MỘT TẤM LÒNG VÀNG ĐỂ BƯỚC THEO CHÚA GIÊSU
Chúa Nhật XXVIII Thường Niên B
(Mc 10, 17-30)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Tại sao Chúa Giêsu từ chối cách xưng hô “Thầy tốt lành” của chàng thanh niên giàu có?
2. Phải chăng lời Người khuyên anh ta (c.21) là một sự nguyền rủa quyền chấp hữu và nói lên một quan niệm xã hội về sự phân phối tài sản vật chất?
3. Tại sao những người có của khó vào được Vương Quốc Thiên Chúa?
4. Câu 27 muốn bổ túc các câu trước như thế nào?
5. Phải hiểu theo nghĩa nào lời Chúa Giêsu hứa phần thưởng cho những kẻ từ bỏ mọi sự (c.30)?
6. Lời hứa này phản ảnh những ưu tư gì của cộng đoàn sơ khai?
Mặc dù trong tiết này có nhiều đoạn khác nhau của truyền thống, người ta vẫn có thể thấy đây là một bản văn một chủ đề duy nhất và gồm 3 phần rõ rệt Mc đã coi ba phần này (10,17-22; 10,23-27; 10,28-30.31) như làm nên một khối duy nhất; hẳn ông đã gặp chúng đi chung với nhau trước rồi và sau đó, khi biên soạn, còn liên kết chúng hơn.
I. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊSU VÀ NGƯỜI GIÀU CÓ
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với người giàu có (10, 17-22) là tổng hợp một giai thoại tiểu sử trong đó có một chuyện xảy ra giữa hai người và một đối thoại giáo huấn trong đó vấn đề được bàn cãi dưới hình thức hỏi thưa. Câu hỏi được người kia đặt ra nhằm chuyện đạt tới sự sống đời đời” (10, 17).
Đối tượng của câu hỏi này – sự hoàn thành cánh chung không có gì là khác thường cả. Kẻ đặt ra nó muốn đối thoại về điều phải làm cách cụ thể để đi theo con đường dẫn đến sự sống mới. Nhưng khi đáp (10,18), Chúa Giêsu không lưu tâm mấy đến nội dung câu hỏi, mà chỉ chú ý đến cách thức kẻ kia xưng hô với Người: “Thầy tốt lành”. Người từ chối cách gọi, viện lẽ rằng không được gọi một ai là “tốt lành”, ngoài Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người kia, một kẻ vừa giàu có vừa đạo đức, phản ảnh cả một ngộ nhận. Qua cử chỉ quỳ gối (10,17) và Cách xưng hô của ông, Chúa Giêsu gặp được cơ hội để đánh tan ngộ nhận này. Chỉ Thiên Chúa là “tốt lành” thôi. Khi nhất quyết chỉnh lại điều người trẻ tuổi đã nói như thế, Chúa Giêsu chuyển hướng anh ta khỏi bản thân Người. Sứ mạng của Người đòi hỏi chỉ mình Thiên Chúa mới đáng nhận các vinh dự thần linh. Ta không thể hiểu lầm ý hướng này trong câu trả lời của Chúa Giêsu được, dù cho tiếng xưng hô “Thầy tốt lành” có thể chỉ là một công thức lịch sự quy ước (trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã dùng chữ “tốt lành” cho một nghĩa mà người kia đã không hề nghĩ tưởng), hoặc cho dù – trái ngược với mọi quy ước – tiếng xưng hô đó đã diễn tả tính cách độc đáo của vị “Thầy” này. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu muốn tránh bị đồng hóa với Thiên Chúa bằng một cách có thể là một sự ngộ nhận.
10, 19 trả lời cho đối tượng của câu hỏi 10,17. Chúa Giêsu nhắc lại cho kẻ đối thoại điều anh đã biết từ lâu: nếu muốn tham dự vào sự sống mới, phải chu toàn các nghĩa vụ đối với tha nhân đã được liệt kê trong Thập Điều. Nhưng câu “Tôi phải làm gì?” thực tế có nghĩa “tôi phải làm sao”: tôi phải sống làm sao để tuân giữ giới răn Thiên Chúa, làm sao tôi có thể vâng theo Lề luật? Nên Chúa Giêsu không trả lời được câu hỏi của người giàu có, khi chỉ nhắc lại cho anh các nghĩa vụ đối với tha nhân; và ngay tức khắc anh muốn có những chỉ dẫn chính xác hơn, bằng cách nhấn mạnh rằng mình vẫn trung thành giữ Lề luật (10,20). Vì chợt hiểu rằng kẻ đối thoại muốn xin mình một điều gì khác hơn là giáo huấn xưa nay của bất cứ một giáo sĩ nên Chúa Giêsu chăm chú nhìn anh, và có thế bảo Người nhận ra anh trong giây phút đó; Người đem lòng yêu mến anh, mời gọi anh đi theo làm môn đồ Người (10,21) trước câu hỏi về “sự sống”, Chúa Giêsu đáp lại bằng cách gọi anh vào số các môn đồ, đề nghị anh đi theo Người chẳng đưa ra phương thức, “mẹo vặt” để hoàn tất các quy khoản của Lề luật. Điều Người muốn nói không thể bàn bạc trong khung cảnh một cuộc đàm thoại thầy trò. Con đường dẫn đến sự sống mà người đưa ra phải đi qua việc bắt chước Người, qua việc sống chung với Người, bởi vì không có cách nào khác để hiểu được sự mới mẻ mà Người muốn mặc khải. Nhưng đi theo Người, nghĩa là trước tiên chấp nhận sống với Chúa Giêsu một cuộc đời lang thang, đầy bất trắc và thiếu thốn, chỉ có thể thực hiện với một điều kiện: phải độc lập. phải thoát khỏi mọi ràng buộc vong thân. Chính vì thế Chúa Giêsu đòi hỏi người giàu có trước tiên phải bán gia tài và cho kẻ nghèo tất cả tiền bạc. Đòi hỏi này được ngỏ cho những ai, với tư cách là môn đồ và về sau là sứ đồ, thuộc nhân thân tín nhất của Chúa Giêsu. Không nên nới rộng nó cho bất cứ ai muốn tiếp nhận sứ điệp của Người. Và đòi hỏi chẳng phải là một lời nguyền rủa quyền chấp hữu kiểu nhị nguyên thuyết (điều hoàn toàn ngược với Do thái giáo và như thế với lịch sử), cũng không phải là một quan niệm xã hội về sự phân phối của cải vật chất. Nó chỉ nhằm sự độc lập của môn đồ. Lời cam kết “kẻ bán tất cả và cho kẻ nghèo khó hết sẽ nhận được một kho báu trên trời” muốn diễn tả, dưới một hình thức châm ngôn, rằng trước mắt Thiên Chúa, cách hành động như vậy là phải.
Câu 22 kể lại cách thật vắn tắt một ơn gọi thất bại như thế nào: người được gọi chẳng sẵn sàng từ bỏ của cải. Không trình bày các lý do chủ quan, trình thuật chỉ cho ta thấy một con người đã không thể hiểu rằng điều kiện của một cuộc sống môn đồ là sự độc lập, và vì thế đã “buồn bã bỏ đi”. “Con đường đến sự sống” mà Chúa Giêsu chỉ cho anh vượt quá anh. Trong tư tưởng các người Do thái đạo đức, mối bận tâm lo lắng cho các kẻ nghèo được kể là sự thực hành chính yếu Lề Luật. Nhưng chính vì lý do này mà tài sản đã mang tính cách một điều kiện cần thiết để hành động trong chiều hướng Lề luật đó. Thành thử chính những nghĩa vụ xã hội và tôn giáo bén rễ sâu đã cản trở người giàu có đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu. Lời mời gọi này có tính cách cá nhân, nó kêu mời một cá nhân cụ thể hãy bỏ môi trường sống của mình. Thế nhưng, lời rao giảng Kitô giáo sơ khai đã muốn chuyển tiếng gọi này của Chúa Giêsu vào trong một cuộc sống đặc biệt. Bên kia chi tiết tiểu sử về vận mạng của người giàu có, nhưng cũng bên kia những tổng quát hóa thiếu suy nghĩ, cần phải làm nổi bật sự đòi hỏi đối với người môn đồ là độc lập với của cải và những trói buộc xã hội, đồng thời phải cho thấy sự giàu có trói buộc và nô lệ hóa con người đến chừng nào.
II. NGUY HIỂM CỦA CỦA CẢI ĐỐI VỚI VIỆC ĐI VÀO VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA
Việc nối kết trực tiếp đoạn 23-27 với văn mạch trên cho ta thấy tư tưởng vừa nói có một tầm mức tổng quát. Trong khi nơi giai thoại kêu gọi chàng thanh niên giàu có, điểm chính yếu là ơn gọi cá nhân của một môn đồ và sự thất bại của ơn gọi này, thì trong đoạn tiếp theo, đó là vấn đề sự nguy hiểm tổng quát của của cải đối với việc đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 10,23 và 10,25 hình như đi chung với nhau. Chúa Giêsu nêu lên một nhận xét: mặc dù kẻ giàu có mà Người vừa muốn chọn làm môn đồ, đã có thái độ nghiêm chỉnh đối với sự sống đời đời và con đường đưa tới đó (x. 10. 17.20), nhưng còn quyến luyến của cải đã khiến anh không thể đáp ứng lời mời gọi. Những người giàu có cũng vậy, không thể vào Vương Quốc Thiên Chúa. Trong khi c.23 chỉ là một lời than thở: “Khó biết bao…”, thì hình ảnh con lạc đà không thể chui qua lỗ kim (10,25) nói rõ rằng trong thực tế một người giàu có vào được Vương Quốc Thiên Chúa là một chuyện không thể được (chứ chẳng phải là có thể, nhờ một quyết định tự do nào đó). Câu châm ngôn đưa ra hình ảnh còn vật lớn nhất có thể có và lỗ nhỏ nhất có thể có, nhắm mục đích cho ta như sờ tận tay tính cách bất khả: sự giàu có và những trói buộc nó gây ra có sức độc chiếm mạnh đến nỗi con người hầu như không còn sức lực và sự chú tâm mà quyền tối thượng của Thiên Chúa đòi hỏi.
Những lời buồn bã, trầm tư của Chúa Giêsu khiến các môn đồ (10,24) và dân chúng phát sợ (10,26). “Thế thì ai còn có thể được cứu?”. Trong câu trả lời (10,27), Chúa Giêsu không làm nhẹ bớt tính cách nghiêm khắc của lời vừa nhận định trên. Trái lại, Người chấp nhận cho người ta nới sự bất khả đó không những đối với các kẻ giàu, mà còn đối với tất cả mọi người nữa; và Người tuyên bố: chẳng ai có thể tự cho mình có đủ điều kiện để vào Vương Quốc Thiên Chúa được. Nhưng đối với Thiên Chúa, việc tạo nên tức khắc cái còn nếu nơi con người là chuyện có thể. Lời này chứng tỏ rằng, theo giáo huấn của Chúa Giêsu, chẳng ai, dù là kẻ giàu có không sẵn sàng trước quyền tối thượng thần linh, bị loại ra khỏi lòng thương xót của Thiên Chúa: Thiên Chúa có thể ban sự tham dự vào đời sống mới cho bất cứ người nào, mà không lệ thuộc vào những dự kiện của người đó.
III. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO NHỮNG KẺ TỪ BỎ MỌI SỰ
Với c.28 bắt đầu phần thứ 3 trong đoạn nói về việc bắt chước Chúa Giêsu và sự độc lập mà việc bắt chước này đòi hỏi đối với những sở hữu vật chất. Đáp lại câu hỏi của Phêrô liên quan đến phần thưởng cho những kẻ đi theo Chúa Giêsu (10,28), Chúa Giêsu trả lời bằng cách lấy lại ý tưởng phần thưởng: kẻ tháo gỡ tất cả mọi liên hệ nhân loại và vật chất (10 29) để sống như môn đồ Chúa Giêsu và sứ đồ Tin Mừng thì sẽ nhận được một tiền lương “gấp trăm những gì đã rời bỏ.
Tiền lương đó gồm có không gì thì Chúa Giêsu nói bằng một ám dụ bởi vì việc lặp lại trong c.28 những của cải đã từ bỏ không có nghĩa gì khác hơn là một ám dụ). Tất cả những gì họ đã rời bỏ sẽ được ban lại cho các môn đồ ngay từ đời này “cùng với những sự bắt bớ” – và còn trong đời sau, họ sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu. Lời này phản ảnh rõ ràng hoàn chỉnh của cộng đoàn sơ khai và chắc đã phát xuất từ cộng đoàn dưới hình thức đó. Vì chính Chúa Giêsu, khi nói về phần thưởng, chắc đã chỉ nói đến “sự sống đời đời” thôi. Phần thưởng khi “ngay từ đời này” – gia đình và của cải – được nêu lên dựa vào hoàn cảnh của cộng đoàn sơ khai; bởi vì đối với người Tông đồ, cộng đoàn thay thế và tượng trưng gia đình, của cải và công việc Cộng đoàn xem việc không nên để người loan báo Tin Mừng ra đi hai bàn tay trắng như là một nghĩa vụ.
10,31 là một châm ngôn thông dụng trong nhóm thân hữu của Chúa Giêsu, nó chỉ đảo ngược các ngôi thứ vào ngày tận cùng. Ý nghĩa của câu tùy thuộc mỗi hệ thống quy chiếu. Trong văn mạch của Mc, cần phải tuy chiếu nó với vấn đề được thảo luận ở trên: một người vì Tin Mừng mà sống bên lề xã hội sẽ trở nên thế nào? Khi đời sống mới sẽ được thiết lập, những “kẻ sau hết” trong bậc thang giá trị xã hội sẽ trở nên những “người trước hết”, nghĩa là những người được trọng vọng nhất, những người có giá trị tiêu chuẩn. Bởi thế lời này vốn cũng có thể hiểu như một lời cảnh cáo tính kiêu căng, ở đây mang tính chất một lời hứa đầy an ủi, một lời phấn khích cho các môn đồ vì lòng bất vụ lợi của họ.
Ingo Hermann, L’Evangile de Saint Marc. II, tr.40-46.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đoạn Tin Mừng về người giàu có được Chúa Giêsu để ý vì đem lòng yêu thương, nhưng ông đã không thể yêu thích lời mời gọi Chúa Giêsu hơn là giàu có của cải, là một đoạn rất được biết đến. Có một câu tuy ngắn, nhưng ý nghĩa lời rất thâm sâu: ông ta sa sầm nét mặt lại và buồn bã bỏ đi. Đó là cái buồn vì phải thất bại. Lựa chọn bước theo Tin Mừng là thành công của con người, cũng như làm nô lệ cho tiền bạc thế gian khiến họ thất bại. Hai điều đều đúng như nhau. Tin Mừng luôn luôn nhắc lại cho chúng ta nghịch lý này: Ai từ bỏ chính mình và thế gian vì muốn theo Chúa Kitô sẽ được hưởng niềm vui vì đã thành công ở trong cuộc sống; trái lại ai từ chối chúa Giêsu và thập giá Người vì quá gắn bó với mình và với vật chất sẽ gặp u buồn vì đã thất bại ở trong đời mình.
2. Tại sao trong thế giới văn minh vật chất hiện nay, người ta thường nói tới hưởng thụ mà ít nói tới niềm vui. Vì khi con người chỉ biết bám riết vào thế giới này, xem nó như là tuyệt đối thì đương nhiên đã phát sinh lầm mống thất bại, làm mất linh hồn. Nào có ích gì cho con người nếu chiếm được vũ trụ mà mất linh hồn? Ngày nay, chúng ta chứng kiến biết lo âu lo khắc khoải, xung đột, u buồn trong thời đại ta, một lời đại chỉ biết tích trữ “của ăn vật chất” để rồi sẽ nổ tung ra. Ngày nay hơn bao giờ hết, môn đồ Chúa Kitô phải biết làm chứng cho Người. Tiến bộ kỹ thuật rất tốt, nhưng với một điều kiện là chúng không được làm chúng ta xa rời đức công bình, tình yêu thương và lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúa Giê-su kêu mời môn đồ Người làm chứng rằng Người đặt ưu thế giá trị thiêng liêng ở trên việc hưởng lạc vật chất; là ưu thế này phải có không những trong cuộc sống riêng tư mà còn trong sinh hoạt xã hội, nghề nghiệp, chính trị. Để tránh cho thế giới khỏi phải sống không có niềm vui, người Ki-tô hữu có sứ mệnh đáp lại lời mời gọi đó của Chúa Ki-tô.
3. “Anh chỉ thiếu một điều…”. Điều duy nhất mà người kia còn thiếu chính là điều anh vẫn thiếu từ bao lâu. Điều duy nhất đó, Israel đã tìm kiếm trong suốt cả lịch sử. Điều duy nhất đó là chính Thiên Chúa duy nhất bây giờ đã trở nên rất gần trong Chúa Giê-su đến nỗi chỉ có một việc là đi theo Người. Đối với chàng thanh niên giàu có, tuân giữ các giới luật bây giờ chính là đi theo Chúa Giê-su, là tiếp tục tuyên xưng lòng tốt lành của Thiên Chúa duy nhất mà bây giờ tự ban mình trong bản thân Chúa Giê-su.
4. Ở đây, lại một lần nữa, Chúa Giêsu loan báo một sự đảo ngược các giá trị. Người đã nói rằng: sự giàu có, theo quan niệm Do thái, là một dấu chỉ được Thiên Chúa chúc phúc, thì trong thực tế nó đã trở thành một tai họa. Giờ đây Người đang rao giảng giá trị thiêng liêng cao quý của việc từ bỏ mọi liên hệ mật thiết nhất: cha mẹ, nhà cửa, ruộng vườn. Trọng tâm Lời Chúa dạy nằm trong câu ngắn gọn này: Không ai vì Ta và vì Tin Mừng từ bỏ nhà cửa. Câu “vì Ta” là câu căn bản. Có sự đảo ngược các giá trị không phải vì biết chọn một điều khôn ngoan, một hệ thống triết học, một ý thức hệ, mà chính vì tình yêu Chúa Ki-tô, vì biết quyết định để theo con người Chúa Ki-tô.
Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét