
?" những khổ dịch, những sự dữ chúng ta kinh nghiệm chắc chắn không phải
do bàn tay Thiên Chúa yêu thương. Ông Gióp cũng cảm nhận như vậy khi nói :
"Chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê ?" Thuê mướn
là công việc của người khác, làm sao chúng ta có quyền kiểm soát ? Ngày của một
người nô lệ là khổ dịch dưới sức nóng ghê gớm của ánh nắng mặt trời. Người nô
lệ luôn khát khao bóng mát. Ấy cũng là tâm trạng của ông Gióp, của mỗi người
chúng ta. Nhưng vấn đề là điều chi đã sui khiến nên như vậy ? Ông Gióp đã phạm
lỗi gì ? Còn tội của mỗi người chúng ta thì đã rõ. Vì vậy những lời ta thán của
tác giả sách Gióp cho độc giả biết tính mỏng dòn của thân phận con người.
Chúng ta cảm thấy như đi trên mặt
hồ đóng lớp băng mỏng, có thể chìm xuống nước lạnh bất cứ lúc nào ! Trước tình
thế như vậy, dù có sống tốt thì cũng không thể tránh khỏi hoạn nạn. Và khi nghe
đọc bài sách thánh chúng ta có khuynh hướng bịt tai, la lớn như đứa trẻ khi
nghe cha mẹ doạ nạt, hoặc nói về những điều chúng không ưa thích. Dĩ nhiên bây
giờ chúng ta đã lớn, ý thức được những hành động mình làm. Nhưng chúng ta lại
có những thái độ để khỏi phải nghe điều mình không ưa, như thay đổi đề tài, nói
lảng sang chuyện khác. Chúng ta né tránh những điều mình không muốn nghe : bệnh
tật, tuổi già, ly dị và các hậu quả tai hại v.v… chỉ thích nghe những điều lạc
quan, như tuổi trẻ, sắc đẹp, thể thao, kỹ thuật mới v.v… Cho nên lời của ông
Gióp trong phụng vụ hôm nay khó mà lọt thủng tai. Dầu sao một ngày nào đó trong
tương lai, mỗi người đều phải thốt lên : "Gia tài của tôi là những ngày
tháng khốn cùng, số phận của tôi là những đêm khắc khoải ê chề."
Tôi đã cố gắng tìm ra khía cạnh
lạc quan, ơn thánh trong đoạn văn này - nó kết thúc quá ư buồn thảm : "Tôi
sẽ chẳng được trông thấy hạnh phúc nữa đâu !"- Khi trước ông Gióp đã là
người giầu có, phát tài, của cải nhiều vô kể mà nay rơi vào cảnh khốn cùng, thì
lời yếm thế của ông thức tỉnh tinh thần tôi, không thể cậy nhờ vào vật chất
chóng qua mà phải trông mong vào một mình bàn tay Thiên Chúa mà thôi. Tôi phải
rút ra từ cuộc đời ông Gióp một bài học quí giá, không chi so sánh nổi. Ðó là
vững tin vào lượng hải hà của Thiên Chúa. Ngài chẳng bao giờ nỡ bỏ quên chúng
ta để chúng ta thất vọng trong vòng kiểm toả của tử thần. Trong lúc khốn cùng
ông Gióp đã cố gắng khơi dậy niềm tin. Ông kêu lên : "Lạy Ðức Chúa, xin
nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở…" Ông không phải là nguồn gốc sự sống
của mình, ông hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, Ðấng đã dựng lên ông, ông như
thể muốn nói với Thượng đế : "Lạy Ngài xin nhớ lại, Ngài đã dựng nên con
bằng gì ! Con hoàn toàn mỏng dòn, chỉ là hơi thở, một cơn gió thoảng cũng có
khả năng làm nó tiêu tan. Xin nhớ lại con chẳng là chi cả, là hư vô, con hoàn
toàn lệ thuộc vào Ngài để được sống, được tồn tại !"
Ông Gióp muốn gợi lại tương quan
giữa Ðấng tạo hoá và tạo vật. Hơi thở trong nguyên bản là "ruah". Nó
có hai nghĩa, vừa là gió thổi, vừa là thần lực phát xuất từ Thiên Chúa thâm
nhập vào các tạo vật để ban cho chúng sự sống. Cuộc sống con người đúng thực
mỏng manh như gió thổi, như mây nổi, như chiêm bao, như bóng ngựa qua cửa sổ,
nhất là trước những khổ đau và hoạn nạn. Nhưng cuộc sống con người cũng đến từ
hơi thở của Thiên Chúa tức là từ nguồn mạch bền vững và đời đời. Thiên Chúa
không thể nào bỏ quên hơi thở của mình. Do đó ông Gióp hy vọng vào sự cứu giúp
của Thượng đế. Hy vọng của ông Gióp cũng là hy vọng của mỗi linh hồn tín hữu
chúng ta.
Tin mừng hôm nay có cả thảy bốn
nội dung. Hợp với Phúc âm tuần vừa rồi, chúng làm nên "một ngày hoạt động
của Ðức Giêsu". Có rất nhiều điều xảy ra trong ngày đó. Chúa Giêsu rất bận
rộn, Ngài hoạt động liên tục. Thiên Chúa cũng rất bận rộn, tất bật. Ðó là ngày
thứ bảy- ngày nghỉ của con cháu loài người, và xúc vật. Nhưng Thiên Chúa lại
liên tục thi ân, giáng phúc trên những tạo vật của Ngài. Sự việc xảy ra ở thành
phố cảng Capharnaum (người ta gọi là thành phố của Chúa Giêsu), không phải ở
Giêrusalem. Thời ấy Giêrusalem là nơi duy nhất có hy lễ hiến tế. Tín hữu bình
thường hoạ hiếm mới được đến đấy. Thường thì họ đi thờ phượng ở các hội đường
trong làng mạc hay thành thị. Họ đến để cầu nguyện và nghe giáo huấn.
Chúa Giêsu rời hội đường
Capharnaum, nơi Ngài đuổi quỉ ô uế, chữa lành một người điên khùng và bước vào
nhà hai anh em Anrê và Phêrô. Lập tức người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình
của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài tiến lại chỗ bà nằm "cầm lấy tay bà và
đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." Nghe như một câu chuyện
bình thường, nhưng thực ra thánh Marcô đã dùng ngôn ngữ Tân ước để mô tả câu
truyện khỏi bệnh. Chúa Giêsu nâng bà dậy. Ðó là từ ngữ để diễn tả Chúa làm cho
kẻ chết sống lại. Người được chữa lành có sức sống mới. Sự sống của kẻ phục
sinh. Chỉ một mình Chúa Giêsu có quyền ban cho, ngoài ra không ai làm được việc
đó cả.
Sự sống mới đó thế nào ? Kinh
Thánh nói khi bà mẹ vợ ông Phêrô được chữa khỏi, bà liền đi phục vụ các ngài.
Phục vụ trong gia đình là bổn phận của nữ giới. Nhưng thánh Marcô lại dùng từ
"diakoneo" từ này chỉ iocông việc phục vụ trong hội thánh. Tiếng Anh
gọi là "deacon". Tiếng Việt nam mình gọi là phó tế. Rõ ràng ám chỉ
phục vụ cộng đoàn. Khi người ta kinh nghiệm được Chúa Giêsu ban ơn phục sinh,
họ lập tức bị thúc đầy phục vụ Giáo hội, phục vụ các linh hồn. Họ muốn chia sẻ
những ơn đã lãnh nhận với người khác. Không muốn phục vụ hội thánh là dấu chỉ
chắc chắn chưa nhận được ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Một tư tưởng đáng sợ cho
mọi tín hữu. Ngược lại những linh hồn hồ hởi làm việc tông đồ là những người đã
được lãnh nhận ơn Chúa sống lại. Theo kinh nghiệm thì những tín hữu hăng say
việc tông đồ thường nói rằng : Họ được lợi rất nhiều khi hết mình phục vụ Hội
thánh. Không ca thán, không đòi hỏi. Họ đã được sung mãn trong cộng việc của
mình. Họ còn cho biết rằng khi làm công việc ấy hình như Chúa Giêsu đang cầm
lấy tay họ nâng đỡ dậy.
Tóm lại, chẳng có câu trả lời dễ
dãi cho vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ, kiểu như ông Gióp. Thực ra đau
khổ là một mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của chúng ta. Nhưng ông Gióp chỉ
là câu chuyện tưởng tượng, tác giả đặt ra để thử giải quyết vấn đề. Quyền năng
của Chúa Giêsu chữa lành các đau khổ bệnh tật của nhân loại là điều có thực.
Không ai chối cãi được. Chúa Giêsu, Ðấng vô tội đã tự nguyện gánh tội loài
người để giải phóng chúng ta, cho chúng ta đựơc tự do. Ðó cũng vẫn là điều
nhiệm mầu không thể hiểu thấu. Chúng ta cử hành và dấn thân vào mầu nhiệm đó.
Ðiều mà Chúa làm cho bà mẹ vợ ông Phêrô ngày xưa, Ngài cũng còn thực hiện cho
chúng ta hôm nay. Xin ý thức rõ ràng về điều này. Ngài giơ tay nâng chúng ta
dậy khỏi tội lỗi, đau khổ và sự chết, ban cho chúng ta sức sống phục sinh để
chúng ta trông thấy các nhu cầu của anh chị em đồng loại và đáp ứng những nhu
cầu đó trong nghị lực và niềm vui. Amen.
Một Đời Thương Cảm
Mc 1,29-39
G. Nguyễn Cao Luật, OP
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào
bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Ðã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có
ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Ðã có thời thanh xuân thì cũng có thời
già lão. Ðã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh.
Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp
nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi
lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Ðoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm
nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ
xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm
bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu
với bệnh tật và khổ đau không dứt ... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình
cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã
của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái
oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa
khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế : chiến
tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một
thiểu số gây ra ... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng
như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau
khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những
đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy : ông xin Thiên Chúa
cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa
đã hoàn thành. Ðấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ
nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Ðức Giêsu đương đầu với
quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều
người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa
bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Ðức Giêsu. Một ngày
chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh,
xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ.
Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi
chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu
thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Ðức
Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải
bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi
không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy
các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14 ; Mt 8,17) và
dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế
nào là vâng phục ... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ
được tại sao Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng
cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Ðấng cứu loài người khỏi khổ đau và
chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế ?
Ðể thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để
được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc
muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người
bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ
theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của
ông Phê-rô, Ðức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn
những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.
Ðức Giêsu muốn cộng đoàn những
người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn
cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh
Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô
lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu
rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay
tức khắc như Ðức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng
thương cảm, một lòng thương cảm mà Ðức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm
cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi
sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người.
Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về
Ðức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Ðức Giêsu lại tiếp
tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Ðức Giêsu lại lan
rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài
khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong
Thánh Kinh ... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại
cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của
con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra
Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được
Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài
? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà
con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè
trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó.
Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn.
Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân
lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của
Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài
vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân
hoan trong Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la
mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu
dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho
dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí
phàm trần khốn khổ. ...
Lạy Chúa, Con là người được sai
đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn,
không còn danh hiệu nào vinh dự hơn. ...
Ðể đem lại Ánh sáng, để thông
chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con. ...
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi
thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai
con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm
vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi
khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp
sự bất xứng của con. (K. Rahner)
Tình thương cứu chữa
(Mc 1,29-39)
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu
chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng
chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều
người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào : Ngài có phải là một
nhà chuyên môn làm phép lạ không ? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một
Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái ? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im
lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài
tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những
việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng : Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét
cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được
Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm
về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và
Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức
là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng,
giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và
sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như
vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con
người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc
mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì ? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa
muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để
tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia
tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người
Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét
là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người
biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ
con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét
tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ
có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu
Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể
hiện rõ hơn : nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau
đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở
chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang
lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật,
điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý
giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta
đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời
cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của
một người kia đã kể cho linh mục Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong
một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau : “Tôi đau rất nặng, người ta đem
tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra
rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị
quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi : “Chị quì làm gì thế ?”, chị trả lời :
“Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay
không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá
ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và
những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê
là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi
tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn
sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng
như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy ? vì sao ông
có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết ? Ông trả lời : “Vì
thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo,
ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các
bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với
các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính
Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng
viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo
phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước
khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được
bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu
nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện,
chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là
bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và
giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta
hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của
mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay
làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa
họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương,
chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
Lời Chúa Và Thánh Thể
Thiên Chúa nhân hậu lau sạch nỗi khổ đau
Mc 1, 29 – 39
Trong thân phận xác phàm, mỗi
người đều trải nghiệm và đi qua hành trình sinh lão bệnh tử. Những yếu đau thể
lý là lẽ thường trong cuộc đời con người. Nhạc mẫu ông Phêrô với cơn sốt hành
hạ vẫn đang phải mệt nhọc chống trả trên giường bệnh. Thế giới cũng đang có
những biến chuyển lớn diễn ra giữa lòng xã hội với những biến động kinh tế,
chính trị và cả văn hoá đã tạo nên những cơn sốt nơi xã hội hiện đại theo chiều
hướng tăng dần.
Song song với những cơn sốt dễ
nhận biết của thế giới, thì vẫn tồn tại những cơn sốt xuất hiện trong chính mỗi
một người có hình thái khó nhận diện và có cường độ cao hơn. Đó là cơn sốt
quyền và lợi với thái độ khước từ và loại trừ mạnh mẽ, đang ngày càng làm bùng
nổ những cuộc tranh giành không khoan nhượng giữa các quốc gia, giữa những
người đồng bào, đồng đạo và thậm chí giữa những người thân thuộc. Đó là cơn sốt
kỳ thị xâm chiếm tâm trí khiến con người vô tâm quay lưng trước nỗi khốn khó
của người thân cận.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi
người chúng con hằng ngày học hỏi, lao động, khám phá để kiến thiết một thế
giới tiện nghi, hiện đại hơn về vật chất. Nhưng những biến cố diễn ra nơi này
nơi khác và có khi diễn ra ngay chính trong cuộc sống và trong con người chúng
con lại cho thấy một thế giới đang bị tan vỡ bởi chiến tranh, bất công và sự kỳ
thị, loại trừ. Lạy Chúa, cơn sốt là phản ứng báo hiệu một sự bất thường có hại
cho cơ thể, xin giúp chúng con có được trái tim nhạy cảm và trắc ẩn để đủ sức
nhận diện những cơn sốt báo hiệu những mối nguy hiểm của sự dữ đang phá vỡ tình
người, tình huynh đệ và làm mất dần cảm thức về tội trong tâm hồn chúng con,
xin Ngài hàn gắn những rạn nứt trong các mối tương quan giữa mọi người do sự
thiếu vắng tình thương, tình người nơi tâm hồn nhân loại.
Những con người trong Tin Mừng
hôm nay đã rất vui mừng khi gặp thấy Đức Giêsu, họ đến với Ngài và xem Ngài như
một người mang niềm hy vọng xoa dịu nỗi đau đớn thể xác cho họ. Người đã cầm
lấy tay bà mẹ vợ ông Phêrô và từng con người đau khổ, Người chữa lành và xua
trừ mọi ác thần để giải phóng mọi cơn bệnh, mọi nỗi bất hạnh đang đè nặng thân
xác con người.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi Kitô hữu
chúng con được mời gọi minh chứng cho Tin Vui chữa lành. Tin Vui ấy chỉ thực sự
đến với mọi người và hữu ích cho nhiều người nếu chúng con có được một thái độ
thân ái không giả tạo khi gặp gỡ nhau và một tâm hồn rộng mở không nghi kỵ, xét
đoán hay tư lợi mỗi khi kết giao cùng mọi người. Chúa đã đến và đưa tay nâng đỡ
để chữa lành những kiếp sống khổ đau bằng chính lòng thương xót của Ngài. Xin
cũng dạy chúng con ý thức mình cần trở nên khí cụ trong tay Chúa để góp phần
nhỏ bé xoa dịu những nhọc nhằn của anh chị em chúng con gặp gỡ trên đường đời
về thể xác cũng như tinh thần, vì chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính
lúc quên mình là lúc gặp được bản thân và chính lúc mất đi là khi vui sống muôn
đời. Amen
Cầu Nguyện Có Sức Biến Đổi Con Người
Mc 1, 29-39
Giuse Hoàng Hải Đăng, OP
Cộng đoàn thân mến !
Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm
việc với bao vất vả và lao công khổ trí, với bao lo âu và căng thẳng. Giờ đây,
trong bầu khí linh thiêng nơi đền thánh này, cộng đoàn chúng ta xum vầy bên
nhau để cầu nguyện, hầu kín múc cho mình những nghị lực mới và những niềm hy
vọng mới từ nguồn suối ân sủng bất tận của mầu nhiệm Thánh Thể.
Đây chính là cách thức hành động
của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Sau một ngày bận rộn với
công việc chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng, Người tìm một nơi thanh vắng để cầu
nguyện với Chúa Cha. Điều đó cho thấy đối với Chúa Giêsu, việc cầu nguyện là
quan trọng, là điều không thể thiếu trong cuộc đời của Người. Vì thế, trước khi
bắt tay vào làm việc, Chúa Giêsu thường cầu nguyện với Chúa Cha để kín múc lấy
nguồn sức mạnh cho các hoạt động truyền giáo sau này. Và đỉnh điểm của nguồn
sức mạnh linh thiêng này được Người biểu lộ trên Thánh giá khi Người cầu
nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)
Cảm nhận sâu xa nguồn sức mạnh
của cầu nguyện, Người không ngừng mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Bởi chỉ trong cầu nguyện, chúng ta mới kín múc được suối nguồn ân sủng của
Thiên Chúa. Nguồn ân sủng dẫn đưa chúng ta đến chỗ trở nên một phần trong sứ vụ
của Chúa Giêsu trong việc dẫn đưa mọi người vào trong sự mật thiết với tình yêu
Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương
cầu nguyện không biết mệt mỏi của thánh nữ Monica, mẫu thân của thánh Âutinh.
Suốt hai mươi năm, thánh nữ đã khóc hết nước mắt và liên lỉ cầu xin Chúa hãy
cứu vớt con trai mình. Cuối cùng, Thiên Chúa đã thương nhận lấy những giọt nước
mắt và lời cầu nguyện của thánh nữ mà cho thánh Âutinh quay trở về với Thiên
Chúa. Sau này, thánh Âutinh trở thành một vị thánh cả trong Giáo Hội.
Như vậy, chính sự cầu nguyện thẳm
sâu đã nối kết tâm hồn thánh Monica với Thiên Chúa và đem lại cho thánh nữ sức
sống vượt lên trên mọi thử thách, đau khổ. Nhờ đó mà thánh nữ không chỉ biến
đổi chính mình mà còn làm biến đổi người con mà thánh nữ hằng nhớ đến trong
những lời cầu nguyện.
Và để có được đời sống cầu nguyện
thẳm sâu như thánh Monica, chúng ta hãy học ở nơi người sự tín thác vào Thiên
Chúa. Nhờ tín thác vào Thiên Chúa mà chúng ta không chỉ gặp gỡ Người trong
tiếng thì thầm và trong tiếng gió hìu hiu mà còn gặp gỡ Người giữa những cơ cực
của trần thế, trong những nỗi khốn quẫn và hân hoan của đồng loại. Nhờ đó,
chúng ta mang trong tâm hồn mọi đớn đau, sầu khổ; mọi sự đói, cô đơn và cùng
khốn của con người.
Và cũng nhờ cầu nguyện, chúng ta
để cho sự ấm cúng của tình yêu Thiên Chúa làm tan chảy băng giá của sự hận thù,
để cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa mở ra một không gian nơi niềm vui khỏa lấp
nỗi buồn; để cho sự hiền lành và ấu yếm của Chúa xua tan sự ghen ghét, sự hững
hờ. Như thế, cầu nguyện chính là phương thế tốt nhất đưa dẫn mọi đau khổ tới
nguồn mạch của mọi sự chữa lành.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Đôi khi vì thiếu lòng tin, chúng
con đã không còn thấy nhu cầu để cầu nguyện. Vì những bận rộn, lo toan trong
đời sống mà chúng con không còn muốn chạy đến với Thiên Chúa. Nhất là vì thấy
những lời cầu xin của mình không được như ý nên chúng con cảm thấy chán nản,
thất vọng và buông xuôi. Xin ban cho chúng con niềm tin mạnh mẽ để chúng con
tin rằng những lời cầu nguyện của chúng con nhất định sẽ được Chúa nhậm lời. Để
từ đó, chúng xác tín rằng cầu nguyện là lẽ sống, là hơi thở của đời con. Và một
khi đã xác tín như thế, chúng con sẽ sẵn sàng dành trọn 30 phút mỗi ngày cho
việc cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho
con luôn biết phó thác cho tình yêu bao la và quan phòng của Thiên Chúa trong
từng giây phút đời con để trong con không còn một khát vọng nào khác ngoài sự
kết hiệp mật thiết với Chúa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét