Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa nhật XXX Thường niên B –
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm
lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ
ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những
người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế
Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu
đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu
đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương
31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một
trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử
của Thiên Chúa.
1. Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem
vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm
tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon,
nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng
bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua
một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.).
Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến
những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế
quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc
Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu
mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi
đất nước.
2. Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục
hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm
ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm
lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh
khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những
lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng
mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn
dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được
gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách
riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người,
số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua
gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn.
Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế
kỷ sau đó.
3. Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói
kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc
Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”.
Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức
Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người
Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với
Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các
chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện.
Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời
nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà
vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày
Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị,
vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa
chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu
xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử
của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa
đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính
ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức
Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng
Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của
Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của
hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu
đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
1. Vị thượng tế Cựu Ước:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế
Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối
của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì
chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội
cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có
thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy
từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền
con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của
ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
2. Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với
Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự
đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt
phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài
là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật
A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô,
tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm
thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên
Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên
xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận
được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của
Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh
Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương
được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng,
còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của
Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng
còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế,
như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
3. Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể
tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật
khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách
Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành
Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã
chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên
Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy
một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng
tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch,
muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế
Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm
trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong
vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy
cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức
Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của
con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng
nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện
nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời
loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành
thánh Giê-ru-sa-lem.
1. Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về
thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy
mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước
khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số.
Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên
Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng
với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của
khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
2. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được
mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi
anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của
anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang
nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không
cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó
biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc
chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người
mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu
của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt
bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su.
Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những
lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được
với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà
không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời
Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải
thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên
Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố
Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành
Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
3. Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy
niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh:
“Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên
lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức
khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên
tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”.
Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho
nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của
mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối
với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người
mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo
choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời
đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên
giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì
đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi
làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn
luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải
tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”.
Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu
trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ
và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con
đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải
sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh
Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
4. Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:
“Anh hãy đi, lòng tin
của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ
đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi”
hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại
nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su
không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu
độ mà Ngài đem đến nữa. Như vậy, anh mù không
chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức
khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường
mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến
cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng
mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy,
câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở
thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn
được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng
về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của
các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện
nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng
hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy
nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng,
thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú
nhất.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét