VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Ds 21, 4b-9
Tin Mừng thánh Gioan 3,
13-17
Ngày 14 tháng 9
TIN MỪNG
13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.14
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
13 No one
has gone up to heaven except the one who has come down from heaven, the Son of Man.
14 And
just as Moses lifted up the serpent in
the desert, so15 so that everyone who
believes in him may have eternal life."
16 For God
so loved the world that he gave his only
Son, so that everyone who believes in him might not perish but might have
eternal life.
17 For God
did not send his Son into the world to condemn
the world, but that the world might be saved through him.
I. HÌNH TÔ MÀU
*Chủ đề
của hình này là gì?
………………………………………………
* Bạn hãy
viết câu Tin Mừng thánh Gioan 3,14-15
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
II. TRẮC NGHIỆM
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
a1. Ai đã giương cao con rắn trong sa mạc? (Ga 3,14)
a. Ông
Ápraham.
b. Ông
Môsê.
c. Ông
Giôsuê.
d. Ngôn sứ
Êlia.
a2. Không ai được lên trời, ngoại trừ ai từ trời
xuống? (Ga 3,13)
a. Con
Người.
b. Các
thiên sứ,
c. Đấng
Cứu Độ.
d. Ngôn sứ
Êlia.
a3. Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để làm gì? (Ga 3,14-15)
a. Để ai
tin vào Người thì được sống muôn đời.
b. Để mọi
người được thấy.
c. Để mọi
người được cứu độ.
d. Để mọi
người tin vào Người.
a4. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người thì thế nào? (Ga 3,16)
a. Khỏi
phải chết.
b. Được
sống muôn đời.
c. Được
thừa hưởng Nước Trời.
d. Chỉ a
và b đúng.
a5. Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian để
làm gì? (Ga 3,17)
a. Lên án
thế gian.
b. Để thế
gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.
c. Để mọi
người được cứu thoát.
d. Con
người được chung hưởng vinh quang đời đời.
B.
b1. Hoàng đế La mã (288-337) nào khi trở thành
kitô hữu đã phá hủy đền thờ Capitole và thay thế bằng đền thờ kitô giáo?
a. Hoàng
đế Constantinô (288-337)
b. Hoàng
đế Nêrô
c. Hoàng
đế Âugúttô
d. Hoàng
đế Xêda
b2. Hoàng đế đã tìm lại được cây thánh giá của
Chúa Giêsu và đích thân vác lên đồi Canvariô.
a. Hoàng
đế Heracôliô I
b. Hoàng
đế Constantinô
c. Hoàng
đế Nêrô
d. Hoàng
đế Âugúttô
b3. Theo truyền thống, thánh nữ đã tìm được thánh
giá của Chúa Giêsu.
b. Thánh
nữ Têrêxa
b. Thánh
nữ Helene (255-328)
b. Thánh
nữ Faustina
b. Thánh
nữ Lucia
b4. Đây là vị thượng tế đã khuyên vua Heracôliô I
hãy cởi bỏ cẩm bào khi vác thánh giá
Chúa Giêsu lên đỉnh núi.
a. Thượng
tế Caipha
b. Thượng
tế Dacaria
c. Thượng
tế Hêli
d. Thượng
tế Simon
b5. Cái chết của Chúa Giêsu theo con mắt người
đời, nhất là đối với người Do Thái lúc đó là thế nào?
a. Một sự
thất bại,
b. Một sự
dại dột
c. Một nỗi
ô nhục
d. Cả a, b
và c đúng
b6. Thánh giá theo nhãn giới người thường là một
thất bại ê chề nhưng đối với người kitô là gì?
a. là mầu
nhiệm tình thương.
b. là
nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ,
c. là nơi
con người tìm được niềm vui và
ơn
giải thoát khỏi tội lỗi.
d. Cả a, b
và c đúng
b7. Thánh giá là chiến thắng của Chúa. Thánh giá là vinh dự của ta. Vì thế người kitô phải sống
thế nào để xứng đáng với Chúa Kitô?
a.
Biết yêu thương đến quên mình
b.
Biết dứt bỏ mọi dính bén trần gian
c.
Biết chết đi cho bản thân để được sống
cho
Chúa.
d. Cả a, b
và c đúng
III. Ô CHỮ
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Những gợi ý
01. Ai đã giương cao con rắn trong sa mạc? (Ga 3,14)
02. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian,
để thế gian nhờ Con của Người mà được điều gì? (Ga 3,17)
03. Đối với thế gian, Thiên Chúa đã có thái độ
nào đến nỗi đã ban Con Một mình? (Ga 3,16)
04. Hoàng đế La mã (288-337) khi trở thành kitô
hữu đã phá hủy đền thờ Capitole và thay thế bằng đền thờ kitô giáo?
05. Hoàng đế đã tìm lại được cây thánh giá của
Chúa Giêsu và đích thân vác lên đồi Canvariô.
06. Theo truyền thống, thánh nữ đã tìm được thánh
giá của Chúa Giêsu.
07. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải … … … ? (Ga 3,16)
08. Ai yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình?
(Ga 3,16)
09. Đây là nơi ông Môsẽ đã giương cao con rắn?
(Ga 3, 14)
10. Thiên Chúa đã ban ai cho thế gian, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết? (Ga 3,16)
11. Thiên Chúa đã yêu ai đến nỗi đã ban Con Một?
(Ga 3,14)
12. Không ai đã lên trời, ngoại trừ ai đã từ trời
xuống? (Ga 3, 13)
13. Đức Giêsu đã nói chuyện với ai về việc ông
Môsê giương cao con rắn trong sa mạc? (x. Ga 3, 9-14)
14. Đây là vị thượng tế đã khuyên vua Heracôliô I
hãy cởi bỏ cẩm bào khi vác thánh giá Chúa Giêsu lên đỉnh núi?
Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
VI. CÂU THÁNH KINH THUỘC LÒNG :
“Thiên
Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã
ban Con Một,
để ai tin
vào Con của Người
thì khỏi
phải chết,
nhưng được
sống muôn đời”.
Tin Mừng thánh Gioan 3,16
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
I. HÌNH TÔ MÀU
*Chủ đề :
Đức Giêsu bị treo trên thánh giá.
* Câu Tin Mừng thánh Gioan 3,14-15
Như ông Môsê
đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời.
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Ông Môsê (Ga 3, 14).
a2. a. Con Người (Ga 3, 13).
a3. a. Để ai tin vào Người thì được sống
muôn đời (Ga 3, 14-15).
a4. d. Chỉ a và b đúng (Ga 3, 16).
a5. b. Để thế gian, nhờ Con của Người mà
được cứu độ (Ga 3, 17).
B.
b1. a.
Hoàng đế Constantinô (288-337)
b2. a.
Hoàng đế Heracôliô I
b3. b.
Thánh nữ Helene (255-328)
b4. b.
Thượng tế Dacaria
b5. d. Cả
a, b và c đúng
b6. d. Cả
a, b và c đúng
b7. d. Cả
a, b và c đúng
III. Ô CHỮ
01. Môsê (Ga 3, 14)
02. Cứu độ (Ga 3, 17)
03. Yêu (Ga 3, 16)
04. Constantinô (288-337)
05. Heracôliô I
06. Helene (255-328)
07. Chết (Ga 3, 16)
08. Thiên
Chúa (Ga 3, 16)
09. Sa
mạc (Ga 3, 14)
10. Con Một (Ga 3, 16)
11. Thế gian (Ga 3, 14)
12. Con Người (Ga 3, 13)
13. Nicôđêmô (x. Ga 3, 9-14)
14. Dacaria
Hàng dọc:
Suy Tôn Thánh Giá
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Quyền Lực Của Thánh Giá
- Thập Giá
là một xỉ nhục đối với người Do Thái: Người Do-Thái thích tìm kiếm các phép lạ:
muốn họ tin chỉ cần làm phép lạ như Phúc Âm đã tường thuật rất nhiều lần. Họ
tin Đấng Thiên Sai sẽ đến và Ngài sẽ dùng quyền năng dẹp tan mọi quân thù của
họ, và sẽ cai trị họ trong công lý đến muôn đời. Một Thiên Chúa chết đau khổ
trên Thập Giá là yếu đuối, là không uy quyền. Đó là lý do tại sao đa số những
người Do-thái không thể chấp nhận Đức Kitô cho đến ngày hôm nay.
- Thập Giá
là một điên rồ cho những người Hy-lạp: Triết gia Plato và đa số người Hy-Lạp
tìm kiếm sự khôn ngoan: muốn họ tin cần chỉ cho họ kiến thức làm sao tách biệt
linh hồn ra khỏi xác vì họ tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Họ cho là
một điên rồ vì tại sao đang khi họ tìm kiếm cách thóat khỏi thân xác thì có một
Thiên Chúa lại muốn Nhập Thể để mang một thân xác hèn yếu của con người. Hơn
nữa lại còn muốn chịu đau khổ bằng Cuộc Thương Khó và cái chết tủi nhục trên
Thập Giá. Đó là lý do tại sao trong những thế kỷ đầu khi Kitô Giáo được truyền
đến các quốc gia Hy-Lạp, Giáo Hội đã phải đương đầu với bao nhiêu lạc thuyết do
những quan niệm sai lầm này đem lại: Có học thuyết như Docetism cho rằng Chúa
Giêsu chỉ Nhập Thể một cách phớt qua cung lòng Đức Mẹ, và chỉ dường như chịu
đau khổ. Có người cho rằng Chúa Giêsu nhập vào ông Simon và ông Simon thay Chúa
chịu đóng đinh trên Cây Thập Giá. Tóm lại, họ không thể chấp nhận một Thiên
Chúa lại muốn mang lấy thân xác hèn hạ của con người.
- Nhưng
đối với các tín hữu, Thập Giá là sức mạnh, tình yêu, và khôn ngoan của Thiên
Chúa. Các Bài đọc hôm nay muốn giải thích cho mọi người chúng ta sự cần thiết
của đau khổ và quyền lực của Cây Thập Giá.
I.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Chỉ với 6 câu ngắn ngủi, tác giả của Sách Dân Số đã mô tả cuộc đời con
người là một hành trình qua sa mạc để được thanh luyện trước khi vào Đất Hứa.
(1)
Hành trình qua sa mạc để được thanh luyện: Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh rất
ngạc nhiên khi nghiên cứu bản đồ của các quốc gia vùng Cận Đông. Khỏang cách
ngắn nhất từ Biển Đỏ tới vùng Đất Hứa là đi dọc theo bờ biển của Palestine; nếu
đi bộ chỉ mất tối đa là vài tuần lễ. Thế mà ông Moses lại dẫn dân Do-thái đi
con đường dài hơn, từ Biển Đỏ đi vòng hết các sa mạc vùng Delta, qua phía Đông
của Biển Muối, vào đất Ammon, rồi tới phía Đông của sông Jordan, vượt sông vào
Đất Hứa qua việc tấn công thành Jericho của Joshua. Tất cả hành trình mất 40
năm! Tại sao Thiên Chúa lại chọn cho dân con đường dài và đầy chông gai như thế
mà không chọn con đường ngắn và dễ dàng hơn?
(2)
Mục đích của Chúa là để thanh luyện dân. Sa mạc tự nó là chỗ thử thách: Người
Do-thái quan niệm sa mạc là nơi ở của quỉ dữ. Chúa Giêsu được Thánh Thần mang
vào trong sa mạc để chịu cám dỗ. Sa mạc chỉ tòan đá và cát, rất ít sinh vật
chịu được sự khắc nghiệt của khí hậu trong sa mạc vì rất nóng và hầu như không
có nước. Đi trong sa mạc mà không mang theo nước là nắm chắc phần chết. Chúng
ta có thể hiểu được nỗi đau khổ của dân: đường xa, mệt mỏi, bụng đói, miệng
khát, gồng gánh nặng nề... Họ nhìn lại và tiếc những ngày còn ở Ai-cập, tuy làm
việc vất vả như nô lệ nhưng có đồ ăn, thức uống. Họ nhìn về tương lai: Đất Hứa
thì xa xôi vạn dặm. Và họ mất kiên nhẫn nên họ than trách ông Moses và Thiên
Chúa: Tại sao các Người lại dắt chúng tôi vào đây để chịu đau khổ và chết đói
chết khát trong sa mạc?
(3)
Hậu quả của sự kêu trách Thiên Chúa là họ phải chết. Thiên Chúa cho rắn độc cắn
ra cắn họ và nhiều người đã phải chết. Trong sa mạc có rất nhiều rắn độc; những
vùng như Timnah gần Biển Chết dân chúng thờ thần rắn, là quan thầy của những
người đi tìm đồng. Lúc ấy, họ lại chạy đến ông Moses cầu xin để Thiên Chúa xua
đuổi rắn xa họ. Và ông Moses cầu nguyện cùng Chúa cho dân. Thiên Chúa truyền
cho Moses làm con rắn bằng đồng và treo trên cột; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con
rắn đồng thì được sống. Mỗi khi nhìn lên con rắn, họ nhận ra tội lỗi của họ và
không dám kêu trách Thiên Chúa và nhà lãnh đạo Moses nữa.
Nếu chúng
ta suy nghĩ về cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho tới bây giờ, thì
quả thật cũng chẳng thua gì dân Do-Thái và cuộc hành trình của họ trong sa mạc.
Đói có, khát có, tù đày có, vượt biên có, tị nạn có, đau khổ cũng không thiếu
do cha mẹ, vợ/chồng, con cái, anh chị em, và đủ mọi người mọi nơi mang lại.
Nhiều lúc chúng ta cũng giống như dân Do-thái kêu trách Chúa: Tại sao để cuộc
đời chúng ta quá nhiều đau khổ như vậy?
2/ Bài
đọc II: Hy vọng cho chúng ta qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vinh
quang có được là bằng sự hủy mình ra không. Đàng sau Cây Thập Giá là sự Phục
Sinh và khải hòan chiến thắng tội lỗi và sự chết, kẻ thù cuối cùng của con
người.
(1) Sự
hủy mình ra không (kenosis) qua sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối của Con Thiên
Chúa: Cũng chỉ trong 6 câu ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã lột tả được trọn vẹn kế
họach cứu độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ: “Đức Giêsu Kitô là Thiên
Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân, và sống như người trần thế.” Tại sao một Thiên Chúa vinh quang uy
quyền như thế lại muốn hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở
nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế? Hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ
mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự! Chắc
chắn Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng uy quyền; nhưng Ngài muốn cứu độ
con người qua con đường đau khổ vì muốn đồng cảm với tất cả những gì con người
đã, đang và sẽ chịu. Cứu độ bằng uy quyền sẽ mang vào Nước Trời những con người
vô cảm, vô trách nhiệm, và không hiểu giá trị của tình yêu.
(2)
Vinh quang chiếm được nhờ sự hủy mình ra không: Chính vì thế, Thiên Chúa đã
siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Danh
hiệu tượng trưng cho công việc thực hiện của một người (Gioan Tiền Hô; Phaolô,
Tông Đồ Dân Ngọai; Phêrô, Thủ Lãnh Giáo Hội). Danh được Thiên Chúa ban cho Chúa
Kitô là Đức Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Khi nào nghe Danh Thánh Giêsu, cả
trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh
Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là
Chúa."
3/
Phúc Âm: Thập Giá Cứu Độ của Chúa Giêsu
Lịch sử
phía sau những lời của Phúc Âm hôm nay là cuộc đàm thọai giữa Chúa Giêsu và ông
Nicôđêmô. Chúa bảo ông: “Không ai có thể vào Nước Trời nếu không được tái
sinh.” Ông không hiểu và hỏi lại: “Làm sao một người lớn như ông lại chui vào
lòng mẹ để tái sinh?” Điều Chúa muốn nói với ông là phải tái sinh bởi Nước Rửa
Tội và Thánh Thần; nghĩa là được tái sinh trong Cuộc Thương Khó và cái chết của
Chúa thì mới được vào Nước Trời.
(1)
Con rắn trong sa mạc là hình ảnh báo trước của Thập Giá Đức Kitô: Biến cố Xuất
Hành xảy ra khỏang 2000 năm trước Cuộc Tử Nạn của Đức Kitô; nhưng tất cả những
gì đã xảy ra cho Đức Kitô là để làm trọn vẹn những gì đã xảy ra trong Cựu Ước.
Con người đã phạm tội vì kêu trách Chúa trong sa mạc nhưng được cứu thóat nhờ
biết ăn năn trở lại khi nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc. Từ đó đến nay con
người vẫn phạm tội, làm sao con người có thể được cứu thóat? Chúa Giêsu chỉ cho
chúng ta cách được cứu thóat: “Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa
mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời.”
(2)
Thập Giá biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho con người: Một hình ảnh nữa của Cựu
Ước luôn có sức để đánh động con người là hình ảnh của Abraham sẵn sàng cầm dao
giơ lên định sát tế người con duy nhất của mình là Isaac. Có ai trong lịch sử
lòai người dám làm như thế? Abraham không phải giết con vì Thiên Chúa đã hiểu
niềm tin của ông dành cho Ngài; nhưng Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh này để
chuẩn bị trước cho con người để hiểu hình ảnh Cây Thập Giá. Như Gioan tường
thuật hôm nay: “Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Con người
chưa bao giờ được xem thấy Thiên Chúa, nhưng mỗi khi nhìn Cây Thập Giá và đọc
câu của Jn 3:16, con người tin chắc có Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu
của cả 2, Cha và Con cho con người.
(3)
Chúa chết để cho con người được sống: Cả hai hình ảnh Cây Thập Giá và Ngày Phán
Xét đều cần để hướng lòng con người về đời sau. Có những người dễ rung cảm vì
tình yêu vô bờ của Thiên Chúa qua Cây Thập Giá. Có những người phải run sợ khi
nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa khi Ngài phán xét con người. Nhưng tình yêu
là lý do đầu tiên và trên hết tại sao Thiên Chúa tạo dựng, cứu độ, và thánh hóa
con người; đúng như lời Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ.” Nếu nhìn lên Cây Thập Giá mà con người vẫn không cảm
nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình mà ăn năn trở lại, họ tự kết tội
họ và cũng không xứng đáng để hưởng ơn tha thứ.
II. ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta
phải biết lợi dụng hòan cảnh để tự kỷ luật và thanh thẩy những tính ươn hèn của
xác thịt thì mới có hy vọng vượt qua mọi gian khổ khi phải đương đầu với chúng.
Phàn nàn, kêu trách, và tìm con đường dễ dãi chỉ dẫn con người đi đến chỗ diệt
vong.
- Chúa
Giêsu dạy chúng ta: Vinh quang có được là nhờ sự hủy mình ra không bằng sự
khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối: Thiên Chúa cho con người, mục tử cho đòan
chiên, thầy cho trò, và cha mẹ cho con cái.
- Mẹ Giáo
Hội đã yêu thương và thu xếp để mọi con cái có ngày hôm nay để nhìn lên và suy
niệm về Mầu Nhiệm Thập Giá.
* Chúng ta
hãy nhìn lên Thập Giá để thấy, tất cả tội lỗi của mỗi người chúng ta là lý do
Con Chúa chịu đóng đinh.
* Chúng ta
hãy nhìn lên Thập Giá để cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa dành cho
con người.
* Chúng ta
hãy nhìn lên Thập Giá để học bài học “tự hủy mình ra không” của Con Thiên Chúa,
để rồi cũng biết tự hủy mình ra không để cứu sống đòan chiên và con cái Chúa
trao phó.
Anthony
Đinh Minh Tiên, OP.
http://www.daminhvn.net/suy-niem-chia-se/dong-daminh/5435-le-suy-ton-thanh-gia-quyen-luc-cua-thanh-gia.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét