Trang

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024

Việc chữa lành Bartimê – Chú giải Tin Mừng CN 30 TN B – Học viện giáo hoàng Piô X Đà Lạt

 

Việc chữa lành Bartimê – Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật XXX Thường niên B – Học viện giáo hoàng Piô X Đà Lạt

VIỆC CHỮA LÀNH BARTIMÊ

 

CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM B

 

(Mc 10, 46- 52)

 

CÂU HỎI GỢI Ý

 

1. Thử tìm văn mạch tổng quát và văn mạch trực tiếp của trình thuật.

 

2. Chủ đề chính của bản văn này là gì?

 

3. Đâu là phép lạ chính của bản văn? (Nghiên cứu cuộc đối thoại và cử chỉ của kẻ mù).

 

4. Bản văn này định nghĩa thế nào về đức tin?

 

Trong bản văn này, chỗ đứng của việc chữa lành rất nhỏ bé: không một lời hay một cử chỉ thần thông này cả. Phải chăng Mc muốn quên để nhấn mạnh đến một phép lạ thuộc loại khác, phép lạ mà ông sẽ cho thấy đặc tính trong ngôn ngữ riêng ông? Đó là vấn đề mà công việc nghiên cứu này thử giải đáp.

 

1. MC 10,46-52 TRONG TOÀN BỘ DIỄN TỪ CỦA MAC-CÔ

 

Để hiểu rõ hơn đoạn văn hôm nay, cần đặt nó lại vào trong văn mạch chung và văn mạch trực tiếp của nó: mỗi một văn mạch tương ứng với một mức độ riêng biệt trong hoạt động biên soạn của Mc.

 

a. Trong sự phối trí chung của tác phẩm

 

Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng thứ hai, cuộc chữa lành người mù ở Giêricô có dáng như là thành phần của một bộ ba song song với cuộc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Bản văn cuối này đi ngay trước việc tuyên xưng của Phêrô tại Caisaria (8,27-30) và việc tuyên xưng này lại được kéo dài bởi lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn (8,31-33). Cũng thế, Mc .10,46-52 được tiếp nối bởi việc tung hô Chúa Giêsu là Đấng Messia khi Người vào Giêrusalem, đoạn bởi trình thuật về cuộc Khổ nạn.

 

Một cách nào đó, Mc 8, 22-26 và 10,46-52 làm nên những trình thuật chuyển tiếp. Hình như chúng dẫn độc giả đến chỗ tuyên xưng đức tin cách công khai vào thiên sai tính của Chúa Giêsu: đức tin và thiên sai tính giả thiết biến cố Tử nạn. Trong viễn ảnh thần học này, việc mở mắt người mù mặc một giá trị dấu chỉ.

 

b. Trong văn mạch trực tiếp

 

Tiết tường thuật trong đó chen vào việc chữa lành Bartimê, khởi đầu từ Mc 10,32:

 

“Bấy giờ họ đang đi trên đường (en tôi hodôi) lên Giêrusalem, và Chúa Giêsu bước đi trước họ, và họ kinh hoàng; còn những kẻ theo sau thì sợ hãi…”

 

Nhiều sợi dây mà chúng ta sẽ tách ra khỏi “khung dệt” của Mc 10,46-52, một cách nào đó, còn nằm lộn xộn trong câu này. Con đường được xác định: đường lên Giêrusalem, trên đó Bartimê sẽ đi theo Chúa Giêsu sau khi được chữa khỏi (c.52).

 

“Và hắn đã theo người trên con đường” (c.52): câu này là một sự khai mở. Bi kịch cá nhân và sứ mệnh của Bartimê (“Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi“) mở màn bi kịch tập thể và nhiệm mầu sắp trình diễn. Mátcô trình bày bi kịch này trong trình thuật tiến vào Giêrusalem tiếp theo. Số “nhiều kẻ” đã chống đối thái độ của Bartimê (10,8), nghĩa là những kẻ, cho đến lúc đó “còn kinh hoàng và sợ hãi” (10,32) thì nay nhận ra Đấng Messia (11,8-10). Họ cao rao tư cách thiên sai dòng Đa-vít của Chúa Giêsu mà trước đó họ đã từ chối. Tất cả, chẳng trừ ai, không còn công bố tước hiệu thiên sai nữa (“Con Đa-vít”) nhưng công bố chính nội dung chính xác của tước hiệu này: “Họ kêu lên: Hosana! Chúc muôn lành cho Đấng …” (11,9). Người ta gặp lại động từ “kêu lên” ở thì bán khứ, y như trong trường hợp của người mù (c.48: “nhưng hắn càng kêu to hơn nữa…”) sau việc can thiệp thù nghịch cũng của đám đông trên. Việc đi từ số ít sang số nhiều của cùng một hình thức động từ này mang nhiều ý nghĩa.

 

Thành thử Mc 10,32-11,10 xem ra giới hạn phạm vi biên soạn của đoạn văn chúng ta. Từ điểm bản lề này của Tin Mừng Mc nổi bật lên vật tranh dành tối hậu của sứ mệnh Chúa Giêsu: việc tạo lập dân tín hữu. Thật vậy, việc chữa lành Bartimê biểu lộ một quyền lực mới mẻ và kỳ lạ trên thực tại nhân loại đến nỗi kéo theo một sự gắn bó hoàn toàn và dứt khoát vào Chúa Giêsu, Đấng Messia. Sự gắn bó này lấp đầy mọi khoảng cách bởi vì nó đã đem tất cả các khoảng cách về con đường duy nhất tnà từ đây có tính cách giải phóng (“con đường”, con đường lên Giêrusalem); nó cũng xếp đặt mọi giây phút vào trong một “thời gian” duy nhất (được biểu thị theo văn phạm bởi thì bán khứ: “hắn kêu lên”, “họ kêu lên”) thời gian bao gồm toàn thể các biến chuyển; cuối cùng, sau khi đã cấu tạo và tổ chức con người (được tiêu biểu qua Bartimê), sự gắn bó nói trên cũng cấu tạo và tổ chức đoàn người vốn tượng trưng và tiên báo một nhân loại sẽ chiếm hữu mãi mãi những tiềm thể năng động của sự thành tựu của nó.

 

c. Mc 10,46-52 và dấu vết của Mátcô

 

Bảng sau đây cho thấy ở đây Mátcô để lộ đến mức này các phản ứng mà ông đã khá gọt dũa khi biên soạn Tin Mừng của ông:

 

 Mc 10, 46 – 52

 

 Hắn đang ngồi

 

bên đường

 

Hắn bắt đầu kêu to

 

Chúa Giêsu ngừng lại

 

Với một cái nhảy, hắn đến

 

cùng Chúa Giêsu Con Đavít.

 

…..

 

Rabbuni, xin cho tôi thấy được

 

…..

 

Hãy đi đức tin ngươi đã cứu ngươi

 

Và tức khắc hắn thấy được…

 

Mc 5, 1 – 20

 

Hắn Có Chỗ

 

Trong Mồ Mả

 

Thấy Giêsu Đằng Xa

 

Người Đang Đi Ra

 

(Từ Xa) Hắn Chạy Lại

 

Bái Lạy Trước Người

 

….

 

hắn van xin Người cho hắn ở với Người

 

…..

 

Hãy đi về nhà

 

Và hắn ra đi….

 

Giữa việc chữa lành tại Giêricô và việc trừ quỷ ở Gêrasa, có một sự giống nhau rõ rệt, đáng được nghiên cứu xa hơn: các phân tích sau đây sẽ đóng góp một phần.

 

2. THỬ NHÌN MỘT CÁCH TỔNG QUÁT

 

Chủ đề “con đường” (hê hodos) với tất cả những gì liên hệ đến nó (đi, dừng lại…) rất quan trọng trong Mc 10,46-52.  Đọc lần đầu tiên, tất cả các yếu tố của bản văn hình như quy chiếu về đấy cả cử chỉ lẫn ngôn từ.

 

Người ta ghi nhận sự đó, ngay từ những chữ đầu tiên: “họ đến” (c. 46a, erchontai). Động từ ở thì hiện tại này không chủ từ minh bạch. Vẫn biết trong một thì thứ hai, người ta gặp lại, lúc ra khỏi Giêricô, các môn đồ, một đám dân đông đảo cùng Chúa Giêsu (c.46b). Và qua câu dẫn nhập rườm rà này người ta thấy được, nơi Mátcô, cái ưu tư đích thực muốn trình bày tất cả những ai ông đã cho “đến” Giêricô mà không chỉ định họ cách rõ rệt. Nhưng, được đặt một mình ở ngay đầu trình thuật, hình thức động từ “họ đến” nhất thiết mang một ý nghĩa khác với ý nghĩa tường thuật hoàn toàn: cú pháp sâu xa của trình thuật sẽ xác định hình thức động từ đó. Lúc này, người ta có thể bảo nó đang tìm kiếm một chủ từ và một thì thích hợp, hơn nữa còn đòi hỏi một hạn từ thích đáng để chỉ còn là một dấu chỉ đường phải theo (“Khi Người ra khơi Giêricô”); nhưng theo mục tiêu nào?

 

Trong câu cuối cùng của trình thuật: “Và hắn theo Người trên con đường” (on tôi Ịhodôi), động từ ở thì bán khứ ám chỉ sự liên tục. Liên lục trong sự di động bởi vì là đi trên con đường”, nhưng cũng liên tục trong sự cận kề, bởi vì Người ta đi sau và đi theo một kẻ ý tưởng chủ chốt của công thức đó là sự hiện diện dứt khoát “trên con đường” hay hơn nữa “trống con đường”. Mà vị thế này lại đối nghịch với vị thế (bên khỏi của Bartimê (c.46): “Hắn đang – ngồi bên đường” (para tôn hođon). Đây là một dáng điệu cố định, tự bản chất coi như dứt khoát. Thì bán khứ của động từ cho thấy điều đó. Hơn nữa, việc đề cập đến nghiệp ăn xin (Bartimê được gọi là prosaitôs) và tật mù lòa càng làm nổi bật thêm dữ kiện vừa nói. Ở đây nghiệp ăn xin hàm súc sự cố định và tật mù lòa hàm súc sự xa cách. Phải chăng một người mù không càng xa cách các thực tại mà về phương diện thể lý càng gần gũi chúng?. Do đó “mù lòa” và “ăn xin” thuộc về cùng một sổ như “con đường”, “đến”, “ngồi” hay “đi theo”. Thành thử “bên đường” có nghĩa là “ngoài con đường” và trong trường hợp của người mù là “xa con đường”. Bị loại khỏi con đường, đó là điều đánh dấu tình trạng của Batimê ngay đầu trình thuật. Vì mù lòa, hắn vĩnh viễn xa cách con đường bình thường của mọi kẻ sáng mắt. Vì ăn xin, hắn nằm trong tình thế bị khai trừ, trong sự cố định để có thể tồn tại trong sự xa cách ấy.

 

“Dừng lại” (c.49). một việc gây kinh ngạc: Chúa Ki-tô dừng bước. Làm thế, Người tự tách mình khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người cắt ngang một chuyển động mà Người là động lực chính. Sự cắt ngang này phát sinh một hậu quả bất ngờ. Người ta rất ngạc nhiên thấy kẻ mù quăng áo khoác, nhảy chồm dậy và đến gần Chúa Giêsu (“Hắn đến cùng Chúa Giê-su, ôlthen pros ton lôsoun). Mọi sự xảy ra như thể Bartimê không còn mù lòa nữa! Động từ  “nhảy chồm dậy” khá nói lên điều đó: nó đánh dấu một phản đề lớn đối với các dữ kiện tiên khởi của trình thuật.

 

Điều lạ là Bartimê được gọi là: người mù” (ho typhlos, cc 49.51) sau sự can thiệp của Chúa Ki tô. Vì chính từ giây phút đó hắn xem ra được Chúa Giêsu và đám đông quan tâm (Gọi người ấy… Hãy vững lòng! Đứng dậy…) và hắn xử sự  (“với một cái nhảy…”) như một người sáng mắt. Nếu Mátcô chỉ gọi hắn là “người mù”, phải chăng ông muốn nói rằng hắn không còn là “kẻ ăn xin” nữa ? Việc ném chiếc áo áo choàng (mà những người ăn xin Đông phương thường dùng để nhận tang vật) biểu thị việc chấrn dứt sự cố định, y như, dưới một khía cạnh nào đó, tiếng gọi của Chúa Giêsu mà đám đông lặp lại theo. Điều quan trọng, đó là cách người mù đột nhiên đạt được sự di động, trong khi hắn, để sống còn, đã bị kết án nằm trong sự bất động vĩnh viễn (“Hắn đang ngồi.. Sự di động hay, hắn biểu lộ một cách rất rực rỡ nhất. Động từ “đến”, vốn mở đầu trình thuật. Họ đến đã tìm được chủ từ của nó: trước tiên bị từ khước đối với Bartimê giờ đây động từ được dành cho hắn, nhưng ở thì aoriste (“Hắn đến”, ôlthon). Đây là một động tác duy nhất, quyết định in vào thái độ này một đặc tính tuyệt đối. Nó dẫn đến Chúa Giêsu và, do đó, đưa vào “trong con đường”. “Chúa Giê-su và “con đường” đồng hóa với nhau, hay nói cách khác, “sự kế cận” và “sự di động” kết hợp nhau: con đường mở ra cho người mù.

 

Tất cả các yếu tố mà chúng ta đã liệt kê, được xếp đặt cách chặt chẽ trong một màng lưới gồm những đối lập và tương quan đầy ý nghĩa; các đối lập và tương quan này hoạt động bên trong một hệ thống sát sao. Thế mà, một phần lần của trình thuật được cấu tạo bởi cuộc đối thoại giữa Bartimê và Chúa Giêsu. Thành thử điều quan trọng là tìm xem chính cuộc đối thoại này có thể được tích hợp vào trong một cơ cấu như thế, để tăng cường cách diễn tả của cơ cấu đó không?

 

3. “TIẾNG KÊU” VÀ “CÁI NHẢY” CỦA ĐỨC TIN

 

Khi đi tìm các thành phần chủ yếu của cuộc đối thoại, người ta sẽ biết rõ hơn cái động lực bên trong.

 

Đám đông dân chúng can thiệp nhiều lần. lần đầu tiên, họ báo hiệu sự  hiện diện của “Giêsu người Nadarél” (.c.). Bartimê nhận được từ này do thính giác (“sau khi nghe”), điều nhắc đến tật mù lòa của hắn và mọi cái mà tật mù lòa bao hàm, đặc biệt là sự xa cách. Tiếng “Giêsu người Nadarét” chỉ Chúa Giêsu, không liên hệ gì với bất cứ mặc khải độc đáo nào về bản thân và sứ mệnh của Người. Sự kế cận của Người, hoàn toàn nhân loại, xem như đã đạt được. Nhưng phải chăng đấy là một sự kế cận đích thực? Một điều chắc chắn là: việc trần thuật diễn tả sự xa cách.

 

Vả lại người mù từ khước loại kế cận này. Người ta biết hắn không thể đến với “Giêsu Nadarét” vì tật mù lòa cái nhân tố chia cách và triệt để cắt đứt hắn khỏi tất cả những gì kế cận và rất kế cận hắn. Nhưng, với một tiếng kêu (“Hắn bắt lầu kêu kêu”), điều hàm súc sự xa cách, Bartimê gọi Chúa Giêsu như “Con Đa-vít”. Làm thế, hắn gán cho Người tước hiệu Messia của Israel. Nếu hắn hiểu và công bố như vậy cái khoảng cách chia cách hắn thực sự với Người, thì bù lại, sự hiểu biết bất chợt và không thể giải thích vừa nói về Chúa Giêsu trong tận thâm sâu hữu thể Người cho thấy cái bước nhảy trọn vẹn ra khỏi sự xa cách ấy. Lời tuyên bố này xác nhận, trong một “tiếng kêu” duy nhất, cái ý thức đau khổ về một khoảng cách không thể rút ngắn (c.46: “đang ngồi”) và xác nhận sự hiểu biết trực tiếp và chính xác về đối trọng con Đavít; đây là một thái độ tổng hợp cách lạ kỳ hay kinh nghiệm tương phản nhau, kinh nghiệm về sự xa cách (thể lý) và kinh nghiệm về sự cận kề (đích thực).

 

Trong lời tuyên bố hay thỉnh nguyện thứ hai của kẻ mù, sự can thiệp của “nhiều người” (c.48) kéo theo ý tưởng cường độ. Ý tưởng này được nhấn mạnh qua trạng từ “càng mạnh hơn” và qua-lối dùng thì bán khứ kêu lên c.48), thì ám chỉ tính cách liên tục trong cường độ ấy. Hơn nữa, tiếng “Giêsu” đã biến mất khỏi lời van xin. Chỉ tước hiệu “cứu Đavít” còn lại. Vậy là sự xa cách đã trọn vẹn và sự hiểu biết về đối tượng đã hoàn toàn; chướng ngại là đám đông biểu thị mạnh mẽ điều đó.

 

Chính nơi đây, xảy ra sự cắt đứt được đánh dấu bởi việc Chúa Giêsu dừng lại (c.49): một sự cắt đứt dứt khoát là ta biết là sắp ban cho người mù ăn xin sự di động và cho anh ta đạt được sự cận kề. Việc dừng chân này hình như tạo thành cái trục nối kết cách có hệ thống hành động và cuộc đối thoại của trình thuật.

 

Tiếng “Rabbuni” (xuất hiện hai lần trong Tân ước, ở đây và Ga 20,16), tiếng diễn tả sự tôn kính và thân tình, xác nhận sự kề cận nói trên. Nhưng nó cũng ngụ ý một sự cố định mới (nghỉ chân để gặp gỡ đương nhiên làm phương hại sự cận kề mới được phát sinh và củng cố bởi sự di động. Chữ  Rabbum nằm giữa hai lời của Chúa Giêsu: một lời mời gọi (“Hãy gọi người ấy và một lời sai đi (“Hãy đi”, thường được Mc và một dùng trong khung cảnh một sứ mệnh do Chúa Giêsu ủy thác : Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13). Mỗi một lời ăn khớp đi sự dừng lại của Chúa Giêsu và sự cắt đứt có tính cách “sáng tạo” mà việc dừng lại này tượng trưng.

 

Việc dừng lại, vốn cho phép Chúa Giêsu và anh mù cả hai dấu bị bắt buộc nằm trong tình trạng cố định – gặp nhau, gây nên hai mệnh lệnh song song và bổ túc nhau: một mệnh lệnh kéo theo sự di động (x. c.49): “Hãy gọi người ấy”) và sự kế cận bất ngờ (“Với một cái nhảy, hắn đến cùng Chúa Giêsu”), và một mệnh lệnh (“Hãy đi, đức tin ngươi đã cứu  ngươi”) làm cho sự kế cận này được dứt khoát thủ đắc và được củng cố trong một sự di động bắt buộc (“Hãy đi”) mà nếu không có thì sự kế cận không thể trường tồn: vì thế mệnh lệnh đưa tới việc thình lình cho thấy (“lập tức hắn thấy được”, ở thì aoriste, giống như: “với một cái nhảy, hắn đến”). Cái nhìn cho phép ta được gần dù còn đứng xa, nó bảo đảm an toàn trong việc di động.

 

Sự kiện khôi phục lại thị giác làm nên dấu chỉ của việc ban đức tin (“Đức tin của ngươi đã cứu ngươi”), vì đức tin là cái nhìn cách khoảng, là khả năng đi đường và là sự đòi hỏi phải lên đường. Tật mù lòa bắt phải xa cách trong sự gần gũi; vì thế tự nhiên nó là dấu chỉ sự thiếu vắng đức tin (đám đông biết “Giêsu Nadarét” ở đó, nhưng họ không biết đấy là “Con Đavít”; sự mù lòa đích thực thật ra nằm nơi đám đông đang đi, chớ không phải nơi Bartimê, người mù bất động). Từ đó ta dễ hiểu rằng, trong một trình thuật mà Mc cho thấy ngay từ những chữ đầu tiên đức tin của một người mù, thì kẻ mù này được coi như không mù và cư xử như không mù hay không còn mù nữa,  mặc dầu việc chữa lành anh ta chưa được thực hiện. Các điểm bất mạch lạc trong việc tường thuật này lồng trong một sự hợp lý đích thực, sự hợp lý của tác phẩm.

 

Thành thử người ta hiểu được rằng phép lạ của đức tin – sự gần gũi trong xa cách – được biểu thị qua việc mở mắt. Một việc mở mắt cho phép ta trở nên kế cận dù cách khoảng. Câu nói “hãy đi” bao hàm một sự cắt đứt (mà “Rabbuni” có vẻ muốn khước từ), một sự cắt đứt gây nên sự di động cần thiết cho kẻ “thấy” trong đức tin, nghĩa là kẻ đi theo Chúa Giê-su trên con đường của Người: điều giả thiết phải có “cái nhìn” của đức tin và có khoảng cách (khoảng cách chứ không còn xa cách) cần thiết cho việc thi thố đức tin đó; vì đức tin lấp đầy khoảng cách này, một khoảng cách mà đức tin, một cách nghịch lý, đòi hỏi phải có.

 

KẾT LUẬN

 

Việc phân tích các điểm đối lập và tương quan khác nhau trong Mc 10,46-52 đã dẫn chúng ta đến chỗ phân biệt trong đó việc đi từ một vị thế bị khai trừ, cố định và xa cách sang một vị thế hội nhập, di động và gần gũi. Việc Chúa Giêsu dừng chân “lên đường” đóng một vai trò trung tâm trong quá trình đó. Việc nghiên cứu cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và Bartimê lại đến tăng cường lẫn xác định công việc trên. Các ý niệm xa cách và cận kề được nổi bật đặc biệt: thật vậy chúng xem ra chế ngự mọi ý niệm khác. Trong thực tế, “sự mù lòa” và “việc nhìn thấy” – cái thứ nhất biểu trưng sự xa cách trong kế cận, cái thứ hai sự kế cận trong xa cách – là những ý tưởng nổi bật của toàn thể bản văn. Tất cả đều xem ra xoay quanh chúng.

 

Một tia sáng bắn ra ngay từ c.47. Người ta khám phá ra trong câu đó điểm nghịch thường hiển nhiên này: “người mù” (nghĩa là kẻ thực sự xa cách mặc dầu kề cận về phương diện thể lý) “thấy” Chúa Giêsu là ai, trong một sự hiểu biết trọn vẹn (“Con Đa-vít”) khiến cho hắn ta thực sự cận kề (qua “tiếng kêu” hay “cái nhảy” của đức tin) trong khi hắn hãy còn xa cách về phương diện thể lý (do sự ngăn cách bởi mù lòa). “Phép lạ” của đức tin vì vậy được thủ đắc, như trình thuật về việc chữa lành biểu thị một cách rõ rệt (việc chữa lành này chỉ được ám thị, chứ không được mô tả trong thực tế).

 

Thế mà sự kế cận (của đức tin) phải kéo dài. Sự di động là nhân tố duy nhất của sự kéo dài ấy (“Hắn theo Người trên đường”, ở thì bán khứ); vì thế sự di động đòi hỏi sự hội nhập cần thiết vào “trong con đường”. Sự kế cận đã được thủ đắc cuối một chuyển động được phát khởi do một sự cắt đứt Chúa Giêsu dừng lại”) và được thúc đẩy do một lời mời “Hãy gọi hắn”). Việc chiếm hữu dứt khoát sự kế cận này tùy thuộc vào một sự cắt đứt khác (“Hãy đi”), một sự cắt đứt đưa nó vào một động lực từ đây có tính cách trường kỳ, “trên con  đường” (hay “trong con đường”) con đường cần thiết và duy nhất, dành cho kẻ “thấy”, cho kẻ có thể kề cận dù cách khoảng, cho kẻ “tin hay nói một cách khác, cho kẻ có khả năng quán triệt trực tiếp toàn thể đối tượng vượt trên mọi xa cách.

 

Không thể có việc gián đoạn “cái nhìn” này: hai sự cắt đứt (“Chúa Giêsu dừng lại” và “Hãy đi”) tạo nên cái nút thường xuyên của kinh nghiệm người tín htĩu. Thành thử “tin” (1) là “thấy” (2) nhưng nhất là “đi theo Chúa Giê-su (3) (“với một cái nhảy, hắn đến cùng Chúa Giê-su (1), “và tức khắc hắn thấy” (2), “và hắn đi theo Người” (3). Điều này đòi hỏi động lực của một thái độ tự ý vốn không ngừng lấp đầy một khoảng cách cần thiết cho việc tự do chiếm hữu sự kế cận duy nhất, sự kế cận của đức tin vào Giêsu, Đấng Ki-tô.

 

André Paul, Assemblées du Seigneur 61 , tr. 44-52.

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

 

1. Phép lạ chữa người mù được sáng là phép lạ cuối cùng mà Mc kể lại trước bài tường thuật tấn bi kịch được kết thúc bằng khổ hình thập giá. Một cách nào đó, thánh sử muốn đúc kết những gì xảy ra ở trước đây: Biến cố Chúa Giêsu đi qua, có những người không muốn nhìn thấy, nhưng cũng có nhiều người khác, như người mù thành Giêricô, đã muốn Chúa Ki-tô mở con mắt tâm hồn họ và đã ra đi bước theo con đường của Người. Họ là những người biết nhạy cảm với ánh sáng nội tâm, một thứ ánh sáng soi chiếu tất cả mọi người ở trong thế gian; họ đã không dập tắt ánh sáng đó vì tư lợi, vì mưu toan ganh trị, vì quan niệm sống, vì thành kiến; họ đã ra đi theo Chúa Ki-tô.

 

2. Mặt khác, phép lạ chữa người mù được sáng và đi theo Chúa còn báo cho chúng ta biết một điều luật quan trọng của Tin Mừng: nhận ra chân lý mà thôi chưa đủ, còn phải sống chân lý đó nữa. Nhận thức đức tin không phải chỉ là một hoạt  động thuần lý trí mà còn đòi hỏi một sự dấn thân toàn vẹn con người. Khi trí khôn đã hiểu rõ khía cạnh nào của đức tin, thì con tim và ý chí phải theo để đem ra thực hành trong đời sống điều mà lý trí đã thấy. Chúng ta chỉ đọc và hiểu thật đúng Tin Mừng sau khi đã xếp sách lại, chúng ta cố gắng đem ra thực hành. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mình theo ý lời kinh của Giáo Hội: “Lạy Chúa, xin biến cải chúng con thành những môn-đồ của ánh sáng và thành những người kiến tạo chân lý”.

 

3. Người mù tin tưởng, gương mẫu của môn đồ Chúa Giêsu. Con người này, sống trong một tình thế nguy kịch, là hình ảnh kẻ nghèo khó mà chúng ta phải trở nên; anh nhận ra Chúa Ki-tô như vị cứu tinh của anh và đến cùng Người với tâm hồn đơn sơ trong sáng. Đau khổ luôn luôn có nguy cơ làm cho chúng ta mù lòa, nổi loạn; nên ta hiểu ngày nay Giáo Hội đề ra phép Xức dầu không như bí tích để dọn mình chết cho bằng như sự giúp đỡ cho thời gian tật bệnh. Chẳng cần phải gần gũi nhiều bệnh nhân mới biết là vào một vài lúc, cuộc sống họ thật là khó khăn: làm sao giữ niềm tin vào vị Thiên Chúa tình yêu khi người ta đau khổ? Thân phận bệnh nhân hay tật nguyền có những “cám dỗ” riêng của nó. Vẫn biết đối với một vài người, thử thách gây nên một phản ứng đạo đức và tin tưởng. Nhưng khi đau khổ quá mức, lòng tin cũng dễ bị lung lay. Tuy nhiên, cuộc sống tín hữu không nên là một chuỗi hành vi tin tưởng chớp nhoáng. Phép Thánh Thể phải rèn đúc chúng ta từ Chúa nhật này sang Chúa nhật khác một tâm hồn tin tưởng, chứ không chỉ là một con người đạo đức. Chúng ta phải khám phá từng tí rằng Chúa Ki-tô mỗi ngày ở trên con đường chúng ta và trên con đường anh em ta.

 

Học viện giáo hoàng Piô X Đà Lạt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét