Trang

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2019

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA - LM. INHAXIÔ HỒ THÔNG

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA - LM. INHAXIÔ HỒ THÔNG
CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA - Năm C

Vào Chúa Nhật này, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa trong nước bởi Gioan Tẩy Giả, và ngay liền sau đó, được Chúa Thánh Thần ngự xuống và được Chúa Cha chứng nhận: “Con là Con Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Đức Ki-tô như một trong ba lễ Hiển Linh: Hài Nhi Giê-su tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh đến thờ lạy Người (Mt 2: 11), Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ mình ra trong biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa bên bờ sông Gio-đan (Lc 3: 21-22; Mt 3: 13-17; Mc 1: 9-11) và Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Người cho các môn đệ qua dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na (Ga 2: 11). 

Is 40: 1-5, 9-11
Bài Đọc I gợi lên gốc tích của thuật ngữ “Tin Mừng” được loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon.

Cv 10: 34-38
Tại nhà của viên quan ngoại giáo, ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thuật lại phép Rửa của Đức Giê-su, khuôn mẫu phép Rửa của Ki-tô hữu. 

Lc 3: 15-16, 21-22
Phép rửa của Đức Giê-su là nguyên mẫu phép rửa Ki-tô giáo. Chúng ta đã được lãnh nhận phép rửa dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi, “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Sứ điệp an ủi này được gởi đến cho những người lưu đày ở Ba-by-lon khi mà cuộc thử thách đã quá dài lâu đến mức người ta không còn chịu đựng được nữa. Những người lưu đày đầu tiên, tiếp đó là những đợt lưu đày khác nữa, đã bị dẫn đến đất nước ngoại bang này đã gần năm mươi năm rồi.

1.Bối cảnh:

Ở giữa những người đồng hương lưu đày của mình, một vị ngôn sứ đã đem đến cho những người chán chường thất vọng này một niềm an ủi khi ông hứa với họ cuộc giải phóng sắp đến gần. Người ta không biết một chút gì về vị ngôn sứ, ngay cả tên của ông; vì thế, người ta đặt cho ông biệt danh là I-sai-a đệ nhị, vì tác phẩm của ông (Is 40-55) được sáp nhập vào tác phẩm của vị tiền nhiệm của ông (Is 1-39). Vào lúc đó, trên chính trường Trung Đông, vua Ba tư, Ky-rô, nổi lên như một thế lực hùng mạnh. Vị ngôn sứ thoáng thấy nơi nhân vật này khí cụ của Thiên Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông quả quyết: Thiên Chúa sắp can thiệp để giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời lưu đày.

2. “Hãy an ủi, an ủi dân Ta”:

“Hãy an ủi, an ủi dân Ta”. Đây là những lời đầu tiên của tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, chính xác được đặt dưới nhan đề “Sách An Ủi”. Diễn ngữ “dân Ta” này chắc chắn đã làm ấm lại lòng của những người lưu đày khốn khổ, họ cứ tưởng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài gì đến họ. Không, họ vẫn luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia đã được Ngài nuông chiều.

“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Tâm tư của những người lưu đày không bao giờ ngừng hướng về Thành Thánh. Bị trừng phạt vì tội bất trung dài lâu, điều quan trọng là dân được loan báo rằng Thiên Chúa tha thứ tội của dân và Ngài sẽ đích thân dẫn đưa dân trở về quê cha đất tổ.

“Thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai lần” theo sát nghĩa của từ, nếu chúng ta khảo sát hai cuộc thử thách lớn mà dân thành phải chịu: dân bị lưu đày đến Ba-by-lon và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, bị phá hủy hoang tàn. Nhưng diễn ngữ này cũng được hiểu một cách đơn giản như ghi nhận muôn vàn đau khổ mà dân phải chịu.

3.Một cuộc xuất hành mới: 

 Để trở về cố hương, những người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa (sa mạc Syri-Paléttin). Đây sẽ là một cuộc xuất hành mới ở đó Thiên Chúa sẽ lại hướng dẫn dân Ngài và thực hiện cho họ những điều kỳ diệu. Điều quan trọng là phải chuẩn bị tấm lòng đón nhận lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ở nơi những hình ảnh của các câu “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu”, chúng ta gặp thấy một lời mời gọi hãy thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc của tâm hồn. Các tác giả Tin Mừng sẽ nhận dạng vị ngôn sứ vô danh này, biệt danh là I-sai-a đệ nhị, là thánh Gioan Tẩy Giả.

4. Nguồn gốc nguyên khởi của thuật ngữ “Tin Mừng”:

“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao”. Chính ở nơi bản văn này mà các Ki tô hữu tiên khởi đã mượn diễn ngữ “Tin Mừng” để chỉ mặc khải của Đức Giê-su. Chính ở đây mà chúng ta ở nơi tận nguồn thần học về Tin Mừng. “Tin Mừng” này đòi hỏi phải được loan báo từ trên núi cao để mọi dân trong các thành miền Giu-đê được nghe, đó là Tin Mừng gì? Thưa, chính Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm và đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn; nhưng ông tô đậm chân dung Đức Chúa vinh thắng khi liên kết Ngài với hình ảnh của người mục tử tận tình chăm sóc đàn chiên của mình: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt”. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài về Đất Hứa, trước hết là Thiên Chúa tình yêu.

Đó là “Tin Mừng” đầu tiên báo trước một Tin Mừng khác dứt khoát hơn, phổ quát hơn: giải phóng những người tội lỗi. Vì thế, không phải đoàn rước khải hoàn mà vị ngôn sứ hình dung loan báo cuộc khải hoàn của những người được chọn về Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc hay sao?

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)

Đoạn trích Công Vụ Tông Đồ này thuật lại một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên một lương dân và gia đình của ông được đón nhận vào cộng đoàn Ki-tô hữu qua phép Rửa.

Cho đến lúc đó, các Tông Đồ đã ngỏ lời với dân Do thái bằng cách chứng minh cho họ hiểu rằng Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nơi Ngài Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo được khai sinh từ Do thái giáo. Chiều kích phổ quát của sứ điệp được nhận ra qua các sấm ngôn: sẽ đến ngày muôn dân nước sẽ tiến về Giê-ru-sa-lem. Nhưng các Tông Đồ đã không nghĩ đến chiều kích đảo ngược: chính họ đến với lương dân để loan báo Tin Mừng cho họ.

Vào lúc đó, thánh Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội, lợi dụng thời kỳ tạm lắng dịu sau một cuộc bách hại giáng xuống trên các cộng đoàn Ki-tô hữu, để viếng thăm họ. Vào lúc đó, một viên đại đội trưởng Rô-ma trú đóng tại thành Xê-da-rê cho người đến mời thánh nhân. Lúc đó, thánh Phê-rô đang trọ tại Gia-phô, cách Xê-da-rê khoảng 50 cây số. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không cắt bì, bất chấp những cấm đoàn lâu đời, và đây cũng là lần đầu tiên thánh nhân loan báo Tin Mừng cho một lương dân và gia đình của ông. Đối với thánh Phê-rô, đây thực sự là một kinh nghiệm không thể quên được. Thánh nhân chắc chắn rất cảm động khi hiểu được những ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ tất cả mọi người. Phụng Vụ hôm nay trích dẫn phần đầu bài giảng của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô.

1.Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ:

Trước tiên, thánh Phê-rô khẳng định sự bình đẳng giữa lương dân và dân Do thái: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10: 34). Lời khẳng định này cấu thành một viễn cảnh đảo ngược mà dân Ít-ra-en thường nghĩ rằng đó là những đặc quyền của dân Chúa chọn. Vị thủ lãnh Giáo Hội, dưới tác động của Thánh Thần, chấp nhận viễn cảnh đảo người này khi công bố rằng “Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp đón” (Cv 10: 35). Ông Co-nê-li-ô là một trong số những người có thiện cảm với Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ xác nhân những phẩm chất của ông Co-nê-li-ô: “một người đạo đức”“rộng tay cứu trợ dân” và “luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Cv 10: 2).

Thánh nhân giải thích cho gia đình ngoại giáo này hiểu đặc quyền của dân Ít-ra-en: “Người đã gởi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an”. Con cái Ít-ra-en đã nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an, bình an giữa nhân loại, bình an giữa dân Do thái và lương dân. Bình an này có được“nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của mọi người”.

2.Quyền năng của phép Rửa:

Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt sứ vụ của Đức Giê-su: Đức Giê-su đã chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, sau đó Ngài đã được đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Từ đó, thánh nhân khai mở viễn cảnh đạo lý của Giáo Hội: ân ban của Chúa Thánh Thần không đơn giản là một điều gì đó mà người ta thủ đắc được, nhưng là một sức mạnh bùng nổ, một quyền năng thúc đẩy người ta chu toàn sứ mạng, làm chứng, thực thi những việc lành phúc đức, kiềm chế ma quỷ theo mẫu gương của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 3: 15-16, 21-22)

Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ hai phân đoạn: phân đoạn thứ nhất (3: 15-16) về việc Đức Giê-su chịu phép rửa và phân đoạn thứ hai (3: 21-22) về cuộc hiển linh của Đức Giê-su.

1.Ý nghĩa phép rửa của Đức Giê-su:

Thánh ký chỉ kể ra một cách ngắn gọn việc Đức Giê-su chịu phép rửa, nhưng rất có ý nghĩa: Đức Giê-su ở giữa đám đông dân chúng; Ngài hòa nhập vào dòng người tội lỗi, những người muốn thể hiện hành vi ăn năn sám hối. Như họ, Ngài bước vào dòng nước sông Gio-đan để lãnh nhận phép rửa, dấu chỉ bày tỏ lòng sám hối; kể từ giây phút này Ngài bày tỏ ý muốn của Ngài được liên đới với nhân loại tội lỗi. Cử chỉ công khai đầu tiên của Đức Giê-su tự nó đã là một cử chỉ cứu độ.

Dường như thánh Lu-ca gợi lên rằng việc Đức Giê-su chịu phép rửa kết thúc việc “toàn dân” đón nhận phép rửa, như để muốn nói rằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả đã đạt được mục đích của nó: chuẩn bị cho một sứ điệp khác và nhường chỗ cho một sứ vụ đang đến.

2.Lời cầu nguyện của Đức Giê-su:

Khi bước ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su cầu nguyện. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất ghi nhận nét đặc trưng này; thánh ký luôn luôn chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su trong những giờ phút quan trọng hay có tính quyết định (Lc 5: 16; 6: 12; 9: 18, 28-29; 10: 21; 11: 1; 22: 32, 40, 46; 23: 34, 46). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, trong khi các Tông Đồ cũng đang cầu nguyện, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống (Cv 2: 1-6).

Khi Đức Giê-su cầu nguyện, thì “trời mở ra”, nghĩa là, một sự thông hiệp giữa thế giới thần linh và con người bởi một cuộc thần hiển kép: Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình dáng chim bồ câu và Chúa Cha tỏ mình ra qua tiếng phán từ trời.

3.Chúa Thánh Thần tấn phong:

“Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su”. Phép rửa trong nước mà Đức Giê-su đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Ki-tô giáo. Đức Giê-su, đã hòa mình vào đám đông dân chúng tội lỗi, được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong; vì thế, Đức Giê-su đích thật là “Đấng được xức dầu”, nghĩa là, “Đấng Mê-si-a” theo tiếng Híp-ri, hay “Đấng Ki-tô” theo tiếng Hy-lạp. Xưa kia, các ngôn sứ đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong để có đủ tư cách thông truyền Lời Chúa. Cũng vậy, Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm ngôn sứ. Nhưng, phải nói một cách chính xác hơn, Đức Giê-su không đơn giản là một trong các ngôn sứ, được hiểu theo nghĩa “phát ngôn viên của Lời Thiên Chúa”, nhưng Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa tự thân, đã trở thành một phàm nhân.

Quả thật, Đức Giê-su, ngay từ khi thụ thai, được Chúa Thánh Thần ở cùng; Ngài sinh ra bởi tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật của Ngài, Chúa Thánh Thần đã không tỏ mình ra một cách rực rỡ. Vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa này đánh dấu khởi điểm sứ mạng của Ngài, Đức Giê-su được đảm bảo rằng Ngài sẽ luôn luôn được Chúa Thánh Thần phù trợ.

Chúa Thánh Thần tỏ mình ra qua một dấu chỉ bên ngoài “dưới hình dáng chim bồ câu”, như sau này, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ tỏ mình ra dưới “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2: 3). Như vậy, thánh Lu-ca muốn nói rằng Chúa Thánh Thần là một Ngôi Vị biệt phân với Chúa Cha. Quả thật, phép rửa của Đức Ki-tô là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Đức Ki tô như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Ki-tô giáo được ban “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Diễn ngữ “dưới hình dáng chim bồ câu” chắc chắn nhắc nhớ những câu đầu tiên của Kinh Thánh trong chuyện tích về cuộc tạo dựng: “thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1: 2). Vì thế, trên mặt nước của dòng sông Gio-đan một cuộc tạo dựng mới bắt đầu.

4.Chúa Cha thánh hiến:

“Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Đây là câu trích dẫn từ Tv 2: 7, một thánh vịnh phong vương mang chiều kích Mê-si-a tuyệt vời. Vào ngày vua được phong vương, Đức Chúa công bố vị tân vương là “con của Ngài” (“thiên tử”). Thánh Vịnh này ngầm quy chiếu đến sấm ngôn của ngôn sứ Na-than được ngỏ lời với vua Đa-vít: “Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 13-14).

Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu cũng trích dẫn Tv 2 này, nhưng chỉ trích dẫn vế thứ nhất của câu 7:“Con là con yêu dấu của Cha” mà hai thánh ký liên kết thành một với bản văn của Is 42: 1 về ơn gọi của Người Tôi Trung: “Ta hài lòng về Người”, để loan báo Đấng Mê-si-a vừa là Vua, vừa là Người Tôi Trung: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 17) và “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11).

Chỉ một mình thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn câu 7 của Tv 2, theo đó Thiên Chúa xác nhận rằng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa”“Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Lời công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa này cũng sẽ được vang lên khi trời được mở ra vào biến cố Biến Hình (Lc 9: 35). Chính trên Con Thiên Chúa này mà thánh Lu-ca muốn nhấn mạnh: cuộc thần hiển ngay sau phép rửa là mặc khải công khai, chính thức, về mầu nhiệm của Đức Giê-su, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, ngay từ thế kỷ hai, những người phủ nhận Thần Tính của Đức Ki-tô đã khai thác vế thế hai của câu trích dẫn này để chủ trương rằng Đức Giê-su chỉ là một con người, con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, nhận được ơn nghĩa tử (được Thiên Chúa nhận làm con), ơn nghĩa tử này được công bố chính xác bởi những lời này “Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.

Tư tưởng của thánh Lu-ca rất khác xa với một viễn cảnh như vậy. Rõ ràng ngay liền sau lời trích dẫn này, thánh ký tường thuật gia phả Đức Giê-su Ki-tô, ở đó thánh ký chủ ý lên cho đến A-đam, “con Thiên Chúa” (Lc 4: 38). Đức Giê-su là A-đam mới, được sinh ra từ Thiên Chúa, Ngài là thủ lãnh của một nhân loại mới. Phép rửa của Ngài là một sự khẳng định về một thực tại thần linh thường hằng ở nơi Ngài rồi. Qua phép rửa của chúng ta, nhờ kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, nghĩa tử của Chúa Cha: “ngày hôm nay, chúng ta được sinh ra”.  


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét