Trang

Chủ Nhật, 14 tháng 1, 2018

SUY NIỆM THÁNH VỊNH 39, 71 VÀ 88 - LM. PHÊRÔ PHẠM NGỌC LÊ

SUY NIỆM THÁNH VỊNH 39, 71 VÀ 88 - LM. PHÊRÔ PHẠM NGỌC LÊ
Suy Niệm Thánh Vịnh 39
 
1 Phần nhạc trưởng. Của vua Đa-vít. Thánh vịnh.

2          Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA,
            Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.
3          Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong,
            khỏi vũng lầy nhơ nhớp,
            đặt chân tôi đứng trên tảng đá,
            làm cho tôi bước đi vững vàng.
4          Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới,
            bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.
            Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ
            và tin tưởng vào CHÚA.
5          Phúc thay người đặt tin tưởng nơi CHÚA,
            chẳng vào hùa với bọn kiêu căng
            và những kẻ theo đường gian ác.
6          Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,
            những kỳ công Ngài đã thực hiện
            và những điều Ngài dự định cho chúng con :
            thật là nhiều vô kể !
            Không một ai sánh được như Ngài.
            Dầu con muốn loan đi kể lại,
            nhưng quá nhiều, đếm nổi làm sao !
7          Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật,
            nhưng đã mở tai con ;
            lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi,
8          con liền thưa : "Này con xin đến !
            Trong sách có lời chép về con
9          rằng : con thích làm theo thánh ý,
            và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."
10        Đức công chính của Ngài,
            con loan truyền giữa lòng đại hội ;
            lạy CHÚA, Ngài từng biết : con đâu có ngậm miệng làm thinh.
11        Đức công chính của Ngài,
            con chẳng giữ riêng lòng mình biết ;
            nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài,
            chẳng giấu giếm chi cùng đại hội
            rằng Ngài thành tín và yêu thương.
12        Phần Ngài, muôn lạy CHÚA,
            xin chớ ngừng âu yếm cảm thương con.
            Lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ giữ gìn con mãi.
13        Tai hoạ bủa vây con hằng hà sa số,
            tội ác con đổ xuống trên mình, làm tối tăm mặt mũi,
            thật nhiều hơn cả tóc trên đầu, khiến rụng rời tâm trí.
14        Lạy CHÚA, xin thương tình cứu con,
            muôn lạy CHÚA, xin mau phù trợ !
15        Ước gì những kẻ tìm cướp mạng sống con,
            đều phải nhơ nhuốc thẹn thùng !
            Ước gì bọn đắc chí vì con mắc hoạ
            phải tháo lui nhục nhã !
16        Những đứa cười ha hả nhạo con
            phải thẹn thùng chết điếng !
17        Ước chi mọi kẻ tìm kiếm Chúa,
            đều mừng vui hoan hỷ trong Ngài !
            Và những ai cảm mến ơn Ngài tế độ
            luôn nói rằng : "ĐỨC CHÚA vĩ đại thay !"
18        Thân phận con khốn khổ nghèo hèn,
            nhưng Chúa hằng nghĩ tới.
            Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, 
            lạy Thiên Chúa con thờ, xin đừng trì hoãn !
 
Cùng Đọc Với Dân Ítraen

Nhịp điệu của Thánh Vịnh tạ ơn này thật hay: trước tiên là lời kêu cầu từ một tình huống thảm khốc, tiếp đến là hành vi tạ ơn sau khi được nhận lời. Chưa hết, lại còn dâng lời khẩn nài mới trong những thảm họa mới.

Một vài hình ảnh:
Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong,/khỏi vũng lầy nhơ nhớp, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu /đặt chân tôi đứng trên tảng đá, /Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, /nhưng đã mở tai con ; /và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con." Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh./tội ác con đổ xuống trên mình, làm tối tăm mặt mũi…

Điều kinh ngạc (Lời sấm ngôn cho tương lai): người kêu xin dâng lễ hy sinh theo nghi thức tại Đền Thờ, cùng với cộng đoàn vây quanh… nhưng tìm đâu lễ vật? Họ tự hỏi như thế. Câu đáp thật lạ lùng: Thiên Chúa không ưa thích các thú vật làm hy lễ…điều vui lòng Thiên Chúa, chính là từng giây phút sống thánh ý Ngài, hiến tế chính mình bằng tình yêu.
 
Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Thư gởi Do Thái, suy tư về lễ vật hy tế mà Đức Giêsu dâng chính mình Ngài, lập lại những lời của Thánh vịnh này. Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (sách đó chính là Sách Thánh Vịnh) (Dt 10,5)

Lời mạc khải của Thiên Chúa đã bày tỏ cho ta biết Đức Giêsu đã áp dụng Thánh Vịnh này để diễn tả sự hiến dâng chính mình hoàn toàn cho Chúa Cha và cho anh em Người, cho đến bằng lòng chết trên thánh giá. Ngài còn nói: Của ăn Thầy là làm theo ý Chúa Cha…(Ga 4,34). Và vào giờ quyết định hiến tế chính mình, Ngài còn lập lại lời của Thánh vịnh: Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha (Mat 26,29). Và “nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19).
 
Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Thánh vịnh mà ta vừa xem trước hết là lời kinh nguyện của chính Đức Giêsu. Nhưng cũng chính là kinh nguyện của chúng ta, nhưng với điều kiện là đừng rơi vào lối vụ hình thức: điều Thiên Chúa mong đợi nơi ta, không phải là những lễ vật bên ngoài nhưng chính là máu thịt chúng ta, chính là cuộc sống mỗi ngày của ta được tiến dâng, chính là hy lễ thiêng liêng (1 Pr 2,5). Ta có thể nói rằng Thiên Chúa mong chờ cung cách sống xứng hợp của ta hơn là tham dự kinh nguyện ngày Chúa Nhật. Hành vi chúc tụng cũng là của riêng tôi: sung sướng vì niềm tin của mình­­/ thán phục Thiên Chúa/ thi hành thánh ý Chúa suốt đời/ loan báo tin mừng, tin vui về sự công minh, về ơn cứu độ, về tình thương và chân lý của Thiên Chúa.

Một trong những phương cách đọc lại Thánh vịnh này là lập lại nhịp điệu của kinh nguyện được thể hiện trong suốt Thánh vịnh, và cũng như trong chính cuộc đời mình. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa

Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch


Suy Niệm Thánh Vịnh 71     
 
1 Của vua Sa-lô-môn.

            Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
            trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2          để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
            và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
 
3          Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
            đồi rước về nền công lý vạn dân.
4          Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
            ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
            đập tan lũ cường hào ác bá.
 
5          Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
            như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp !
6          Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
            ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
7          Triều đại Người, đua nở hoa công lý
            và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
 
8          Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
            từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
9          Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
            tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
10        Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
            hàng vương giả sẽ về triều cống.
            Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
            cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
11        Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
            muôn dân nước thảy đều phụng sự.
 
12        Người giải thoát bần dân kêu khổ
            và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
13        chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
            Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
14        giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
            từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
 
15        Tân Vương vạn vạn tuế !
            Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
            và cầu xin cho Người luôn mãi,
            ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
16        Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
            đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
            trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
            thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
 
17        Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
            nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
            Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
            và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
 
18        Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
            chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
19        Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
            ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu ! 
            A-men. A-men.
 
Cùng Đọc Với Israel

Thánh vịnh này được viết sau lưu đày, vào thời mà nhà Đavít không còn cai trị nữa, nên được nhắm đến vị Vua Cứu Thế (Messia), vương quốc cứu độ được mọi người mong đợi, một vương quốc phổ quát và vĩnh cửu. Chỉ có vương quốc của Thiên Chúa mới vĩnh cửu. Vị vua trần gian nào ước vọng điều đó là điều vô ích. Cũng như thường thấy nơi các thánh vịnh khác, thánh vịnh này cũng khoác lấy một tấm áo văn chương: nghĩa là một ngôn ngữ biểu tượng, sử dụng văn phong của các cung điện Đông Phương, với những lối nói cường điệu và tư tưởng đế vương, để nói cho ta biết về một huyền nhiệm, một mạc khải không phải dựa trên hệ thống chính trị nhưng đặt nền trên chính Thiên Chúa.
 
Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Đây là thánh vịnh thích hợp nhất cho phụng vụ lễ Hiển Linh. Giống như một lời sứ ngôn tiên báo về các Đạo Sĩ: Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Nhưng ngoài những chi tiết cụ thể như thế, toàn thể thánh vịnh này nhằm đến Đức Giêsu, là bạn hữu và người bảo hộ những kẻ nghèo hèn, người bênh vực những kẻ cùng khổ, chiến thắng sự dữ, tội lỗi và sự chết. Chỉ có Ngài là Vua, đúng nghĩa nhất. Chỉ có vương quốc của Ngài, vương quốc tình yêu là trường cửu. Và chúng ta được mời gọi để làm cho vương quốc của Ngài mau hiển trị.

Chúng ta hãy hình dung hình ảnh Đức Giêsu, một anh thợ mộc không ai biết đến, cùng đọc thánh vịnh này với các đồng hương của Ngài trong hội đường tại làng quê Nagiarét bé nhỏ; chính Ngài ‘bé nhỏ và nghèo hèn’, nhưng Ngài hoàn toàn ý thức về sứ vụ vương giả của mình lan rộng đến ‘tận cùng trái đất và mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành’.
 
Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Cầu nguyện cho đức vua, cầu nguyện cho vương quốc Đức Giêsu, ta cần phải làm lại và hôm nay phải mang lại cho lời cầu nguyện này sức sống mới. Chúng ta có sứ vụ đó. Ta không có quyền chờ đợi cách thụ động: phải làm việc. Mỗi người chúng ta có thể làm được điều đó, ngay trong chính vị trí khiêm tốn của mình. Những trách nhiệm của ta, ta cũng cần duyệt xét lại từ chương trình này của Đức Giêsu:

Đến tận cùng trái đất…mọi sắc tộc trần gian…muôn dân thiên hạ. Tôi có tấm lòng rộng mở như thế không? Hay tôi tự khép mình trong tiểu vũ trụ của tôi? Dự định của Thiên Chúa mang tính hoàn vũ. Qua truyền hình và truyền thanh, qua các tổ chức đủ loại, cả thế giới giờ đây ở ngay trước cửa nhà chúng ta. Tôi có thể hành động tại Bangladesh, tại Liênxô, tại Indonêsia…bằng lời cầu nguyện tha thiết và bằng những dấn thân của tôi. Các hoạt động truyền giáo đang chờ sự cộng tác tích cực của tôi cho những người nghèo của thế giới thứ ba.

Đập tan lũ cường hào ác bá…tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ. Sữ dữ cần phải biến mất! Kẻ khai thác con người cần phải biến mất! Làm sao ta tố cáo là đồ ‘Mácxít’ những người sử dụng ngôn ngữ thánh vịnh và tin mừng này? Làm sao ta có thể đứng yên một bên những tranh đấu để giảm thiểu điều dữ giữa con người?

Công lý…công lý…công lý. Khao khát công bình xã hội là điều của mọi thời (ta thấy đầy dẫy trong thánh vịnh này). Nhưng đặc biệt trong thời đại chúng ta.  Làm gì để thực hiện công bình xã hội mọi nơi ta sinh sống? Có hàng ngàn môi trường mà công bình phải ngự trị: gia đình, lao động, tổ chức ta tham gia, những quan hệ quốc tế…Hãy làm việc cách trung thực…Trả đúng giá…lương bổng đúng mức…Công bình với con cái, bạn hữu, đồng nghiệp…làm sao tôi có thể hát lên thánh vịnh này khi mà tôi không dấn thân vào những nơi mà Thiên Chúa muốn cho công bình được phát triển?

Kẻ nghèo hèn…dân cùng khổ. Công bình không nhất thiết là giữ cán cân ngang bằng, nhưng còn là chủ ý làm lệch về bên những người bị thiệt hại. Làm thiệt hại một người yếu đuối thì tệ hơn làm thiệt hại một người mạnh mẽ, vì kẻ mạnh có gì đó để tự vệ, còn kẻ yếu thì không. Vua Cứu Thế đứng về phía những kẻ nghèo, còn chúng ta thì sao?

Vàng Ảrập…xứ sở đầy dư lúa gạo…Hình ảnh phong nhiêu và hạnh phúc. Hình ảnh thịnh vượng hầu như mầu nhiệm vào thời thiên sai. Hình ảnh vật chất, biểu tượng của hạnh phúc tinh thần mà Đức Giêsu có thể mang lại cho cả những người bần cùng…còn những kẻ giàu sang Người không biết đến. Hạnh phúc thời thiên sai chính yếu là hòa bình, (hai lần nối kết với công lý trong Thánh vịnh). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thái bình (shalom).

Tất cả đều có trách nhiệm. Nếu chúng ta thuộc phe nhóm dân chủ, cộng hòa, có lẽ ta sẽ bực tức vì ý thức hệ quân chủ đầy dẫy trong thánh vịnh. Những vị ‘vua’ theo nghĩa chặt, ngày nay không còn nhiều nữa. Lời cầu nguyện cho đức vua được diễn tả ở đây xem chừng như lỗi thời đối với nhiều người thời nay, đối với họ lý tưởng là sự tham gia nhiều vào các nhóm, tổ chức, hiệp hội…Phải chăng ta nên đưa thánh vịnh này vào viện bảo tàng? Tại sao ta không cầu nguyện thánh vịnh này với thời đại chúng ta bằng cách thổi vào thế giới hiện đại tất cả những gì tốt khi mà nó đang ao ước có được sự đảm nhận khắp nơi các trách nhiệm. Nếu ngày nay càng ngày càng ít đi các vị vua, thì càng ngày lại càng có nhiều người đảm nhận trách nhiệm hơn trong mọi bình diện khác nhau. Vậy tại sao ta lại không cầu nguyện cho họ? Trong lời nguyện chung ngày Chúa nhật, Giáo hội mời gọi ta làm điều đó. Thánh vịnh mang sắc thái hoàn toàn hiện đại nếu ta biết hiện tại hóa bằng cách cầu nguyện cho những người đang đảm nhận những trách nhiệm: ‘cho họ biết cai trị trong công bình…bênh vực quyền lợi cho người nghèo khổ…quan tâm chăm sóc những kẻ yếu đau bần cùng…chống lại sự áp bức, bạo lực…phát triển sự thịnh vượng và hòa bình’. Và đừng quên rằng cầu nguyện cho những vị hữu trách không bao giờ có nghĩa là miễn trừ cho ta khỏi tham gia vào công việc của họ. Trong nền dân chủ đích thực, thành đạt trong công ích, điều hành một doanh nghiệp, bầu khí gia đình không có thể chỉ dựa trên những người có quyền: tất cả chúng ta đều có bổn phận để làm phát triển công bình.

Vua mà không phải là vua! Israel cho ta một bài học để đời cho mọi hệ thống chính trị: trong kinh thánh, đức vua không phải là vua! Chính Thiên Chúa! Dưới cái vẻ bề ngoài xem chừng giống với chế độ của các nước láng giềng, Israel có một trải nghiệm hết sức độc đáo: không phải vương quyền, không phải dân chủ…nhưng là thần quyền. Chính Thiên Chúa mới là chủ. Còn có ai đó ở bên trên người nắm quyền. Họ không thể cai trị theo sở thích cũng như lợi ích riêng họ. Họ sẽ bị xét xử. Khi ta cầu nguyện cho nhà vua, trong đất nước Israel, thực sự là cách thức để nhắc nhở cho nhà vua những bổn phận của mình: Thiên Chúa có dự tính trên các xã hội, mà ta cần phải cố gắng đảm nhận thực hiện.
 
Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch


Suy Niệm Thánh Vịnh 88

1 Thi khúc. Của ông Ê-than, người Ét-ra.

2          Tình thương CHÚA, đời đời con ca tụng,
            qua muôn ngàn thế hệ
            miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
3          Vâng con nói : "Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
            lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời."
4          Xưa Chúa phán : "Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
            đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta,
5          rằng : dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
            ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ."
6          Lạy CHÚA, thiên đình xưng tụng những kỳ công của Chúa,
            cộng đoàn chư thánh ca ngợi lòng thành tín của Ngài.
7          Trên cõi trời cao, nào có ai sánh tày ĐỨC CHÚA ?
            Trong hàng thần thánh, hỏi có ai giống CHÚA được chăng ?
8          Thiên Chúa oai phong giữa triều thần thánh,
            vô cùng lẫm liệt trên hết cả quần thần.
9          Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn, nào ai được như Chúa ?
            Lạy CHÚA quyền năng, đức thành tín hầu cận quanh Ngài.
10        Chính Ngài chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
            dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
11        Chính Ngài giày xéo thuỷ thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
            tay mạnh mẽ đập tan quân thù.
12        Trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa,
            hoàn vũ với muôn loài, chính Chúa dựng nên.
13        Ngài sáng tạo phương trời Nam Bắc ;
            núi Ta-bo cùng với đỉnh Khéc-môn
            hò reo kính danh Ngài.
14        Cánh tay Ngài, cánh tay hùng dũng,
            đầy quyền năng đã mạnh mẽ dương oai.
15        Bệ ngai vàng : này công minh chính trực,
            quân tiền phong : đây tín nghĩa ân tình.
 
16        Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô ;
            nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy CHÚA.
17        Nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở ;
            bởi vì Ngài công chính, nên họ được hiên ngang.
18        Sức hùng cường hiển hách của dân chính là Ngài,
            hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế chúng con.
 
19        Đấng bảo vệ chúng con là người của ĐỨC CHÚA,
            vua chúng con thuộc quyền Đức Thánh của Ít-ra-en.
 
20        Xưa Chúa dùng thị kiến
            phán bảo những người hiếu trung rằng :
            "Ta phù trợ một trang dũng sĩ,
            cất nhắc lên một người trẻ trong dân.
21        Ta đã tìm ra nghĩa bộc Đa-vít,
            đã xức dầu thánh tấn phong Người ;
22        Ta sẽ không ngừng đưa tay nâng đỡ,
            tay quyền năng củng cố vững vàng.
23        Thù địch sẽ không lừa Người nổi,
            ác nhân chẳng sao hại được Người ;
24        trước mặt Người, Ta sẽ nghiền nát quân cừu địch,
            bọn thù ghét Người, Ta sẽ đập tan.
 
25        Ta sẽ yêu thương Người và giữ lòng thành tín,
            nhờ danh Ta, Người được thêm uy vũ.
26        Thế lực Người, ta cho trải dài đến Đại Dương,
            chủ quyền Người, cho mở rộng đến miền Sông Cả.
27        Người sẽ thưa với Ta : "Ngài chính là Thân Phụ,
            là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !"
28        Phần Ta, Ta sẽ đặt Người làm trưởng tử,
            cao cả hơn vua chúa trần gian.
 
29        Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở
            và thành tín giữ giao ước với Người.
30        Ta cho dòng dõi Người muôn năm tồn tại,
            cho ngai vàng trường cửu tựa trời xanh.
31        Nếu con cái Người bỏ không giữ luật Ta,
            chẳng sống theo điều Ta quyết định,
32        vi phạm những thánh chỉ Ta ban xuống,
            chẳng tuân cứ mệnh lệnh Ta truyền,
33        thì Ta sẽ dùng roi sửa phạt lầm lỗi,
            chúng gây nên tội, Ta phải đánh đòn.
34        Nhưng với Người, Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa,
            quyết không hề bội tín thất trung.
35        Giao ước của Ta, Ta sẽ không vi phạm,
            miệng đã nói ra, Ta chẳng nuốt lời.
36        Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh,
            thì cùng Đa-vít, Ta chẳng thất tín đâu.
37        Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
38        trước mặt Ta, ngai báu Người bền vững tựa thái dương
            muôn đời kiên cố như vầng nguyệt
            đứng giữa trời cao làm nhân chứng trung thành."
 
39        Thế mà nay Chúa lại khinh chê ruồng bỏ,
            nổi lôi đình với đấng Ngài đã xức dầu tấn phong ;
40        Chúa tiêu huỷ giao ước với người nghĩa bộc,
            quăng vương miện Người xuống đất đen.
41        Mọi tường luỹ của Người, Chúa đều phá đổ,
            thành trì kiên cố cũng đập tan hoang.
 
42        Người bị khách qua đường mạnh ai nấy cướp,
            bị hàng xóm láng giềng thoá mạ.
43        Chúa nâng cao quyền thế bọn áp bức Người
            và cho mọi kẻ thù được hớn hở mừng vui.
44        Mũi kiếm của Người, Chúa bắt quay ngược lại,
            chẳng độ trì Người trong buổi giao tranh.
45        Chúa chấm dứt thời vàng son của Người,
            và lật đổ ngai rồng xuống đất.
46        Chúa rút ngắn tuổi xuân Người lại,
            trút nỗi nhục nhằn xuống toàn thân.
 
47        Đến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài còn lánh mặt ?
            Ngài lánh mặt mãi sao ?
            Đến bao giờ cơn giận còn cháy bừng như lửa ?
48        Xin nhớ rằng : đời con là một kiếp phù du,
            loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi !
49        Sống làm người, ai không phải chết ?
            Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty ?
50        Đâu cả rồi, lạy Chúa, nghĩa cũ với tình xưa
            Ngài hứa cùng Đa-vít nhân danh chữ tín thành ?
51        Lạy Chúa, xin nhớ rằng : các tôi tớ Ngài bị thoá mạ,
            những lời phỉ báng của chư dân,
            con đây vẫn chất chứa trong lòng.
52        Vâng, lạy CHÚA, kẻ thù Ngài thoá mạ,
            theo sát gót mà buông lời thoá mạ
            đấng Ngài đã xức dầu tấn phong.
53        Chúc tụng CHÚA đến muôn đời. A-men. A-men.
 
Cùng Đọc Với Dân Israel

Đây là một thánh vịnh nên đọc làm ba giai đoạn, tuy không thể tách rời nhau. Kinh nguyện này được viết trước tiên dành cho Israel, thấy rõ nơi từng giòng văn. Tình cảnh con người nêu lên là cuộc đăng quang trong triều đại Đavít, vua Giêrusalem. Chính cái kết cuộc bi thảm dưới áp lực của Nabuchodonosor, làm nên hậu cảnh cho thánh vịnh. Quang cảnh là địa lý đất nước Israel: các ngọn núi được nhắc đến là Tabor và Hermon, biên giới phía Tây là biển Địa Trung Hải, còn phía Đông là hai con sông Tigre và Euphrate. Khi người ta nhớ đến việc nhà vua thắng trận, người ta đặt vào môi miệng Thiên Chúa những lời sau đây: ‘Thế lực Người, ta cho trải dài đến Đại Dương, chủ quyền Người, cho mở rộng đến miền Sông Cả. Bối cảnh văn hóa và tôn giáo của thánh vịnh này là bối cảnh của Israel, đặt nền trên Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn...

Đây là một thánh vịnh vương quyền, nền tảng là nghi lễ đăng quang của một vị tân vương: ngai vàng, quần thần, cung điện, lính canh, xuất trận chiến thắng quân thù.

Ta đang ở Israel và ta biết rằng chế độ chính trị của dân này có một tính cách đặc biệt: vị vua thực chính là Thiên Chúa. Do đó, cả đoạn đầu của thánh vịnh là một tụng ca vương quyền của Đức Chúa. Lưu ý đến một chuỗi những lời ca tụng quyền năng vũ hoàn của Đấng Tạo Hóa:

-          Chính Ngài chế ngự trùng dương ngạo nghễ…
-          dẹp yên bao sóng cả sóng cồn…
-          Chính Ngài giày xéo thuỷ thần Ra-háp, như giày xéo tử thi…
-          Trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa…
-          hoàn vũ với muôn loài, chính Chúa dựng nên…
-          Ngài sáng tạo phương trời Nam Bắc…
-          Cánh tay Ngài, cánh tay hùng dũng…

Nhưng đối với Israel, kỳ công tuyệt vời nhất, còn hơn cả việc Sáng Tạo, là chính Giao Ước: ‘Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên; nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở… Sức hùng cường hiển hách của dân chính là Ngài, hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế chúng con’. Vâng, Israel ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn. Hai từ ngữ đi đôi được lập đi lập lại bảy lần: Tình Thương và Tín Thành. Tính vững chắc, trường tồn của tình thương được làm nổi bật qua việc nối kết hai từ này, rồi bằng việc nhấn mạnh đến bảy lần cụm từ ‘muôn năm, muôn thuở, muôn đời’.

Giao ước với toàn dân được tượng trưng nhờ giao ước với nhà vua. Đavít là mẫu mực. Phần thứ hai của thánh vịnh nhắc nhớ lời sấm ngôn nổi tiếng của Nathan, loan báo tính trường tồn của triều đại nhà Đavít (2Sm 7; 1Sb 17,1-15; Gr 33,14-26) .

Hai phần đầu (Tụng ca và Sấm Ngôn) nhằm dẫn nhập phần ba, là lời than vãn về cảnh điêu tàn thời cuối cùng của thời quân chủ tại Giêrusalem. Người ta nghĩ cách riêng đến vua Gioakim, bị vua Nabuchodonosor bắt đi lưu đày vào tuổi 18 hoặc đến Sêđêcias, vị vua cuối cùng, các con của ông bị cắt cổ trước mặt ông, còn chính ông thì bị móc mắt…Khi ấy, lời kinh nguyện từ lời tụng ca biến thành những lời khiển trách: Chính Ngài, chính Ngài…Chúa…Chúa… tưởng chừng như Chúa không còn trung thành với những lời đã hứa và quyền năng của Ngài nữa.

-          Chúa tiêu huỷ giao ước với người nghĩa bộc, quăng vương miện Người xuống đất đen…
-          Mọi tường luỹ của Người, Chúa đều phá đổ, thành trì kiên cố cũng đập tan hoang…
-          Chúa nâng cao quyền thế bọn áp bức Người và cho mọi kẻ thù được hớn hở mừng vui
-          Chúa chấm dứt thời vàng son của Người, và lật đổ ngai rồng xuống đất.
-          Chúa rút ngắn tuổi xuân Người lại, trút nỗi nhục nhằn xuống toàn thân

Ta đọc thấy tính chân thực của lời kinh nguyện, mở đầu bằng những lời: ‘Tình thương CHÚA, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài’.

Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Tuy nhiên ta không thể dừng lại ở cách đọc thứ nhất này, khi mà Đức Giêsu, Con vua Đavít tự giới thiệu mình như Đấng Cứu Thế, hoàn thành mọi lời hứa của Thiên Chúa cho Israel; ta bị đánh động vì những điểm giống nhau giữa điều được loan báo trong thánh vịnh và điều, thực sự đã được thực hiện trong cuộc đời của Đức Giêsu, ‘đấng cứu thế bị khinh bỉ, chà đạp’ nhưng vẫn tiếp tục lớn tiếng hô to: ‘Tình thương CHÚA, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài’.

Một thánh vịnh như thế chỉ có đầy đủ ý nghĩa khi áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Duy chỉ mình Ngài mới có quyền nói câu đầy ý nghĩa: ‘Ngài chính là Thân Phụ’. Duy chỉ mình Ngài là Đấng Messia, là Đấng được xức dầu, được Thánh Thần thánh hiến.

Thật cảm động khi đặt trên miệng của Đấng Kitô lời than vãn sau cùng này, trong cuộc thương khó của Ngài, đấng biết rõ mình là ‘vua’. ‘Ta là vua, nhưng nước ta không thuộc về thế gian này’ (Ga 18,33-37). Sau cùng, một lần nữa, ta nhận thấy sự phục sinh là trung tâm của niềm tin kitô giáo. Chỉ có sự phục sinh mới mới hoàn tất ý nghĩa những nghi vấn và lời hứa của Cựu Ước: ‘Đến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài còn lánh mặt? Ngài lánh mặt mãi sao?... Xin nhớ rằng: đời con là một kiếp phù du. Sống làm người, ai không phải chết? Đâu cả rồi, lạy Chúa, nghĩa cũ với tình xưa?... Giao ước của Ta, Ta sẽ không vi phạm, ngai báu Người bền vững tựa thái dương, muôn đời kiên cố như vầng nguyệt đứng giữa trời cao làm nhân chứng trung thành’. Không có phục sinh, tất cả những lới hứa ấy là hão huyền.

Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Nếu chúng ta muốn thực sự cầu nguyện, không chỉ nhớ lại quá khứ bằng cách vin vào những biến cố lịch sử, cần phải đưa thánh vịnh này vào thực tế hiện nay. Dầu cái vẻ bề ngoài, thánh vịnh này lại mang tính phổ quát đặc biệt; thánh vịnh này được đặt trong bối cảnh quá khứ, nhưng cũng mang tính hiện thực mạnh mẽ.

Tin tưởng vào Thiên Chúa dù những vẻ bề ngoài đối nghịch. Thông thường chính theo cách này mà ta sống đức tin ngày nay. Nước Thiên Chúa như một cánh đồng lúa mì đầy những cỏ dại, trong đó lẫn lộn những hạt mầm của sự sống và sự chết. Nhiều điều xung quanh ta phát biểu chống lại Thiên Chúa. Hình như Kẻ Thù chiến thắng khắp nơi. Vị vua đáng thương, Thiên Chúa chúng ta, hình như bất lực, không tự bảo vệ được mình, đã để bị đóng đinh thập giá. Ta có thể thưa lên rằng:

‘Đến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài còn lánh mặt? …Chúc tụng CHÚA đến muôn đời. A-men. A-men’.

Những tình huống thất bại mời gọi ta hy vọng. Chính sự mỏng giòn của con người đòi hỏi phải có sự trường tồn. ‘Xin nhớ rằng: đời con là một kiếp phù du’. Những thử thách cá nhân cũng như tập thể có thể làm chúng ta mất đức tin và niềm hy vọng, vì chúng gợi lên tâm tình chống đối Thiên Chúa. Nhưng chúng cũng có thể trở thành là bàn đạp cho một hy vọng lớn hơn, được tinh luyện, kinh qua thử thách, mạnh mẽ nhờ chiến thắng gian truân.

Thiên Chúa thật đáng kinh ngạc, vượt trên mọi dự đoán của ta. Thiên Chúa dựng nên ta để sống hạnh phúc. Ngài là Đấng toàn năng. Thế nhưng Ngài không ngừng làm ta hoang mang và kinh ngạc. Đời sống của Ngài không giống đời sống của chúng ta. Quyền năng của Ngài không phải như sức mạnh của ta. Thiên Chúa vượt trên những quan niệm của ta. Ngài không cần những vẻ bề ngoài sống động và mạnh mẽ để thực sự là đấng sống động và mạnh mẽ. Ngay cả sự chết cũng không có quyền lực trên ngài. Ngài là Đấng hoàn toàn khác. Không ai nghĩ rằng Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa lại xuất hiện như Đức Giêsu. Thế nên ngay trong cái chết Ngài cho ta thấy khuôn mặt sáng ngời Tình Yêu và Lòng Thành Tín của Ngài. Nhưng đó là bí nhiệm, ẩn giấu đối với những con người hời hợt. Lạy Chúa, xin mở mắt con để nhìn thấy những kỳ công của tình yêu Ngài. Con ca hát lòng từ bi của Chúa đến muôn đời (Misericordias Domini in aeternum cantabo). Tình thương Chúa đời đời con ca tụng.

Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I

 Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét