VUI HỌC
THÁNH KINH
DANH THÁNH
ĐỨC MARIA
Tin Mừng
thánh Luca 1, 26-38
Ngày 12
tháng 9
TIN MỪNG
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì
Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là
Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc
dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng
vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất
bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin
đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một
con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con
Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ
tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người
sẽ vô cùng vô tận."
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy
sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "
35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống
trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp
sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với
bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang
tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa,
không có gì là không thể làm được."
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ
thần từ biệt ra đi.
26 In the sixth month, the angel Gabriel was
sent from God to a town of Galilee called Nazareth,27 to a virgin betrothed to
a man named Joseph, of the house of David, and the virgin's name was Mary.
28 And
coming to her, he said, "Hail, favored one! The Lord is with you."
29 But
she was greatly troubled at what was said and pondered what sort of greeting
this might be.
30 Then
the angel said to her, "Do not be afraid, Mary, for you have found favor
with God.
31
Behold, you will conceive in your womb and bear a son, and you shall name him
Jesus.
32 He
will be great and will be called Son of the Most High, and the Lord God will give him the throne of
David his father,33 and he will rule over the house of Jacob forever, and of
his kingdom there will be no end."
34 But
Mary said to the angel, "How can this be, since I have no relations with a
man?" 35 And the angel said to her in reply, "The holy Spirit will
come upon you, and the power of the Most High will overshadow you. Therefore
the child to be born will be called holy, the Son of God.
36 And
behold, Elizabeth, your relative, has also conceived a son in her old age, and this is the sixth
month for her who was called barren;37 for nothing will be impossible for
God."
38 Mary
said, "Behold, I am the handmaid of the Lord. May it be done to me
according to your word." Then the angel departed from her.
I. HÌNH
TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì?
………………………………………………
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca 1,38
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
II. TRẮC
NGHIỆM
a1. Sứ thần truyền tin cho
Đức Maria tên là gì? (Lc 1, 26)
a.
Sứ thần Gaprien.
b.
Sứ thần Micaen.
c.
Sứ thần Raphaen.
a2. Người thiếu nữ được
truyền tin tên là gì? (Lc 1,27)
a.
Cô Gioanna.
b.
Cô Maria.
c.
Cô Êlisabét.
d.
Cô Anna.
a3. Trinh nữ Maria cư ngụ
nơi thành nào? (Lc 1,27)
a.
Thành Giêrusalem.
b.
Thành Nadarét.
c.
Thành Caphácnaum.
d.
Thành Samaria.
a4. Hôn phu của Đức Maria
thuộc dòng dõi của vua nào? (Lc 1,27)
a.
Vua Salem.
b.
Vua Đavít.
c.
Vua Hêrôđê.
d.
Vua Pharaô.
a5. "Vâng, tôi đây là
nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." (Lc 1,38)
a.
Cô Mácta.
b.
Cô Maria.
c.
Cô Êlisabét.
d.
Cô Anna.
B.
b1. Thánh Danh Maria có
những ý nghĩa:
a.
“Biển".
b.
“Bà Chúa", “Lệnh Bà”
c.
"Lộng lẫy diễm lệ","làm sáng tỏ"
d.
Cả a, b và c đúng
b2. Maria nghĩa hay nhất là
"làm sáng tỏ" vì Mẹ là gì?
a. Bức gương
trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu
b. Trung gian ánh sáng ơn thánh,
c. Rạng
đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.
d. Cả a, b
và c đúng
b3. Anh Chị hãy viết lại Bảy
lời của Đức Maria nói trong cuộc đời Chúa Giêsu :
1. (Lc 1,34).
2. (Lc 1,38).
3. (Lc 1,38).
4. (Lc 1,46-55).
5. (Lc 2,48).
6. (Ga 2,3).
7. (Ga 2,5).
b4. Đức Giáo Hoàng Innocentê
XI nào đã cho phổ biến Lễ kính thánh danh Maria trên khắp cùng thế giới năm
1683?
a. Đức Giáo Hoàng Innocentê XI
b. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô X
d. Đức Giáo Hoàng Piô V
b5. Đức Giáo Hoàng đã cho phổ
biến này trên khắp cùng thế giới năm 1683 để cảm tạ tri ân Đức Mẹ, kỷ niệm biến
cố gì?
a. vua Ba Lan John Soboeski đánh bại quân
Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành Viênna và đe dọa các nước Tây Phương.
b. Công
Đồng Êphêsô khẳng định tước hiệu: Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
c.Cuộc chiến thắng quân Thổ tại vịnh Lê-pan-tô.
d. Biến cố
thánh nữ He len tìm được cây thập tự mà Chúa Giêsu bị đóng đinh.
III. Ô
CHỮ
Những gợi ý
01. Tổ tiên của Đức Giêsu
thuộc dòng dõi vua nào? (Lc 1, 32)
02. Đức Maria xưng mình là
gì của Chúa ? (Lc 1,38)
03. Sứ thần nói Đức Maria
đẹp lòng ai ? (Lc 1,30)
04. Trinh nữ tại thành
Nadarét được sứ thần truyền tin tên là gì? (Lc 1, 27)
05. Thiên Chúa sẽ ban cho
Người cái gì của vua Đavít, tổ tiên
Người? (Lc 1,32)
06. Khi nghe sứ thần chào,
trinh nữ Maria có thái độ thế nào? (Lc 1, 29)
07. Trinh nữ Maria sẽ sinh
hạ 1 con trai, và đứa trẻ được đặt tên là gì? (Lc 1,31) (Lc 1,31).
08. Người sẽ trị vì nhà ai
đến muôn đời? (Lc 1,33)
Hàng dọc :
Chủ đề của ô chữ này là gì?
V. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói."
Tin Mừng thánh Luca 1,38
Lời giải đáp
VUI HỌC
THÁNH KINH
DANH THÁNH
ĐỨC 12 tháng 9
Tin Mừng
thánh Luca 1, 26-38
Ngày 12
tháng 9
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Đức Maria
* Tin Mừng thánh Luca 1,38
"Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói."
II. Lời giải đáp trắc
nghiệm
A.
a1. a. Sứ thần Gaprien (Lc 1, 26)
a2. b. Cô Maria (Lc 1,27)
a3. b. Thành Nadarét (Lc 1,27)
a4. b. Vua Đavít (Lc 1,27)
a5. b. Cô Maria (Lc 1,38)
B.
b1. d. Cả a, b và c đúng
b2. d. Cả a, b và c đúng
b3. Bảy lời của đức Maria nói trong cuộc đời Chúa Giêsu :
1. Mẹ quyết tâm giữ lời khấn trọn đời đồng trinh: "Điều đó xảy
đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam" (Lc 1,34).
2. Mẹ sốt sắng nhiệt thành phục vụ Chúa: "Này tôi là tôi tớ
Chúa" (Lc 1,38).
3. Mẹ trung thành vâng phục thánh ý Chúa: "Tôi xin vâng như lời
thiên sứ truyền" (Lc 1,38).
4. Mẹ hoan hỉ chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi khen sự cao cả của Chúa
(Lc 1,46-55).
5. Mẹ tỏ ra mẫu quyền của Mẹ với Chúa Giêsu: "Hỡi Con, sao Con
làm như thế? Con thấy Cha con và Mẹ phải đau khổ tìm Con?" (Lc 2,48).
6. Mẹ yêu thương thông cảm những nỗi khó khăn người khác: "Họ
hết rượu rồi" (Ga 2,3).
7. Mẹ vững tin quyền phép Chúa: "Người bảo sao, các anh cứ làm
như vậy" (Ga 2,5).
b4. a. Đức
Giáo Hoàng Innocentê XI
b5. a. vua Ba Lan John Soboeski đánh bại quân Thổ
Nhĩ Kỳ vây hãm thành Viênna và đe dọa các nước Tây Phương.
III. Ô CHỮ
01. Đavít (Lc 1,32).
02. Nữ tỳ (Lc 1,38)
03. Thiên Chúa (Lc 1,30)
04. Maria (Lc 1,27).
05. Ngai vàng (Lc 1,32)
06. Bối rối (Lc 1,29).
07. Giêsu (Lc 1,31).
08. Giacóp (Lc 1,33)
Hàng dọc : Đức Maria
NGUYỄN THÁI
HÙNG
Thánh Danh Đức Maria 12-9
LỄ THÁNH DANH ĐỨC MẸ
L.m. Phêrô, CMC
I. THÁNH
DANH MARIA
Thánh
Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam,
tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng
Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.
Trong
Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị
ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một
phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria
Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria
chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria
mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria
vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan;
7. Maria
mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria
là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6).
II. Ý
NGHĨA THÁNH DANH MARIA
Thánh
Danh Maria có những ý nghĩa:
1. Theo
Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh
Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave
Maris Stella".
2. Cũng
theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà
Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre
Dame, tiếng Anh là Our Lady.
3. Maria
tiếng Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa
là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".
4. Maria
tiếng Ugarit là
"mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.
5. Theo
nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha
maris, stilla maris, stella maris.
6. Maria
nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu
ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ
lồng bóng mặt trời.
7. Maria
có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.
III. CÁC
NHÂN ĐỨC CỦA MẸ MARIA
Mẹ Maria
có 12 nhân đức, đó là:
1) Ba
nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến.
2) Bốn
nhân đức trụ: Khôn ngoan, Công bằng, Đại đảm, Tiết độ.
3) Ba
nhân đức theo lời khuyên Phúc âm: Thanh khiết, Khó nghèo, Tuân phục.
4) Hai
nhân đức theo gương Chúa Giêsu: Hiền từ và Khiêm nhượng.
IV. BẢY
LỜI ĐỨC MẸ NÓI TRONG CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU
1. Mẹ
quyết tâm giữ lời khấn trọn đời đồng trinh: "Điều đó xảy đến thế nào được,
vì tôi không biết đến người nam" (Lc 1:34).
2. Mẹ sốt
sắng nhiệt thành phục vụ Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa" (Lc 1:38).
3. Mẹ
trung thành vâng phục thánh ý Chúa: "Tôi xin vâng như lời thiên sứ
truyền" (Lc 1:38).
4. Mẹ
hoan hỉ chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi khen sự cao cả của Chúa (Lc 1:46-55).
5. Mẹ tỏ
ra mẫu quyền của Mẹ với Chúa Giêsu: "Hỡi Con, sao Con làm như thế? Con
thấy Cha con và Mẹ phải đau khổ tìm Con?" (Lc 2:48).
6. Mẹ yêu
thương thông cảm những nỗi khó khăn người khác: "Họ hết rượu rồi" (Ga
2:3).
7. Mẹ
vững tin quyền phép Chúa: "Người bảo sao, các anh cứ làm như vậy" (Ga
2:5).
V. BẢY
NIỀM VUI CỦA MẸ
Thánh
Tôma Canterbury có thói quen đọc bảy kinh Kính mừng kính bảy niềm vui của Mẹ
Maria là:
1. Thiên
sứ truyền tin cho Mẹ;
2. Mẹ đi
thăm viếng Thánh Êlizabeth;
3. Mẹ hạ
sinh Chúa Giêsu tại Bêlem;
4. Các
đạo sĩ đến thờ lạy Ấu Chúa Giêsu;
5. Mẹ tìm
thấy Chúa Giêsu trong đền thánh;
6. Mẹ
biết Chúa Giêsu sống lại;
7. Ngày
Mẹ hồn xác lên trời.
Nhưng một
hôm, Mẹ hiện ra với Thánh Tôma Canterbury mà nói: Hỡi Tôma, lòng sùng kính của
con rất đẹp lòng Mẹ, nhưng tại sao con chỉ nghĩ đến những niềm vui Mẹ đã cảm
nghiệm ở dưới đất? Vậy con hãy tưởng nhớ những niềm vui của Mẹ ở trên trời nữa.
_ Nhưng
làm sao mà con biết được?
_ Con
cũng đọc bảy kinh Kính mừng kính nhớ bảy niềm vui của Mẹ ở trên trời:
1. Vinh quang
của Mẹ vượt trên vinh quang của tất cả các
Thánh;
2. Ánh
sáng của Mẹ chói chang, soi sáng các tầng trời;
3. Mẹ là
Nữ Vương Thiên đàng;
4. Lời
cầu xin của Mẹ luôn được Chúa nhấp nhận;
5. Thiên
Chúa ban thưởng những ai sùng kính Mẹ;
6. Mẹ
Maria được gần nhất Chúa Ba Ngôi;
7. Niềm
vui Thiên đàng của Mẹ cho đến muôn thuở muôn đời.
VI. NIÊN
SỬ CUỘC ĐỜI ĐỨC MẸ
Niên sử
cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn dựa theo niên sử cuộc đời Chúa Giêsu Con của Mẹ:
Trước
Chúa giáng sinh
- Năm
23/20 Sinh nhật Đức Mẹ, ái nữ của Thánh Gioakim và Thánh Anna.
- Năm
20/17 Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ.
- Năm
11/8 Đức Mẹ đính hôn với Thánh Giuse (Mt 1:16; Lc 1:27).
- Năm 7
Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1:26-38).
Đức Mẹ
mang thai Chúa Giêsu (Mt 1:18-25).
Đức Mẹ đi
viếng thăm bà Thánh Êlizabeth (Lc 1:39-56).
- Năm 7/6
Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu tại Bêlem (Lc 2:1-9).
Đức Mẹ
đưa Chúa Giêsu chịu phép cắt bì (Lc 2:21).
Đức Mẹ
lên đền tịnh tẩy và dâng Con (Lc 2:22-24).
Cụ già
Simeon nói tiên tri về Chúa Giêsu và Mẹ (Lc 2:25-35).
Cụ bà Anna
nói tiên tri về Chúa Giêsu (Lc 2:36-38).
- Năm 6/4
Ba vua đến thờ lạy Ấu Chúa (Mt 2:1-11).
Đức Mẹ và
Thánh Giuse đem Con trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-14).
- Năm 4
(?) Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Con trở về Nagiarét (Mt 2:19-23).
Sau Chúa
giáng sinh
- Năm 6 Đức
Mẹ và Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ (Lc 2:41-50).
Đức Mẹ và
Thánh Giuse sống với Chúa Giêsu tại Nagiarét (Lc 2:51).
- Năm
27/28 Mẹ với Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana
(Ga 2:1-11).
- Năm 30
Mẹ Maria trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35; Lc
8:19-21; Ga 2:12-13).
Chúa
Giêsu gián tiếp ca ngợi đức tin của Mẹ (Lc 11:27-28).
- Năm 30
Mẹ Maria dưới chân thánh giá trên đồi Canvê (Ga 19:25-27).
Mẹ Maria
và các tông đồ tại nhà Tiệc ly (Cv 1:14).
Mẹ Maria
lên trời với Chúa Giêsu Con của Mẹ.
VII.
NHỮNG BIỂU TƯỢNG ĐỨC MẸ
1. Rượu;
hương dầu thơm (Dc 1:1-3).
2. Lều
trại Kedar; trướng gấm của Salem
(Dc 1:5).
3. Mặt
trời; vườn nho (Dc 1:6).
4. Cam tùng toả mùi thơm nức (Dc 1:12).
5. Hoa
thuỷ tiên cánh đồng Saron; hoa huệ thung lũng sâu (Dc 2:1).
6. Bồ câu
nơi kẽ đá (Dc 2:14).
7. Cột
khói ngát trầm hương (Dc 3:6).
8. Mắt bồ
câu (Dc 4:1).
9. Tháp
lầu Đavid (Dc 4:4).
10. Mật
ong nhỏ giọt (Dc 4:11).
11. Cột
bạch ngọc (Dc 5:15).
12. Đoàn
quân dàn trận (Dc 6:10).
13. Rạng
đông; mặt trăng; mặt trời (Dc 6:10).
14. Môi
miệng Đấng Tối Cao (Hc 24:3).
15. Cột
mây (Hc 24:4).
16. Ánh
sáng không mờ phai (Hc 29:6).
17. Vòm
trời; vực sâu (Hc 24:8).
18. Cây
trắc diệp trên núi Hermon (Hc 24:13).
19. Cây
cảm lãm trong cánh đồng; cây tiêu huyền bên bờ
nước (Hc 24:14).
20. Cây
quế và dầu thơm ngát (Hc 24:15).
21. Xạ
hương man mác (Hc 24:15).
22. Hòm
bia Thiên Chúa (Xh 25: 10-16).
23. Hoa
hường mầu nhiệm (Dc 2:1).
24. Vườn
địa đường (St 2:8-14).
25. Tàu
Noe (St 6:14-16).
26. Đền thờ
Salomon (1V 6:1-37).
27. Chiếc
thang Giacóp (St 28:12).
VIII. BẢY
PHỤ NỮ TIỀN ẢNH ĐỨC MẸ
Theo các
Giáo phụ, những phụ nữ sau đây trong Cựu ước là những tiền ảnh Đức Mẹ:
1. Bà
Sara vợ của tổ phụ Abraham, son sẻ và đã cao niên mà được Chúa cho hạ sinh một
con trai là Isaac, trưởng tộc một đoàn dân đông đảo (St 21:7-8). Mẹ Maria sinh
hạ một cách lạ lùng Chúa Giêsu là trưởng tử một đoàn em đông đúc.
2. Bà
Rakel có một sắc đẹp dịu hiền khiến cho Giacóp sẵn lòng làm rể ông Laban mười
bốn năm để cưới làm vợ (St 29:17). Sắc đẹp tâm hồn Mẹ Maria khiến Thiên Chúa
tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Con của Người nhập thể Cứu thế.
3. Bà
Miriam là chị ông Maisen. Bà đã cứu em khỏi bàn tay sát hại của vua Pharaon, Ai
Cập, đã được đặc ân nói tiên tri, là một trong những phụ nữ đầu tiên qua biển
đỏ khô chân, đã cất tiếng ca ngợi cám ơn Chúa (Xh 15:20). Mẹ Maria đã cộng tác
với Con Mẹ cứu nhân loại khỏi tội lỗi và tử thần.
4. Bà
Deborah, dưới thời quan án của Israel, đã hạ sát Sisơra, đứng cản địch quân Canaan (Tl 4:4). Mẹ Maria đã chiến thắng Satan địch thù
của dân thánh Chúa.
5. Bà
Giuđitha vừa có sắc đẹp vừa có sức mạnh tinh thần. Bà đã hạ sát Holoferne, hùng
tướng của Philitinh, để cứu dân thành Bethulia. Toàn dân ca tụng bà: "Bà
là vinh quang của Giuđêa, là niềm vui của Israel , là niềm hãnh diện của dân
tộc chúng tôi" (Gđt 15:9). Mẹ Maria đã vinh thắng trên Satan và đạp nát
đầu nó, và đem lại vinh dự cho Thiên Chúa, hân hoan cho Thiên Đàng, và niềm
hãnh diện cho toàn thể dân Chúa chọn.
6. Bà
Esther là hoàng hậu của vua Assuerô nước Ba tư, đã cứu dân Israel khỏi nạn diệt vong (Et
2:17). Mẹ Maria là Nữ Hoàng đã cứu dân thánh Chúa khỏi nạn đoạ trầm.
7. Tân
Evà. Bà Evà đã làm cho loài người phải sa đoạ, thì Mẹ Maria là Tân Evà đã làm
cho loài người được phục hồi (Thánh Giustinô).
IX. NHỮNG
TƯỚC HIỆU MẸ MARIA
1. Trạng
Sư cùng với Chúa Giêsu là Trạng Sư để bầu chữa cho loài người trước toà Chúa
Cha. Tước hiệu này được Giáo hội dùng từ thời Trung cổ trong kinh Lạy Nữ Vương
và các văn kiện của Thánh Bênađô.
2. Đấng
Đồng Công. Các Đức Giáo hoàng Lêô XIII, Piô X, Piô XI, Piô XII và Công đồng
Vatican II đã minh chứng Mẹ Maria đã đặc biệt đồng công cộng tác với Chúa Kitô
trong công trình Cứu chuộc loài người. Riêng Đức Piô XI đã trực tiếp gọi Mẹ là
Đấng Đồng Công (Coredemptrix).
3. Mẹ rất
thánh. Mẹ là Mẹ toàn thể loài người vì Mẹ sinh ra Chúa Kitô là đầu, mà mọi tín
hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên Giáo hội gọi Maria là Mẹ rất thánh
của Chúa và của loài người.
4. Nữ tử
Sion. Tiên tri Isaia và Mica gọi thành Giêrusalem là "con gái Sion". Tiên
tri Giêrêmia gọi "con gái Sion" là dân thành Giêrusalem, ám chỉ toàn
dân thánh Chúa. Trong sách Khải huyền, đoạn 12, Mẹ Maria được ám chỉ là
"con gái Sion" sinh ra một dân tộc mới mà Đầu là Con Trai chiến thắng
Satan.
5. Gương
mẫu. Công đồng Vatican II gọi Mẹ Maria là gương mẫu tuyệt vời và hiếm có, là
mẫu mực của Giáo hội về đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô
(LG, 63).
6. Nữ tỳ
của Chúa. Chính Mẹ Maria đã xưng mình là "nữ tỳ" của Chúa khi thiên
sứ truyền tin cho Mẹ (x. Lc 1:38), và Mẹ đã tự phát trong Ca Ngợi khen:
"Chúa đã đoái nhìn thân phận thấp hèn tôi tớ của Người" (Lc 1:48).
7. Đấng
phù hộ các giáo hữu. Đức Piô V thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Đức Bà phù
hộ các giáo hữu" năm 1571 để cám tạ Mẹ đã giúp đạo binh Công giáo chiến
thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lepante, và để kỷ niệm Mẹ dẹp tan bè rối Albigensê
nhờ kinh Mân côi hồi thế kỷ XII. Năm 1815, Đức Piô VII lập lễ Đức Mẹ phù hộ.
Đức Mẹ phù hộ cũng là bổn mạng dòng Salêdiên, của Úc châu và Tân Tây Lan.
8. Đấng
Vô nhiễm. Mẹ Maria đã được đặc ân đầu thai vô nhiễm nguyên tội mà Đức Piô IX đã
định tín năm 1854. Và Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 với Thánh Bernađetta và
xưng mình là "Đấng Vô nhiễm thai".
9. Đấng
Trung gian. Tước hiệu Mẹ trung gian đã được dùng bên Đông phương thế kỷ VI và
bên Tây phương thế kỷ IX. Từ thế kỷ XVII tước hiệu này được dùng khắp nơi trong
Giáo hội. Mẹ trung gian vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa được đầy ơn đứng giữa Thiên Chúa
và loài người; vì Mẹ cộng tác với Chúa Kitô để giao hoà loài người với Thiên
Chúa, và vì Mẹ là Đấng ban phát mọi ơn lành cho con cái Mẹ.
10. Mẹ
Thiên Chúa. Đầu tiên Thánh Hippolitô đã tuyên đọc Mẹ Maria là "Mẹ Thiên
Chúa". Năm 431 Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa"
để luận án bè rối Nestoriô. Mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu là Thiên
Chúa. Do đó, Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa.
11. Mẹ
Giáo hội. Công đồng Vatican II dạy: Giáo hội
Công giáo dâng lên Mẹ Maria tình con thảo như đối với người Mẹ rất dấu yêu (LG,
53). Năm 1964, Đức Phaolô VI tuyên ngôn: Mẹ Maria là "Mẹ của Giáo
hội". Năm 1980, câu "Mẹ Maria là Mẹ Giáo hội" được thêm vào kinh
cầu Đức Bà.
12. Mẹ
thương xót. Tước hiệu Mẹ thương xót đã có từ thế kỷ III. Nhiều vị Thánh đã kêu
cầu Mẹ thương xót. Thánh Đamianô, Thánh Bênađô, và Thánh Anphong kêu cầu Mẹ
thương xót bằng kinh Lạy Nữ Vương. Mẹ hiện ra với Thánh Brigitta và nói:
"Mẹ là Nữ Vương Thiên đàng, là Mẹ thương xót. Mẹ là niềm vui cho người
công chính, là cửa cho tội nhân đến cùng Chúa. Không có người tội lỗi nào mà vô
phúc ở ngoài tình thương xót của Mẹ. Không có người nào bị Chúa ruồng bỏ đến
nỗi không trở về với Người và được Người thương xót nếu họ kêu xin Mẹ hộ giúp.
Mọi người đều gọi Mẹ là Mẹ thương xót. Lòng thương xót của Con Mẹ đối với loài
người cũng làm cho Mẹ thương xót. Mẹ cảm thương mọi người và tha thiết cứu giúp
các tội nhân".
13. Nữ
Vương hoà bình. Năm 1917, khi thế giới bị Đệ nhất Thế chiến tàn phá, Đức
Bênêđictô XV thêm vào kinh cầu Đức Bà câu "Nữ Vương ban sự bình an".
Mẹ khuyên nhủ con cái Mẹ hãy thực thi công bình và bác ái để họ được bình an
trong Chúa Kitô.
14. Toà
khôn ngoan. Tước hiệu Mẹ là Toà khôn ngoan có từ thời các Thánh Giáo phụ như
Thánh Au-gustinô. Mẹ là ngai toà khôn ngoan, là đền thờ Đấng Khôn Ngoan, vì Mẹ
hằng suy niệm trong lòng những mầu nhiệm của Chúa Giêsu Con Mẹ (Lc 2:19, 51).
15. Mẹ
hằng cứu giúp. Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng từ bi thương xót, hằng bênh vực chở che
cứu giúp mọi người trong những nỗi gian nan cơ khổ. Từ thế kỷ III, người ta đã
kêu cầu Mẹ cứu giúp với kinh "Chúng con chạy đến cùng Mẹ". Đức Lêô
XIII đã giải thích rõ ràng. Và Dòng Chúa Cứu Thế chuyên rao giảng về Đức Mẹ
hằng cứu giúp.
X. LỊCH
SỬ PHỤNG VỤ
Giáo hội
Tây Ban Nha đi tiên phong trong việc mừng lễ Thánh Danh Maria, và được Toà
thánh phê chuẩn năm 1513. Đức Innocentê XI truyền dạy mừng lễ này khắp Giáo hội
năm 1683 để cảm tạ Mẹ trợ phù Gioan Sobieski, vua Balan, chiến thắng quân Hồi
Thổ Nhĩ Kỳ tại Vienna, và được mừng ngày 12 tháng 9, sau lễ Sinh nhật Đức Mẹ
bốn ngày, cũng là ngày chiến thắng Vienna.
Lễ Thánh
Danh Mẹ chỉ là lễ thường, nên đã bị bãi bỏ năm 1970, nhưng năm 1975 được hồi
phục là một lễ Votiva (ngoại lịch).
XI. LỜI
CÁC THÁNH
- Thánh
Êphrem: Danh Thánh Maria là chìa khoá mở cửa Thiên đàng.
- Thánh
Ambrôsiô: Lạy Maria, Thánh Danh Mẹ là một thuốc dầu quí giá toả hương ơn Thánh
Chúa. Xin Mẹ cho thuốc dầu Cứu rỗi vào tận thẳm cung trong linh hồn chúng con.
- Thánh
Phêrô Kim ngôn: Danh Thánh Maria biểu lộ đức Trinh khiết.
- Thánh
Isiđôrô Sévilla: Maria có nghĩa là Ánh sáng, vì bởi Mẹ sinh ra Chúa Kitô là Ánh
sáng thế gian.
- Thánh
Germanô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, ước chi Thánh Danh Mẹ là tiếng sau cùng phát ra từ
môi miệng con.
- Như hơi
thở không những là một dấu hiệu, mà còn là căn do của sự sống, Danh Thánh Maria
luôn trên môi miệng những tôi tớ Thiên Chúa, chứng tỏ rằng họ thực sự sống
động, đồng thời phát sinh và gìn giữ sự sống của họ và cứu giúp họ mọi lúc.
- Thánh
Mêthôđiô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, Thánh Danh Mẹ tràn đầy ơn thánh và phúc lành của
Thiên Chúa.
- Thánh
Antôn: Danh Thánh Maria là niềm vui trong cõi lòng, là mật ngọt trong miệng, là
âm điệu vui tai của những tôi tớ Mẹ.
- Thánh
Bônaventura: Lạy Mẹ Maria, Thánh Danh Mẹ huy hoàng tuyệt diệu, vì những người
kêu tên Mẹ lúc chết không phải sợ mọi quyền lực của hoả ngục. Người ta không sợ
đạo binh thù địch hùng mạnh như những quyền lực hoả ngục sợ Danh Thánh Mẹ và sự
che chở của Mẹ.
- Như sáp
tan chảy trước lửa, ma quỉ mất ngụy lực đối với những linh hồn tưởng nhớ và sốt
sắng kêu cầu Thánh Danh Mẹ.
- Danh
Thánh này ngọt ngào rất xứng với một Trinh Nữ thánh thiện dịu dàng, vì Maria có
nghĩa là Biển đắng, là Sao biển, là Đấng sáng soi. Maria được hiểu là Bà Chúa.
Maria là Biển đắng cho ma quỉ, là Sao biển cho người đời, là Đấng sáng soi cho
các thiên thần, là Bà Chúa mọi thụ tạo.
- Thánh
Tôma: Maria có nghĩa là Sao biển, vì như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào
hải cảng, các Kitô hữu tới vinh quang nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria.
- Chân
phúc Henri Susô, C.P.: Khi đọc tên Mẹ Maria, tôi cảm thấy bừng lên tình mến và
niềm vui đến nỗi trong nước mắt sung sướng tôi đọc tên cao đẹp này, tôi cảm
thấy tim tôi như thoát ra khỏi ngực, vì tên dịu ngọt này giống như tảng mật ong
tan ra trong chiều sâu thẳng của linh hồn tôi.
- Thánh
Bênađinô: Lạy Đức Nữ Trinh vinh hiển, xin Mẹ cho con sức mạnh, tài năng và lợi
khẩu để con loan truyền vinh quang của Thánh Danh Mẹ cho giáo dân và con cái
của Mẹ.
- Thánh
Antôninô: Thánh Danh Maria là niềm vui cho tim con, là mật ong cho môi miệng
con, là nhạc điệu cho tai con.
- Thánh
Tôma Kempi: Quỉ dữ khiếp sợ Nữ Vương thiên đàng đến độ khi nghe tên Mẹ, chúng
trốn chạy như bị lửa hồng.
- Thánh
Canisiô: Sau tên rất thánh và rất đáng kính của Chúa Giêsu, không có tên nào
vinh hiển và quyền năng hơn tên Mẹ Maria. Khi nói đến tên này, các thiên thần
vui mừng, các quỉ dữ run giùng. Kêu xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và
ơn tha thứ.
- Thánh
Lêonarđô Fort Maurice: Thường tên ngọt ngào Mẹ Maria đọc trên môi, bạn phải
hình dung một kỳ công của quyền năng Thiên Chúa, rất tuyệt hảo và tuyệt vời đến
nỗi cánh tay Đấng Toàn năng không thể tác tạo sự gì hoàn hảo hơn trong mẫu mực
một thụ tạo tinh tuyền.
06. Nước Trời (Mt 16,19)
07. Êlia (Mt 16,14)
08. Thiên Chúa (Mt 16,16)
09. Tảng Đá (Mt 16,18)
Hàng dọc : Giáo Hoàng
NGUYỄN THÁI HÙNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét