Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật XXVIII Thường Niên B
– Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời
gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn
Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giê-su là hiện thân: “vì Thầy
và vì Tin Mừng” (Tin Mừng).
Kn 7: 7-11
Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn
sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.
Dt 4: 12-13
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi
lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm
sâu nhất của con người.
Mc 10: 17-30
Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức
Giê-su đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giê-su
nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.
BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)
Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết
sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác
giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.
Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ
nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về
bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động
của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của
mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon,
vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc
được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng
ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như
bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự
nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành
tâm cầu nguyện.
1. Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon
“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết;
tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”. Việc vua Sa-lô-mon
cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được
kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách
Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12), và từ câu chuyện này tác giả sách Khôn
Ngoan sáng tác một đoạn văn (Kn 9: 1-18). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế
nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà
vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần
thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.
Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua
Sa-lô-mon không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động
độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-mon biết rõ chẳng có gì phải
tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó
thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát
sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với
các bậc quân vương Hy lạp.
2. Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan
Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của
mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11,
được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.
“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai vàng” (7:8).
Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối
ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”.
Tác giả đã khai triển chủ đề này ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với
các bậc đế vương:
“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan
đưa chúng ta lên hàng vương giả.
Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,
nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,
thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,
để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).
Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại
trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca,…chưa nói đến các Thánh Vịnh.
Ví dụ như:
“Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,
không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15).
Hay còn:
“Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc,
hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng.
Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,
không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).
“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”. Với lời này, vua
Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ
hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.
3. Thành quả của Đức Khôn Ngoan
Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi phẩm chất lời nguyện
xin của vua Sa-lô-mon. Để thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức
Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến
chuộng Đức Giê-su hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những
ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời này sẽ nhận được
gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (10: 29-30).
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)
Thư gửi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu
gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước;
hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô
giáo của mình. Bức Thư này nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.
Đoạn văn hôm nay được trích dẫn từ những lời khuyến dụ dài mời
gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch
dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải
vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu
chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy,
chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất trung
đó mà sa ngã” (4: 11).
1. Nhân cách hóa Lời Chúa
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả
gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như
vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống
cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn
thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn
sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em,
hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả
những lời của Luật này. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với
anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất
mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).
2. Chức năng xét xử của Lời Chúa
Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng
giáo huấn. Tác giả thư gửi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo
huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ độc nhất.
Thánh Gioan cũng theo cách thức như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời
tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy
trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh
gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị
cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả
thư gửi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà
giải phẫu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó
là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả
đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không
hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng
có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gửi đến các Ki-tô hữu
đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng
Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)
Câu chuyện về một người giàu có này đều được cả ba Tin Mừng
nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giê-su lợi
dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của
Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống
thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.
Đức Giê-su vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem
thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình
thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết này có
giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả đầy thành tâm thiện chí
của người này và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời
đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng
ta có thể nói đây là một câu chuyện về ơn gọi kết thúc không có hậu.
1. Sự sống đời đời
“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện
này; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối
câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Đây không chỉ là
một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch
sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của
người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu này: cuộc
sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.
Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của
những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn
cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào
thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?
Người này ca ngợi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy nhân lành” kèm
theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ
này làm chứng rằng Đức Giê-su nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người này
tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.
Tại sao Đức Giê-su thoái thác đức tính “nhân lành” này cho
mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm
trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức
Giê-su có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa.
Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giê-su.
Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của chàng thanh niên, Đức
Giê-su sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi
đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.
2. Lời kêu gọi được gửi đến cho người giàu có này
Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giê-su chỉ
trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một
người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giê-su, thực thi Thập
Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự
sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những
điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời này chứng tỏ tấm lòng thành
tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh
gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giê-su. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp
chi tiết cảm động này: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí này, Đức
Giê-su đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về
bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giê-su
đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng
trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa
luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài
không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên
Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giê-su cũng hành xử với
các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy.
Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta
có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc này, chúng ta mới biết được người ấy rất
giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức
Giê-su.
Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với
Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng này. Họ đã công kích những kẻ
giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm
người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Ấy
vậy, chúng ta gặp thấy ở nơi những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do
thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời
đời” là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban
cho dân Ngài.
Còn ở đây, Chúa Giê-su được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến
mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu
có một điều”: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước
theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện này không phải hệ tại
ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giê-su, yêu mến Ngài trên tất cả mọi
sự kể cả mạng sống của mình.
Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành này
được ghi lại trên con đường Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến
cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức
tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức
Giê-su là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được
viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẵn sàng đánh đổi tất
cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi
ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.
3. Lời mời gọi được gửi đến với mọi người
“Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc
trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một
chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giê-su ngỏ lời
với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra,
và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của
mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức
kinh ngạc, nên Đức Giê-su lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con
ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.
Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người
giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích
sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giê-su đã nói rồi:
“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ.
Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24).
Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. “Thế thì ai
có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi này không chỉ vì người gắn bó với
của cải thì đầy dẫy chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông
họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung
thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giê-su trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ
để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót
thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì
khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Chúng ta đừng quên thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của
ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện này, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ
của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần
của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giê-su đã không viếng thăm gia
đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa
yêu thương của Thiên Chúa.
4. Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa
Giê-su
Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái
độ của người giàu có này: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh
tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giê-su trả lời bằng cách nêu lên hai loại
phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời này” và phần thưởng
được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.
Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa
đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức
Giê-su, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình.
Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem
ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng trần
thế. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần này mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi,
thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi
là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt,
nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ
thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui
vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu
có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét