Trọn ba bài giảng của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót
Mấy ngày trước chúng tôi đã lần lượt đăng tải các bài giảng của Đức Phanxicô cho các linh mục và chủng sinh nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng bản văn chúng tôi dựa vào để dịch do Hãng Tin Zenit cung cấp, và không hiểu vì lý do gì, họ đã cắt xén nhiều ý tưởng của Đức Giáo Hoàng. Nay đọc lại bản văn do Tòa Thánh công bố trên trang mạng chính thức, chúng tôi đã bổ túc những chỗ thiếu và thêm phần dẫn nhập của chính Đức Phanxicô. Xin thành thực cáo lỗi cùng độc giả. Và xin qúy vị thay bài này cho các bài đã đăng lẻ tẻ trước đây.
Nhân dịp Năm Thánh Thương Xót dành cho các linh mục và chủng sinh, kéo dài 3 ngày từ ngày 1 tới ngày 3 tháng Sáu, với chủ đề “Người Chăn Chiên Nhân Lành: Linh Mục trong tư các Thừa Tác Viên của Thương Xót và Cảm Thương, Gần Gũi Dân Mình và Tôi Tớ Mọi Người”, Đức Thánh Cha đã đích thân lần lượt giảng cho các linh mục và chủng sinh ba bài giảng cùng trong ngày 2 tháng Sáu. Bài đầu tiên tại Vương Cung Thánh Đường Gioan Latêranô vào buổi sáng, bài thứ hai tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả vào buổi trưa, và bài thứ ba tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành vào lúc 4 giờ chiều.
Dẫn Nhập
Trước ba bài giảng, Đức Thánh Cha đã có lời dẫn nhập như sau:
Chào các linh mục thân yêu,
Chúng ta hãy bắt đầu ngày tĩnh tâm thiêng liêng này. Tôi nghĩ điều hữu ích cho chúng ta là cầu nguyện cho nhau, trong tình hiệp thông. Tĩnh tâm đã đành, nhưng mọi người chúng ta trong tình hiệp thông! Tôi đã chọn chủ đề lòng thương xót. Trước hết, là một dẫn nhập ngắn vào toàn bộ buổi tĩnh tâm.
Lòng thương xót, nhìn theo cái nhìn nữ giới, là tình yêu dịu dàng của một người mẹ, xúc động trước sự mảnh mai yếu đuối của đứa con mới sinh, bèn ôm lấy con vào lòng và cung cấp mọi điều con cần để sống và lớn lên (rahamim). Nhìn theo cái nhìn nam giới, lòng thương xót là lòng trung tín vững bền của một người cha luôn nâng đỡ, tha thứ và khích lệ con cái lớn lên. Lòng thương xót là kết quả của một giao ước; chính vì thế ta mới nói Thiên Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Người (hesed). Đồng thời, nó là một hành vi hoàn toàn tự do của lòng nhân và lòng tốt (eleos) phát xuất từ thẳm sâu hữu thể ta và tìm cách phát biểu ra ngoài trong đức ái. Đặc tính bao hàm mọi sự này có nghĩa: mọi người đều biết đánh giá ý nghĩa của việc có lòng thương xót, của việc cảm thấy xót thương những người đang đau khổ, của viêc có thiện cảm với những người thiếu thốn, bất bình một cách tự nhiên trước những bất công tỏ tường và ước nguyện đáp ứng bằng một lòng kính trọng yêu thương qua việc cố gắng chỉnh đốn mọi sự. Chịu suy nghĩ về các cảm xúc thương xót tự nhiên này, ta sẽ bắt đầu hiểu được tại sao ta cũng có thể hiểu chính Thiên Chúa theo thuộc tính có tính định tính này qua đó Chúa Giêsu muốn mặc khải Người cho ta. Tên Thiên Chúa chính là lòng thương xót.
Khi ta suy niệm về lòng thương xót, một điều đặc biệt sẽ diễn ra. Tính năng động của Linh Thao sẽ nhận được một sức mạnh mới. Lòng thương xót giúp ta thấy điều này: ba cách của thần nghiệm (mysticism) cổ điển: thanh tẩy, soi sáng và kết hợp, không phải là ba giai đoạn nối tiếp nhau mà khi đã cảm nghiệm được rồi, ta sẽ vứt chúng lại phía sau. Chúng ta không bao giờ ngưng cần đến việc hồi tâm đổi mới, chiêm niệm sâu xa hơn và yêu thương lớn lao hơn. Ba giai đoạn này chồng chéo lên nhau và liên tiếp tái hiện. Không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương xót, và đây không phải là một điều nói quá: không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương xót, vì chính vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi ta và ban ơn thánh để ta thực hành các hành vi thương xót nhân danh Người. Không gì củng cố đức tin ta nhiều hơn việc được tẩy sạch mọi tội lỗi. Không gì có thể rõ ràng hơn giáo huấn của tin mừng Mátthêu chương 25 và các mối phúc thật, “phúc thay người có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót” (Mt 5:7), đối với cái hiểu của ta về thánh ý Thiên Chúa và sứ vụ Người ủy thác cho ta. Ta có thể áp dụng vào lòng thương xót câu Chúa phán rằng “đong đấu nào các con sẽ được đấu đó” (Mt 7:2). Nếu anh em cho phép, tôi xin nghĩ tới tất cả các cha giải tội thiếu kiên nhẫn luôn “mạnh tay” với các hối nhân, la mắng họ. Nhưng đó là cách Thiên Chúa sẽ cư xử với các ngài! Nếu chỉ vì lý do này, xin anh em đừng hành động như thế. Lòng thương xót giúp chúng ta nhận ra rằng sở dĩ chúng ta nhận được lòng thương xót là để muốn được tỏ lòng thương xót cho người khác. Chúng ta có thể cảm nhận ngay trong chúng ta một sự căng thẳng lành mạnh giữa việc hối hận vì tội lỗi mình và phẩm giá mà Chúa đã ban cho chúng ta. Không chần chừ gì thêm nữa, chúng ta có thể từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp, như dụ ngôn người con trai hoang đàng, và thấy được Thiên Chúa đã dùng tội lệ của ta làm bình chứa lòng thương xót của Người như thế nào. Tôi muốn lặp lại điều này, nó vốn là chìa khóa dẫn vào bài suy niệm thứ nhất: dùng tội lệ của ta như bình chứa lòng thương xót của Người. Lòng thương xót thúc giục ta từ bản thân bước sang cộng đoàn. Ta thấy điều này trong phép lạ hóa bánh, một phép lạ phát sinh từ lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với dân Người và đối với nhiều người khác. Một điều tương tự cũng diễn ra khi ta hành động một cách có lòng thương xót: bánh thương xót luôn hóa nhiều khi được chia sẻ.
Ba Gợi Ý
Tôi có ba gợi ý cho ngày tĩnh tâm này. Sự thân mật tự do và hân hoan phát sinh ở mọi bình diện giữa những người đối xử với nhau bằng lòng thương xót, sự thân mật của Nước Thiên Chúa theo lời mô tả của Chúa Giêsu trong các dụ ngôn của Người, khiến tôi đưa ra ba gợi ý để anh em đích thân cầu nguyện hôm nay.
Gợi ý thứ nhất liên quan tới hai lời khuyên thực tế được Thánh Inhaxiô đưa ra và tôi xin lỗi đã quảng cáo cho “gà nhà”. Ngài nói với chúng ta rằng “Không phải nhận thức lớn làm đầy và thỏa mãn linh hồn, mà là khả năng biết cảm nhận và thưởng thức những điều thuộc về Chúa ở bên trong” (Linh Thao, 2). Thánh Inhaxiô viết thêm rằng bất cứ khi nào gặp được và thưởng thức được điều mình ước muốn, ta đều nên cầu nguyện trong bình an, “không cần lo lắng tiến thêm bao lâu mình đã thỏa mãn” (cùng chỗ, 76). Cũng thế, trong các bài suy niệm này về lòng thương xót, ta có thể bắt đầu với điều ta thưởng thức nhiều nhất và dừng lại ở đấy, vì điều chắc chắn là việc thương xót này sẽ dẫn chúng ta tới việc thương xót kia. Nếu chúng ta bắt đầu cảm thấy thương cảm đối với người nghèo và người bị xua đuổi, chắc chắn ta sẽ tiến tới chỗ hiểu ra rằng chính chúng ta cũng cần lòng thương xót.
Gợi ý thứ hai của tôi giúp anh em cầu nguyện liên quan tới cung cách chúng ta nói tới lòng thương xót. Cho tới nay, anh em đã hiểu ra rằng trong tiếng Tây Ban Nha, tôi thích dùng chữ “thương xót” như một động từ: chúng ta phải “tỏ lòng thương xót” [misericordiar trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa như thương xót hóa: chúng ta phải mở rộng nghĩa của ngôn từ đôi chút] để “nhận được lòng thương xót [ser misericordiados – để được thương xót hóa]”. “Nhưng thưa cha, đấy đâu phải chữ trên thực tế!’ – “Đúng, nhưng nó là hình thức tôi thấy hữu ích để nắm được thực tại này: tỏ lòng thương xót, misericordiar và nhận lòng thương xót ser misericordiados”. Lòng thương xót nối kết nhu cầu con người với trái tim Thiên Chúa và việc này dẫn tới hành động tức khắc. Chúng ta không thể suy niệm về lòng thương xót mà không biến nó thành hành động. Trong cầu nguyện, chẳng ích chi khi chỉ trí thức hóa sự việc. Với trợ lực của ơn thánh, cuộc đối thoại của ta với Chúa phải tập chú ngay lập tức vào thứ tội mà vì nó tôi cần lòng thương xót của Chúa hơn cả, thứ tội mà tôi cảm thấy xấu hổ hơn hết, thứ tội mà tôi muốn tu sửa hơn cả. Ngay từ đầu, ta cũng phải nói tới điều làm chúng ta xúc động hơn hết, mọi khuôn mặt khiến ta muốn làm một điều gì đó để thỏa mãn cơn đói cơn khát Thiên Chúa, công lý và tình âu yếm của họ. Lòng thương xót được chiêm niệm bằng hành động, nhưng là loại hành động bao trùm mọi người. Lòng thương xót liên hệ tới trọn con người ta, cả các cảm xúc lẫn tinh thần ta, và mọi con người khác nữa.
Gợi ý sau cùng của tôi cho buổi tĩnh tâm hôm nay liên quan tới hoa trái của Các Thao Tác này, tức ơn thánh chúng ta cầu xin nhận được. Tóm một lời, là ơn thánh trở thành các linh mục sẵn sàng hơn bao giờ hết “tiếp nhận lòng thương xót” (misericordiados) và “tỏ bầy lòng thương xót” (misericordiosos). Một trong những điều đẹp đẽ nhất, và là những điều làm tôi xúc động, là việc xưng tội của một linh mục: việc này vĩ đại, đẹp đẽ, vì con người tới xưng thú tội lỗi của chính mình này cũng là một với con người lắng nghe trái tim của các hối nhân khác tới xưng thú tội lỗi của họ. Ta có thể tập trung vào lòng thương xót vì nó là điều chủ yếu và dứt khoát nhất. Nhờ chiếc thang thương xót (Xem Laudato Si’, 77), ta có thể leo xuống tận thẳm sâu thân phận con người, kể cả sự yếu đuối và tội lỗi của ta, và leo lên tận đỉnh cao sự hoàn thiện của Thiên Chúa: “hãy thương xót (hoàn thiện) như Cha các con là Đấng thương xót”. Nhưng luôn để “hái” được lòng thương xót lớn lao hơn. Hoa trái này cũng nên được thấy trong việc hoán cải tâm thức thích định chế của ta: nếu các cơ cấu của ta không sinh động và nhắm làm cho chúng ta cởi mở hơn với lòng thương xót của Thiên Chúa và có lòng thương xót đối với người khác hơn, thì chúng có thể biến thành một điều gì đó rất kỳ quặc và cuối cùng phản tác dụng. Phạm vi này thường được bàn tới trong một số văn kiện của Giáo Hội và các bài diễn văn của một số vị giáo hoàng: hoán cải định chế, hoán cải mục vụ.
Như thế, buổi tĩnh tâm này sẽ đi theo con đường “đơn sơ của Tin Mừng”, một con đường nhìn và làm mọi sự bằng chìa khóa thương xót. Lòng thương xót này năng động, không hẳn là một danh từ với một ý nghĩa nhất định và dứt khoát, hay một tĩnh từ dùng để mô tả, mà đúng hơn là một động từ - “tỏ lòng thương xót” và “tiếp nhận lòng thương xót” [misericordiar và ser misericordiados]. Điều này thúc đẩy chúng ta hành động trong thế giới này. Hơn thế nữa, đây là một lòng thương xót “lớn hơn mãi” (magis), một lòng thương xót lớn lên và trải rộng, tiến từ tốt tới tốt hơn và từ kém tới hơn. Vì mẫu mực được Chúa Giêsu thiết lập trước mặt ta là mẫu mực của Chúa Cha, Đấng luôn lớn hơn mãi – Deus semper maior – và, theo một nghĩa nào đó, lòng thương xót vô lượng của Người không ngừng “lớn mạnh”. Lòng thương xót của Người không có mái hoặc tường vì nó phát sinh từ tự do tối thượng của Người.
Bài suy niệm thứ nhất: từ ghẻ lạnh tới cử hành mừng vui
Giờ đây, chúng ta tiến qua bài suy niệm thứ nhất. Tôi đặt tựa cho nó là “từ ghẻ lạnh tới cử hành mừng vui”. Như chúng ta vốn nói, nếu Tin Mừng trình bầy lòng thương xót như một sự dư tràn tình yêu Thiên Chúa, thì điều đầu tiên chúng ta phải làm là xem xem ở đâu trên thế giới ngày nay, và mọi người trong đó, cần đến thứ dư tràn tình yêu này nhất. Ta cần tự hỏi: lòng thương xót như thế phải được tiếp nhận ra sao. Dòng lũ con nước hằng sống này phải vọt lên trên mảnh đất cằn cỗi và nứt nẻ nào? Đâu là các vết thương cần thứ dầu qúy giá này? Cảm thức bị bỏ rơi nào đang van nài được yêu thương chăm sóc? Cảm thức ghẻ lạnh nào khao khát được ôm ấp và gặp gỡ?
Dụ ngôn mà bây giờ tôi sẽ đề nghị để anh em suy niệm là dụ ngôn về Người Cha đầy lòng thương xót (xem Lc 15: 11-31). Chúng ta thấy bản thân mình đứng trước mầu nhiệm của Người Cha. Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu với thời điểm khi người con trai hoang đàng đứng ở giữa chuồng heo, trong cái địa ngục của sự ích kỷ nơi, sau khi đã thực hiện tất cả mọi thứ anh ta muốn thực hiện, giờ đây, thay vì được tự do, anh ta cảm thấy mình trở thành nô lệ. Anh ta nhìn vào những con heo đang ăn bã vỏ của chúng ... và anh ta ganh tị với chúng. Anh ta cảm thấy nhớ nhà. Anh ta mong mẩu bánh mới nướng mà đầy tớ trong nhà anh, nhà của cha anh, thường ăn vào bữa ăn sáng. Nhớ nhà ..., hoài hương. Hoài hương là một cảm xúc mạnh mẽ. Giống như lòng thương xót, nó mở rộng tâm hồn. Nó làm chúng ta nghĩ đến trải nghiệm đầu tiên của chúng ta về sự tốt lành - quê hương từ đó chúng ta phát xuất - và nó đánh thức trong chúng ta hy vọng quay trở lại đó. Nó là nostos algos (một điều để nhớ?). Trước chân trời nhớ nhung bao la này, chàng tuổi trẻ - như Tin Mừng cho chúng ta biết - bỗng trở về với cảm thức của mình và nhận ra rằng anh quả khốn cùng. Mỗi người chúng ta đều có thể tiến tới hay dẫn tới điểm cảm nhận sự khốn cùng lớn lao hơn. Mỗi người chúng ta đều có nỗi khốn cùng giấu kín của mình… ta cần xin ơn biết tìm thấy nó.
Không lưu lại ở niềm đáng thương của anh ta, chúng ta hãy chuyển sang thời điểm khác, lúc cha anh ôm lấy anh và hôn anh. Anh vẫn thấy mình còn bẩn thỉu, dù đã mặc quần áo dự tiệc. Vì cha anh không nói: “hãy đi tắm đi rồi tới đây”. Anh xỏ vào ngón tay chiếc nhẫn anh đã được ban cho, giống như chiếc nhẫn của cha mình. Anh mang giầy mới ở đôi chân. Anh ngồi giữa buổi tiệc, giữa một đám đông người. Hơi giống chúng ta, nếu có bao giờ chúng ta đi xưng tội trước Thánh Lễ và rỗi bỗng thấy mình được mặc áo và ở giữa một nghi lễ.
Một phẩm giá ngượng ngùng
Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về "phẩm giá ngượng ngùng" của người con trai hoang đàng nhưng được yêu thương này. Nếu chúng ta có thể bình thản giữ cho trái tim của chúng ta được cân bằng giữa hai thái cực - phẩm giá và ngượng ngùng - mà không bỏ điều nào cả, có lẽ chúng ta sẽ cảm nhận được trái tim người Cha của chúng ta sẽ rộn rã đập nhịp yêu thương như thế nào đối với chúng ta. Đây là một trái tim đang đập vì lo âu, khi ngài leo lên mái nhà để nhìn về phía xa. Ông nhìn gì? Nhìn đứa con trai ông có thể trở về…Lúc đó, ở chỗ đó, nơi phẩm giá và ngượng ngừng đang hiện diện bên cạnh nhau, ta có thể nhận rõ trái tim người Cha đập ra sao. Chúng ta có thể tưởng tượng: lòng thương xót trào dâng trong nó giống như máu trào dâng. Người đi ra để tìm kiếm chúng ta, những kẻ tội lỗi. Người kéo chúng ta vào lòng Người, thanh tẩy chúng ta và sai chúng ta đi, mới mẻ và đổi mới, tới mọi vùng ngoại vi, để mang lòng thương xót tới cho mọi người. Máu đó là máu của Chúa Kitô, máu của giao ước thương xót mới và vĩnh cửu, đổ ra cho chúng ta và cho tất cả, để được tha tội. Chúng ta suy ngắm máu ấy bằng cách ra vào trái tim Người và trái tim Chúa Cha. Đó là kho báu duy nhất của chúng ta, điều duy nhất chúng ta phải cung cấp cho thế giới: máu thanh tẩy và mang bình an tới cho mọi thực tại và mọi người. Máu của Chúa vốn tha thứ tội lỗi. Máu vốn là của uống thật, vì nó đánh thức và làm sống lại những gì đã chết vì tội lỗi.
Trong lời cầu nguyện thanh thản của chúng ta, lời cầu nguyện chập chờn giữa ngượng ngùng và phẩm giá, giữa phẩm giá và ngượng ngùng, chúng ta hãy xin cho được ơn biết cảm nhận lòng thương xót như đem lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta, ơn biết cảm thấy trái tim Chúa Cha cùng đập như một với trái tim ta ra sao. Nghĩ đến ơn này như một điều Thiên Chúa thỉnh thoảng mới ban cho chúng ta khi Người tha thứ một vài tội lỗi lớn lao của chúng ta, còn sau đó, những phần còn lại, chúng ta có thể phải tự làm lấy một mình là điều không đủ. Nhất định không đủ.
Thánh Inhaxiô cho chúng ta một hình ảnh rút ra từ nền văn hóa cung đình của thời ngài, nhưng vì lòng trung thành giữa bạn bè là một giá trị trường cửu, nên nó cũng có thể giúp ích chúng ta. Ngài nói rằng, để cảm thấy "ngượng ngùng và xấu hổ" vì tội lỗi của mình (nhưng không quên lòng thương xót của Thiên Chúa), chúng ta có thể sử dụng ví dụ về "một hiệp sĩ đứng trước nhà vua và toàn bộ triều đình của vua, xấu hổ và ngượng ngùng vì đã làm sai cách nặng nề đối với nhà vua, sau khi đã nhận được từ ngài rất nhiều ơn phúc và ơn huệ” (Linh Thao, 74). Nhưng, giống như người con trai hoang đàng, thấy mình ở giữa bàn tiệc, chàng hiệp sĩ này, người nên cảm thấy xấu hổ trước mặt mọi người, đột nhiên thấy nhà vua nắm lấy tay chàng và phục hồi phẩm giá của chàng. Quả thật, không những nhà vua yêu cầu chàng theo ngài lâm trận, ngài còn đặt chàng đứng đầu các đồng nghiệp của chàng nữa. Chàng hiệp sĩ này sẽ phục vụ ngài với môt lòng khiêm cung và trung thành từ đó trở về sau xiết bao! Điều này làm tôi nghĩ đến phần cuối của chương sáu Sách Tiên Tri Êdêkien.
Bất kể chúng ta coi mình như người con trai hoang đàng ở giữa bàn tiệc, hay chàng hiệp sĩ bất trung được phục hồi và thăng thưởng, điều quan trọng là mỗi người chúng ta cảm nhận được sự căng thẳng có hiệu quả phát sinh từ lòng thương xót của Chúa: chúng ta cùng một lúc là những kẻ tội lỗi được ân xá và những kẻ tội lỗi được phục hồi phẩm giá.
Simon Phêrô đại diện khía cạnh thừa tác của sự căng thẳng lành mạnh này. Tại mỗi bước trên đường đi, Chúa đều huấn luyện ngài trở thành cả Simon lẫn Phêrô. Simon, người đàn ông bình thường với tất cả những lỗi lầm và bất nhất của mình, và Phêrô, người mang chìa khóa dẫn đầu những người khác. Khi Anrê đem Simon, mới từ lưới cá lên, tới với Chúa Kitô, Chúa ban cho ông tên Phêrô, nghĩa là Đá. Tuy nhiên, ngay sau khi ca ngợi lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, một lời tuyên xưng vốn xuất phát từ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc khiển trách ông vì đã bị cám dỗ nghe lời ma quỷ mà nói với Người chạy trốn khỏi thập giá. Chúa Giêsu sau đó, đã mời Phêrô đi trên nước; Người sẽ để ông chìm trong sợ hãi chỉ để sau đó dơ thẳng tay ra và kéo ông lên. Ngay sau khi Phêrô xưng thú rằng mình là một kẻ tội lỗi, Chúa đã biến ông thành một người đánh cá người. Người sẽ tra vấn Phêrô nhiều về tình yêu của ông, cố ý thấm nhiễm nơi ông niềm hối hận và xấu hổ vì sự bất trung và lòng hèn nhát của mình, nhưng Người cũng sẽ ba lần giao phó cho ông chăm sóc đoàn chiên của Người. Hai việc đối nghịch nhau này luôn đi đôi với nhau.
Đó là cách chúng ta phải thấy mình: thăng bằng giữa xấu hổ hoàn toàn và phẩm giá tuyệt vời của chúng ta. Ta cảm thấy gì khi người ta hôn tay ta, khi ta được Dân Chúa tôn trọng, nếu ta biết nhìn vào thẳm sâu sự khốn cùng của ta? Có một hoàn cảnh khác giúp ta hiểu. Tương phản luôn luôn có mặt. Ta phải đặt ta vào bối cảnh đó, vào chỗ đó nơi nỗi khốn cùng đáng xấu hổ nhất và phẩm giá cao nhất của ta hiện diện bên nhau. Ở cùng một chỗ. Dơ bẩn, không trong sạch, tầm thường, hư danh – hư danh vốn là tội của các linh mục –và ích kỷ, nhưng đồng thời, với bàn chân đã rửa sạch, được gọi và được chọn để phân phối các ổ bánh hóa nhiều của Chúa, được chúc phúc bởi dân của chúng ta, được yêu thương và chăm sóc. Chỉ có lòng thương xót mới làm ta chịu đựng được tình thế đó. Không có nó, hoặc chúng ta tin vào sự công chính của chúng ta như những người Biệt Phái, hoặc chúng ta co rúm lại như những người cảm thấy bất xứng. Trong cả hai trường hợp, trái tim chúng ta đều trở nên chai đá: khi ta cảm thấy mình chính trực như những người Biệt Phái hay khi ta tự tách mình ra như những người cảm thấy bất xứng. Tôi không cảm thấy xứng đáng, nhưng tôi không nên tự tách mình ra: tôi phải có một phẩm giá ngượng ngùng, hai yếu tố này phải đi đôi với nhau.
Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn một chút vào điều này, và hỏi xem tại sao sự căng thẳng này lại có hiệu quả như thế giữa sự khốn cùng và phẩm giá, giữa sự ghẻ lạnh và cử hành mừng vui? Lý do, theo tôi, nó là kết quả của một quyết định tự do. Chúa hành động chủ yếu thông qua tự do của chúng ta, mặc dù sự giúp đỡ của Người không bao giờ rời xa chúng ta. Lòng thương xót là một vấn đề tự do. Như một cảm xúc, nó phát sinh một cách tự phát. Khi chúng ta nói rằng nó có tính bản năng, xem ra nó đồng nghĩa với "thú tính". Nhưng thú vật không cảm nghiệm lòng thương xót “tinh thần”, mặc dù một số trong chúng có thể cảm nghiệm được một điều gì đó giống như lòng cảm thương, như con chó trung thành canh giữ bên cạnh người chủ ốm yếu của mình. Lòng thương xót là một cảm xúc theo bản năng nhưng nó cũng có thể là kết quả của một cái nhìn sâu sắc trí tuệ tinh tường – làm sửng sốt như một tia sét nhưng không kém phần phức tạp vì tính đơn giản của nó. Chúng ta trực giác được nhiều điều khi cảm nhận được lòng thương xót. Thí dụ như hiểu được rằng một người nào khác đang sa vào một tình trạng tuyệt vọng, một tình huống có giới hạn; một điều gì đó đang xảy ra lớn hơn tội lỗi và thiếu sót của mình. Chúng ta cũng nhận ra rằng người khác đó là người đồng trang đồng lứa với chúng ta, rằng chúng ta có thể đứng trong đôi giày của họ. Hoặc sự ác là một điều to lớn và nặng nề đến nỗi không thể chỉ đơn giản được được giải quyết bằng công lý mà thôi... Tận đáy lòng, chúng ta nhận ra rằng điều cần là một lòng thương xót vô hạn, giống như lòng thương xót của trái tim Chúa Kitô, mới sửa chữa được mọi điều ác và đau khổ chúng ta thấy trong cuộc sống của con người ... Bất cứ điều gì ít hơn thế đều không đủ. Chúng ta có thể hiểu rất nhiều điều chỉ bằng cách đơn giản nhìn thấy một người đi chân đất trên đường phố vào một buổi sáng lạnh lẽo, hoặc bằng cách suy ngắm Chúa bị đóng đinh trên thập giá - vì tôi!
Hơn nữa, lòng thương xót có thể được tự do chấp nhận và nuôi dưỡng, hoặc tự do từ chối. Nếu chúng ta chấp nhận nó, điều này sẽ dẫn đến điều kia. Nếu chúng ta chọn bỏ qua nó, trái tim của chúng ta sẽ trở nên lạnh lùng. Lòng thương xót làm chúng ta cảm nghiệm được sự tự do của chúng ta, và do đó, sự tự do của chính Thiên Chúa, Đấng, như Người đã nói với Môsê, "thương xót với những ai Người thương xót" (xem Đnl 5:10). Qua lòng thương xót của Người, Chúa đã nói lên tự do của Người. Và chúng ta, chúng ta nói lên tự do của chúng ta.
Chúng ta có thể "bất cần" lòng thương xót của Chúa trong một thời gian dài. Nói cách khác, chúng ta có thể sống trên đời mà không hề suy nghĩ về nó một cách có ý thức hay minh nhiên yêu cầu có nó. Rồi một ngày nào đó, chúng ta bỗng nhận ra "tất cả là lòng thương xót" và chúng ta khóc lóc thảm thiết vì đã không biết đến nó sớm hơn, khi chúng ta cần nó nhất!
Cảm giác trên là một loại khốn cùng tinh thần. Nó là một nhận thức hoàn toàn có tính bản thân khi hiểu ra rằng ở một thời điểm nào đó trong cuộc sống của tôi, tôi đã quyết định đi một mình: Tôi đã thực hiện sự lựa chọn của tôi và tôi đã chọn nó một cách tệ hại. Đó là những vực thẳm mà chúng ta cần với tới để cảm thấy đau đớn vì tội lỗi chúng ta và sự ăn năn thật. Nếu không, chúng ta sẽ thiếu tự do để thấy rằng tội lỗi quả đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Chúng ta không nhận ra sự khốn cùng của chúng ta, và do đó chúng ta bỏ lỡ cơ hội thương xót, một cơ hội chỉ hành động với điều kiện đó. Người ta không tới một dược phòng và hỏi mua một viên aspirin để chữa lòng thương xót. Muốn chữa lòng thương xót, chúng ta phải mua morphine, cho người bị bệnh ở giai đoạn chót và đang bị hành hạ hết sức đau đớn. Tất cả hay không là gì cả. Nếu ta không đi sâu vào điều này, ta sẽ không hiểu chi hết.
Trái tim mà Thiên Chúa muốn nối kết với nỗi khốn cùng tinh thần này của chúng ta là trái tim của Chúa Kitô, Con yêu dấu của Người, một trái tim đập như một với trái tim của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tôi nhớ khi Đức Piô XII hoàn tất thông điệp nói về Trái Tim Chúa Giêsu, một ai đó bình luận: “Tại sao cần một thông điệp về việc này? Đây là chuyện dành cho các nữ tu…”. Trái Tim Chúa Giêsu là trung tâm, là chính trung tâm của lòng thương xót. Có lẽ các nữ tu hiểu điều này hơn chúng ta, vì các chị là các bà mẹ trong Giáo Hội, là hình ảnh của Giáo Hội, Bà Mẹ Diễm Phúc. Nhưng trung tâm là trái tim Chúa Giêsu. Có lẽ ta nên đọc Thông Điệp Haurietis aquas này trong tuần này hay ngày mai… “Nhưng nó có trước công đồng mà!” Đúng, nhưng nó có ích cho tôi! Đọc nó có ích cho chúng ta!Trái Tim Chúa Giêsu là một trái tim chọn lộ trình nhanh nhất và đã đi lộ trình này. Lòng thương xót đã làm bàn tay mình ra vấy bẩn. Nó đụng chạm, nó can dự, nó cấu kết với những người khác, nó trở thành bản vị. Nó không tiếp cận "các trường hợp", nhưng tiếp cận những con người và nỗi đau của họ. Ta hãy khảo sát việc dùng từ ngữ của ta. Biết bao lần, dù không hay, ta từng nói rằng: “tôi có vụ này…” Ngưng ngay lập tức! Thay vào đó, hãy nói: “tôi có người này…”. Nghe quá giáo sĩ khi nói “tôi có vụ này…”, “tôi gặp vụ này…”. Chuyện này thường xẩy ra với tôi. Chủ nghĩa giáo sĩ là ở đây: giản lược tính cụ thể của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Thiên Chúa ban cho tôi và tình yêu đối với những con người, thành một “vụ”. Theo cách này, tôi tự tách mình ra, không liên lụy chi hết. Theo cách này, bàn tay tôi không vấy bẩn; tôi có thể tiến hành những việc mục vụ sạch sẽ, cao sang, và trong đó, tôi không gặp nguy cơ nào cả. Và trong đó, tôi khỏi bị tai tiếng – tôi không thể phạm tội cách xầu hổ. Lòng thương xót vượt quá công lý; nó mang lại kiến thức và lòng cảm thương; nó dẫn đến việc tham gia. Qua phẩm giá nó mang lại, lòng thương xót đã nâng người khác lên, người được người ta cúi xuống giúp đỡ. Người biểu lộ lòng thương xót và người được lòng thương xót biểu lộ trở thành bình đẳng. Giống như người đàn bà tội lỗi trong Tin Mừng (Lc 7:36-50), người được tha thứ nhiều, vì đã yêu nhiều và trước đó đã phạm tội nhiều.
Đó là lý do tại sao ta cần có Người Cha để cử hành, để mọi sự được phục hồi ngay một lúc, và để người con trai của ông có thể lấy lại phẩm giá đã mất của mình. Việc hiểu ra này làm ta có thể nhìn về tương lai theo một cách khác. Không phải lòng thương xót bỏ qua sự thiệt hại khách quan do điều ác mang lại. Đúng hơn, nó lấy đi sức mạnh của tà ác đối với tương lai. Nó lấy đi sức mạnh của tà ác đối với đời sống, một đời sống sau đó vẫn tiếp tục diễn tiến. Lòng thương xót là biểu thức chính hiệu của cuộc sống sẵn sàng chống lại sự chết, vốn là kết quả cay đắng của tội lỗi. Với tính cách ấy, nó hoàn toàn sáng suốt và không hề ngây thơ. Nó không hề bị mù đối với điều ác; đúng hơn, nó thấy cuộc sống vắn vỏi xiết bao và mọi điều tốt vẫn còn cần được thực hiện như thế nào. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng là tha thứ hoàn toàn, để nhiều người khác có thể nhìn về tương lai mà không lãng phí thời gian vào việc tự kết tội mình và tự thương hại vì các lỗi lầm quá khứ của mình. Khi bắt đầu biết quan tâm tới những người khác, chúng ta sẽ xét lương tâm của chúng ta, và theo mức độ giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ đền bù các sai sót chính chúng ta đã làm. Lòng thương xót luôn nhuốm màu hy vọng. Lòng thương xót là mẹ của hy vọng.
Để chúng ta được trái tim đang đập của Chúa Cha lôi cuốn và sai đi là tiếp tục ở lại trong sự căng thẳng lành mạnh giữa ngượng ngùng và phẩm gía này. Để chúng ta được lôi cuốn vào trái tim của Người, như máu đã vị vấy bẩn trên đường trao ban sự sống cho tứ chi, ngõ hầu Chúa có thể làm sạch chúng và rửa chân chúng ta. Để chúng ta được sai đi, đầy đủ lượng oxy của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu làm sống lại toàn bộ cơ thể, đặc biệt là những chi thể ở xa nhất, yếu đuối và bị tổn thương.
Một linh mục, và điều này xẩy ra thực sự, đã nói với tôi về một người ở đường phố, kết cục phải sống trong một nhà tế bần. Ông đã bị tiêu hao bởi sự cay đắng và không tương tác với những người khác. Ông là một người có học vấn, như sau này họ phát hiện ra. Đôi khi sau đó, người đàn ông này đã phải nhập viện vì một căn bệnh đã đến hồi cuối cùng. Ông nói với vị linh mục rằng trong khi ông ở đó, cảm thấy trống rỗng và vỡ mộng, người đàn ông ở giường bên cạnh yêu cầu ông di chuyển chiếc bình cạnh giường của mình và đổ nó đi. Lời yêu cầu từ một người thực sự có nhu cầu này, một người đã trở nên tồi tệ hơn ông, đã mở mắt và trái tim ông đón nhận một cảm giác mạnh mẽ về tình người, một mong muốn được giúp đỡ một người khác và để chính mình được Thiên Chúa giúp đỡ. Một hành vi thương xót đơn giản đã đưa ông tới chỗ tiếp giáp với lòng thương xót vô hạn. Nó đã dẫn ông đến việc giúp đỡ người khác, và khi làm như vậy, chính ông đã được giúp đỡ. Ông qua đời sau khi xưng tội, và qua đời trong bình an. Đây là mầu nhiệm của lòng thương xót.
Vì vậy, tôi để anh em ở lại với bài dụ ngôn về Người Cha thương xót, bây giờ là lúc chúng ta, chúng ta đã bước vào tình thế trong đó người con trai cảm thấy bẩn thỉu dù đã được mặc quần áo, một tội nhân có phẩm giá, xấu hổ vì mình, nhưng tự hào về cha mình. Dấu chỉ ta vừa bước vào là chính chúng ta muốn trở nên thương xót đối với mọi người. Đây là ngọn lửa Chúa Giêsu đã xuống thế để đem đến cho trần gian, một ngọn lửa thắp cháy mọi ngọn lửa khác. Nếu tia lửa không bắt, thì chính bởi vì một trong những tim đèn không bắt liên lạc. Hoặc vì quá xấu hổ, mà không chịu bóc trần dây điện và, thay vì tự do thú nhận: "Tôi đã làm điều này hay điều nọ", vẫn cứ trùm bọc; hoặc vì quá trọng phẩm giá, nên chạm vào thứ gì cũng cần găng tay.
Dư tràn lòng thương xót
Một vài lời về sự dư tràn lòng thương xót để kết luận. Cách duy nhất để chúng ta "dư tràn" trong việc đáp ứng lòng thương xót quá mức của Thiên Chúa là hoàn toàn mở lòng ra để tiếp nhận nó và chia sẻ nó với những người khác. Tin Mừng cho chúng ta nhiều ví dụ cảm động về những người đã đi đến dư tràn ngõ hầu nhận được lòng thương xót của Người. Người bại liệt chẳng hạn đã được bạn bè đưa anh từ mái nhà xuống chỗ Chúa đang rao giảng – họ có cường điệu đôi chút. Hoặc người phung cùi bỏ chín đồng bạn của mình để trở lại tôn vinh và lớn tiếng tạ ơn Thiên Chúa, bằng cách qùy mọp dưới chân Chúa. Hoặc người mù lòa Bartimêô mà tiếng kêu van kịch liệt đã làm Chúa Giêsu dừng lại trước mặt anh – và thậm chí còn qua mặt cả các “trạm kiểm soát quan thuế của các tư tế” để đến với Chúa. Hoặc người phụ nữ bị xuất huyết, rụt rè đến gần Chúa và chạm vào áo choàng của Người; như Tin Mừng cho chúng ta biết, Chúa Giêsu cảm thấy một sức mạnh-một thứ dynamis (nhân điện?)- "xuất ra" khỏi Người ... Tất cả đều là những ví dụ về sự tiếp xúc có thể đốt sáng các ngọn lửa và giải phóng sức mạnh tích cực của lòng thương xót. Rồi chúng ta cũng có thể nghĩ đến người đàn bà tội lỗi, từng rửa chân Chúa bằng nước mắt và lau khô chúng bằng mái tóc của nàng; Chúa Giêsu nhìn thấy việc biểu lộ tình yêu dư tràn của nàng như một dấu chỉ cho thấy nàng đã nhận được một lòng thương xót lớn lao. Lòng thương xót luôn dư tràn! Những người bình thường - những người tội lỗi, những người ốm yếu và những người bị quỷ ám- đều được Chúa nâng dậy ngay lập tức. Người làm họ từ loại trừ bước qua bao gồm trọn vẹn, từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp. Đó là cách nói lên rằng: lòng thương xót làm chúng ta bước "từ ghẻ lạnh qua cử hành mừng vui". Và nó chỉ có thể hiểu được bằng chìa khóa hy vọng, bằng chìa khoá tông đồ, bằng chìa khóa nhận biết lòng thương xót và sau đó biểu lộ lòng thương xót.
Chúng ta hãy kết luận bằng cách đọc Kinh Ngượi Khen của Lòng Thương Xót, tức Thánh Vịnh 51 của Vua Đavít, một Thánh Vịnh ta đọc mỗi Thứ Sáu vào giờ Kinh Ban Sáng. Đây là Kinh Ngợi Khen của "một trái tim khiêm nhường và thống hối" có khả năng thú nhận tội lỗi của mình trước Thiên Chúa, Đấng, trong lòng trung tín của Người, vốn lớn hơn bất cứ tội lỗi nào của chúng ta. Nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của người con trai hoang đàng, vào lúc, thay vì bị Cha quở trách, anh phát hiện Cha anh đang tổ chức một tiệc vui, chúng ta có thể tưởng tượng chắc hẳn anh ta sẽ đọc Thánh Vịnh 51. Chúng ta có thể đọc Thánh Vịnh này kiểu đáp ca với anh. Ta có thể nghe thấy anh đọc: "Xin thương xót con, ôi lạy Thiên Chúa, trong lòng nhân từ của Ngài; trong lòng cảm thương của Ngài, xin xóa hết hành vi tội lỗi của con "... Và chúng ta tiếp theo: "Các hành vi tội lỗi của con, con thật sự biết rõ chúng; tội lỗi của con luôn ở trước mặt con ". Và cùng thân thưa: "Lạy Cha, con đã phạm tội chống lại Cha, chống lại Cha, chỉ một mình Cha".
Ước chi lời cầu nguyện của chúng ta được nâng lên từ sự căng thẳng nội tâm vốn gợi lên lòng thương xót, sự căng thẳng giữa sự xấu hổ biết thân thưa: "Xin Ngài ngoảnh mặt khỏi tội lỗi của con, và xóa hết mọi tội lỗi của con", và sự tự tin biết nói: "Ôi, xin thanh tẩy con, thì con sẽ được sạch sẽ; Ôi, xin rửa con, thì con sẽ được trắng hơn tuyết". Một sự tự tin biết trở thành tông đồ: "Một lần nữa, hãy ban cho con niềm vui được Ngài giúp đỡ; hãy nâng đỡ con bằng tinh thần nhiệt thành, để con dạy cho kẻ phạm tội biết đường lối của Ngài, và những kẻ tội lỗi biết trở về với Ngài".
Bài suy niệm thứ hai: Bình chứa lòng thương xót
Sau khi suy niệm về “phẩm giá ngượng ngùng” và “sự ngượng ngùng có phẩm giá” vốn là hoa trái của thương xót, ta hãy tiếp tục bằng cách nói đến “bình chứa lòng thương xót”. Đây không phải là một điều phức tạp. Để tôi nói một cách đơn giản rằng bình chứa lòng thương xót là tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi của chúng ta thường giống như một cái sàng, hoặc một cái thùng bị rò rỉ, từ đó ơn thánh mau chóng bị cạn khô. "Vì dân Ta đã phạm hai điều gian ác: họ đã lìa bỏ Ta, vốn là nguồn nước hằng sống, và đã đào bể chứa cho mình, bể nứt không thể giữ được nước" (Grm 2,13). Đó là lý do tại sao Chúa đã dạy Thánh Phêrô sự cần thiết phải "tha thứ bảy mươi lần bảy". Thiên Chúa tiếp tục tha thứ, mặc dù Người thấy ân sủng của Người khó bén rễ trong mảnh đất khô cằn và sỏi đá của tâm hồn chúng ta. Nói tóm lại, Thiên Chúa không phải là Pêlagiô: đây là lý do tại sao Người không mệt mỏi tha thứ. Người vẫn không bao giờ ngưng việc gieo trồng lòng thương xót và sự tha thứ của Người.
Những trái tim được tái tạo
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn lòng thương xót này của Thiên Chúa, một lòng thương xót luôn "lớn" hơn ý thức của chúng ta về tội lỗi của mình. Chúa không bao giờ mỏi mệt tha thứ cho chúng ta; thực vậy, Người canh tân các chiếc bình da trong đó chúng ta tiếp nhận sự tha thứ đó. Người sử dụng bình da mới cho rượu nho mới của lòng thương xót của Người, không phải thứ bình vá víu hay cũ mèm. Bình da đó chính là lòng thương xót: lòng thương xót của riêng Người, mà chúng ta cảm nghiệm rồi sau đó biểu lộ ra ngoài qua việc giúp đỡ những người khác. Một trái tim đã biết thương xót thì không cũ mèm và vá víu, nhưng mới và được tái tạo. Đó là trái tim mà Đavít đã cầu xin cho có được: "Ôi lạy Chúa, xin Chúa tạo cho con một trái tim tinh khiết, hãy đặt trong con một tinh thần kiên định" (Tv 51:12).
Trái tim đó, được tái tạo, là một chiếc bình tốt; nó không còn méo mó và rò rỉ nữa. Phụng vụ vang dội niềm xác tín chân thành của Giáo Hội trong lời cầu nguyện đẹp đẽ tiếp sau bài đọc thứ nhất của Đêm Vọng Phục Sinh: "Lạy Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vũ trụ cách kỳ diệu, sau đó còn tái tạo nó cách kỳ diệu hơn nữa trong ơn cứu chuộc". Trong lời cầu nguyện này, chúng ta khẳng định rằng việc sáng tạo thứ hai thậm chí còn kỳ diệu hơn việc sáng tạo thứ nhất. Trái tim chúng ta là một trái tim biết ý thức mình được tái tạo nhờ việc liên kết giữa sự nghèo nàn của nó và sự tha thứ của Thiên Chúa; nó là một "trái tim được ban phát lòng xót thương và biểu lộ lòng thương xót ấy ra". Nó cảm nhận dầu ân sủng đổ xuống trên các vết thương và tội lỗi của nó; nó cảm thấy lòng thương xót xoa dịu mặc cảm tội lỗi của nó, tưới gội sự khô cằn của nó bằng tình yêu và thắp sáng hy vọng. Khi, với cùng một ân sủng này, nó biết tha thứ cho các người có tội khác và đối xử với họ một cách cảm thương, thì lòng thương xót này sẽ bén rễ trong đất tốt, nơi nước không thoát đi nhưng chẩy vào và đem lại sự sống.
Những người thực hành tốt nhất của lòng thương xót biết sửa sai các lầm lẫn này chính là những người biết rằng bản thân họ đã được tha thứ cùng một sai lầm như thế. Hãy nhìn chính bạn; hãy nhớ tới chính tiểu sử của bạn; và bạn sẽ tìm được ở đấy thật nhiều thương xót. Chúng ta thấy điều này nơi các huấn đạo viên về nghiện ngập: những người đã vượt qua được cơn nghiện của họ thường là những người có khả năng hiểu, giúp đỡ và đòi hỏi người khác hơn hết. Cũng vậy, các cha giải tội tốt nhất thường cũng là các hối nhân tốt nhất. Ta có thể nghĩ tới việc chính chúng ta, chúng ta là loại hối nhân nào. Hầu như tất cả các vị thánh lớn đều là những người có tội lớn hay như Thánh Therese nói, các ngài biết rằng chỉ nhờ ân sủng nên các ngài mới không phạm tội.
Như thế, bình chứa lòng thương xót thực sự chính là lòng thương xót mà mỗi người chúng ta đã nhận được và đã tạo nên trong chúng ta một trái tim mới. Đây là "bình đựng rượu mới" mà Chúa Giêsu đã nhắc đến (x Lk5: 37), "vết thương đã được chữa lành".
Ở đây, chúng ta đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Chúa Con, tức Chúa Giêsu, Đấng vốn là lòng thương xót nhập thể của Chúa Cha. Ở đây chúng ta cũng có thể tìm được hình tượng dứt khoát của bình chứa thương xót trong các vết thương của Chúa Phục Sinh. Những vết thương này nhắc nhở chúng ta rằng các dấu vết tội lỗi của chúng ta, tuy Thiên Chúa tha thứ, nhưng không bao giờ hoàn toàn chữa lành hoặc biến mất; chúng vẫn còn đó như những vết sẹo. Thánh Bernard có hai bài giảng rất tinh tế về các vết thương của Chúa. Ở đó, trong các vết thương đó, ta thấy lòng thương xót. Thánh Bernard hỏi một cách sâu sắc: “Bạn cảm thấy lạc đường phải không? Bạn bối rối phải không? Bạn hãy bước vào các vết thương của Chúa và ở đấy, bạn sẽ tìm thấy lòng thương xót”.
Các vết sẹo, như chúng ta biết, rất nhậy cảm; chúng không làm ta đau, nhưng chúng nhắc chúng ta nhớ các vết thương cũ của mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa ở trong các vết sẹo này, các vết sẹo của chúng ta. Chúa vẫn mang các vết thương của Người; Người muốn mang các vết sẹo này, và cả các vết thương của ta nữa. Khi ta đi gặp bác sĩ và bác sĩ thấy vết sẹo, ông sẽ hỏi ta làm sao có vết sẹo này, lý do tại sao ta có cuộc giải phẫu này hay cuộc giải phẫu nọ. Ta hãy nhìn các vết sẹo trong linh hồn ta và thưa với Chúa: “Chúa thực hiện cuộc giải phẫu này với lòng thương xót của Chúa, đây là vết thương Chúa đã chữa lành…”.
Trong những vết sẹo của Chúa Kitô phục sinh, những dấu tích của những vết thương ở tay và chân của Người và cả trong trái tim bị đâm thâu của Người, chúng ta tìm thấy ý nghĩa thực sự của tội lỗi và ân sủng. Khi chiêm ngắm trái tim bị thương của Chúa, chúng ta thấy mình phản ảnh trong Người. Trái tim Người, và trái tim chúng ta, tương tự nhau: cả hai đều bị thương và đã trỗi dậy. Nhưng chúng ta biết rằng trái tim Người là tình yêu tinh khiết và bị thương vì nó muốn bị như thế; trái tim của chúng ta, mặt khác, là vết thương không hơn không kém, được chữa lành vì nó để mình được yêu thương.
Các thánh của chúng ta tiếp nhận lòng thương xót
Chúng ta có thể có lợi nhờ việc chiêm ngắm những người khác biết để trái tim họ được tái tạo bởi lòng thương xót và nhờ nhìn thấy "bình chứa" trong đó họ nhận được lòng thương xót ấy. Thánh Phaolô nhận được lòng thương xót trong chiếc bình phán đoán khắc nghiệt và cứng ngắc của ngài, vốn do Lề Luật tạo khuôn. Lối phán đoán khắc nghiệt của ngài khiến ngài trở thành kẻ bách hại. Lòng thương xót đã thay đổi ngài đến nỗi ngài đã lên đường tìm kiếm những người ở xa xôi nhất, thuộc thế giới ngoại giáo, và, đồng thời, biểu lộ một sự hiểu biết và một lòng thương xót lớn lao đối với những người giống như ngài trước đây. Thánh Phaolô đã sẵn sàng trở thành một kẻ bị ruồng bỏ, miễn là ngài có thể cứu được dân của ngài. Cách tiếp cận của ngài có thể được tóm tắt như sau: ngài không phán đoán cả chính mình, nhưng thay vào đó, đã để mình được biện minh bởi một Vị Thiên Chúa lớn hơn lương tâm của mình, kêu gọi Chúa Giêsu như Đấng biện hộ trung thành mà không điều gì và không một ai có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Đấng này. Cái hiểu của Thánh Phaolô về lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa có tính triệt để. Việc ngài nhận ra rằng lòng thương xót của Thiên Chúa thắng vượt vết thương bên trong từng bắt ta lệ thuộc hai lề luật, lề luật của xác thịt và lề luật của Thánh Linh, là kết quả của một tâm trí biết cởi mở đối với chân lý tuyệt đối, một tâm trí từng bị thương tại chính nơi cả Lề Luật lẫn Ánh Sáng trở thành một cái bẫy. "Cái gai" nổi tiếng mà Chúa không lấy đi khỏi ngài là chiếc bình chứa mà Thánh Phaolô dùng tiếp nhận lòng thương xót của Chúa (x 2 Cor 12: 7).
Thánh Phêrô nhận được lòng thương xót trong việc cầm bằng rằng mình là một con người có lương tri. Ngài có lý với một sự khôn ngoan lành mạnh, thực tiễn của một ngư phủ, nhờ kinh nghiệm, biết rõ khi nào nên và khi nào không nên đánh cá. Nhưng ngài còn có lý khi, vì quá phấn khích được đi trên mặt nước và kéo được mẻ cá thần kỳ, nên đã quá say sưa với chính mình, nhưng vẫn còn nhận ra rằng mình cần xin sự giúp đỡ của Đấng duy nhất có thể cứu mình. Thánh Phêrô đã được chữa lành khỏi vết thương nặng hơn hết, đó là vết thương phủ nhận người bạn của mình. Có lẽ lời trách móc của Thánh Phaolô, người đã đối chất với ngài về sự tráo trở, có liên quan tới điều vừa nói; có thể Thánh Phaolô cảm thấy mình tồi tệ hơn "trước khi" biết Chúa Kitô, còn Thánh Phêrô thì lại chối Chúa Kitô, sau khi đã biết Người ... Tuy nhiên, một khi Thánh Phêrô đã được chữa khỏi các vết thương đó, Ngài trở thành một mục tử có lòng thương xót, một tảng đá vững chắc trên đó người ta có thể luôn luôn xây dựng, vì nó là một tảng đá yếu nhưng đã được chữa lành, chứ không phải là một tảng đá để vấp ngã. Trong Tin Mừng, Thánh Phêrô là môn đệ thường được Chúa sửa sai hơn cả. Ngài vốn bị “sàng” nhiều hơn những người khác! Chúa Giêsu không ngừng sửa sai ngài, thậm chí cho đến tận cùng: "việc gì đến anh? Hãy theo Thầy! "(Ga 21:22). Truyền thống cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu còn hiện ra lần nữa với Thánh Phêrô khi ngài chạy trốn khỏi Rôma. Hình ảnh Thánh Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xuống có lẽ diễn tả hay hơn hết chiếc bình chứa này của một con người cứng đầu, một người, để được thương xót, đã hạ mình xuống cả trong lúc làm chứng tối hậu cho tình yêu của mình đối với Chúa. Thánh Phêrô không muốn kết thúc cuộc sống của mình bằng cách nói rằng: "Tôi đã học được bài học", nhưng đúng hơn, "Vì đầu tôi sẽ không bao giờ làm cho nó đúng, tôi sẽ đặt nó xuống phía cuối". Phần ngài đặt lên đầu là đôi chân, đôi chân đã được Chúa rửa sạch. Đối với Thánh Phêrô, đôi chân này chính là bình chứa để ngài nhận lòng thương xót của Người Bạn và là Chúa của ngài.
Thánh Gioan đã được chữa lành trong niềm kiêu hãnh của ngài muốn dùng lửa báo ác. Vốn là "con của sấm sét" (Mc 3:17), nhưng kết cục, ngài lại viết cho các "con nhỏ" của ngài và có vẻ như một người ông nhân từ chỉ biết nói về tình yêu.
Thánh Augustinô đã được chữa lành trong niềm hối tiếc làm người tới trễ của ngài. Việc này làm ngài bối rối và trong ước nguyện muốn bù đắp thời gian bị mất, ngài đã được chữa lành: "Con đã yêu Ngài quá trễ". Ngài sẽ tìm một cách sáng tạo và đầy yêu thương để bù đắp cho thời gian đã mất bằng cách viết cuốn Tự Thú của ngài.
Thánh Phanxicô trải nghiệm lòng thương xót ở nhiều thời điểm trong cuộc sống của ngài. Có lẽ chiếc bình dứt khoát, chiếc bình đã trở thành các vết thương thực sự, không hẳn là việc hôn người phong cùi, kết hôn với Thục Nữ Nghèo hoặc cảm thấy mình là anh em của mọi tạo vật, cho bằng là trải nghiệm phải trông chừng trong im lặng thương xót Hội Dòng mà ngài sáng lập. Chính đây là chỗ tôi thấy sự anh hùng vĩ đại của Thánh Phanxicô: trong việc ngài phải trông chừng trong im lặng thương xót Hội Dòng ngài đã sáng lập. Đó chính là chiếc bình lớn chứa lòng thương xót của ngài. Thánh Phanxicô thấy anh em mình chia rẽ dưới chính ngọn cờ nghèo của mình. Ma quỷ làm chúng ta cãi cọ nhau, bảo vệ những điều thiêng liêng nhất "bằng một tinh thần ác".
Thánh Inhaxiô đã được chữa lành trong tính hư danh của ngài, và nếu đó là chiếc bình chứa, chúng ta có thể thoáng nhìn thấy lòng khao khát hư vinh của ngài lớn đến cỡ nào, một lòng hư vinh sau này được tái tạo trong nỗ lực hết sức tích cực của ngài để tìm vinh quang lớn hơn cho Thiên Chúa.
Trong cuốn Nhật Ký của Một Linh Mục Miền Quê, Bernanos kể lại cuộc đời của một linh mục bình thường, được cuộc đời của Cha Sở họ Ars linh hứng. Có hai đoạn văn rất đẹp mô tả các suy tư của vị linh mục này trong những giây phút cuối cùng của căn bệnh bất ngờ: "Xin Chúa ban cho con ân sủng trong những tuần cuối cùng này để con tiếp tục chăm sóc giáo xứ ... Nhưng con sẽ dành ít suy nghĩ hơn cho tương lai, con nên làm việc trong hiện tại. Con cảm thấy công việc đó hợp với khả năng của con. Vì con chỉ thành công trong những việc nhỏ mọn, và khi con bị xao xuyến thử thách, con buộc phải nói rằng chính những điều nhỏ đã làm con nhẹ nhõm". Ở đây chúng ta thấy một chiếc bình nhỏ chứa lòng thương xót, một chiếc bình buộc phải liên hệ tới những niềm vui nho nhỏ của cuộc sống mục vụ, nơi chúng ta tiếp nhận và phân bổ lòng thương xót vô biên của Chúa Cha trong những cử chỉ nhỏ mọn. Những cử chỉ nhỏ mọn của linh mục.
Các đoạn khác viết: "Bây giờ, mọi sự đã qua đi. Sự thiếu tin tưởng lạ kỳ đối với chính bản thân tôi, đối với hữu thể tôi, đã cao chạy xa bay, mà tôi tin là mãi mãi. Cuộc xung đột đó đã qua đi. Tôi không thể hiểu được nó nữa. Tôi đã hòa giải với bản thân mình, với cái vỏ bọc đáng thương của tôi. Ghét chính mình là điều dễ dàng xiết bao. Quên được là một ơn thánh thực sự. Ấy thế nhưng, nếu kiêu căng có thể chết trong chúng ta, thì ơn thánh tối cao sẽ là yêu mình một cách đơn sơ - như người ta yêu bất kỳ người nào trong số những người chịu đau khổ và yêu mến trong Chúa Kitô ". Bình chứa là đây: "yêu bản thân mình một cách đơn sơ, người ta yêu bất kỳ người nào trong số những người chịu đau khổ và yêu mến trong Chúa Kitô". Đó là chiếc bình chứa bình thường, giống chiếc bình cũ mà thậm chí, chúng ta có thể mượn của người nghèo.
Chân Phúc José Gabriel del Rosario Brochero, vị linh mục người Á Căn Đình, người đồng hương của tôi! người sắp được phong thánh, "đã để trái tim ngài được lên khuôn bởi lòng thương xót của Thiên Chúa". Cuối cùng, chiếc bình chứa của ngài là cơ thể phung cùi của ngài. Ngài muốn được chết trên lưng ngựa, băng qua một dòng suối ở miền núi trên đường đến xức dầu cho một người bệnh. Trong số những điều cuối cùng ngài nói, có điều này: "Không có vinh quang tối hậu ở đời này". Đối với tôi, những lời này rất đỗi gây ngạc nhiên: “không có vinh quang tối hậu ở đời này”. Gần cuối đời, khi bệnh phung cùi làm ngài bị mù, ngài nói: "Tôi khá hài lòng với những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi liên quan tới thị giác của tôi, và tôi cảm ơn Người vì điều đó. Trong khi tôi còn phục vụ được người khác, Người gìn giữ các giác quan tôi được toàn vẹn và mạnh mẽ. Hôm nay, khi tôi không còn làm được như vậy nữa, Người đã lấy đi khỏi tôi, một trong những giác quan thể lý. Ở đời này, không hề có vinh quang tối hậu, và chúng ta có quá dư khốn cùng". Thường thì công việc của chúng ta vẫn luôn dở dang, nên bình thản với việc này luôn là một ân sủng. Chúng ta được phép "để sự việc vượt khỏi tầm tay", ngõ hầu Chúa có thể chúc phúc và hoàn thiện chúng. Chúng ta không nên quá lo lắng. Nhờ cách này, chúng ta có thể cởi mở đón nhận các nỗi đau và niềm vui của anh chị em chúng ta. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuậntừng nói rằng, ở trong tù, Chúa đã dạy ngài phân biệt giữa "việc làm của Thiên Chúa", một việc ngài tận lực làm lúc còn sống tự do làm linh mục và giám mục, và chính Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã tận lực phụng sự lúc bị giam cầm (Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá, nhà xuất bản Pauline Books and Media, năm 2003).
Chúng ta dễ dàng nói tiếp thêm về việc các thánh là những chiếc bình chứa lòng thương xót ra sao, nhưng thôi, ta hãy hướng về Đức Mẹ. Dù gì, ta cũng đang ở trong nhà ngài!
Đức Maria như bình và nguồn của lòng thương xót
Lên cao hơn trên bậc thang các thánh trong cuộc tìm kiếm các bình chứa lòng thương xót của chúng ta, cuối cùng, chúng ta đến với Đức Mẹ. Đức Mẹ là bình chứa đơn giản nhưng hoàn hảo, vừa nhận vừa ban phát lòng thương xót. Lời "xin vâng" đầy tự do của ngài đối với ân sủng trái ngược hẳn với thứ tội đã dẫn đến sự xuống dốc của người con trai hoang đàng. Lòng thương xót của ngài rất là của riêng ngài, rất là của riêng chúng ta và rất là lòng thương xót của Giáo Hội. Như ngài đã nói trong kinh Magnificat, ngài biết rằng Thiên Chúa đã đoái nhìn sự khiêm cung của ngài và ngài nhận ra rằng lòng thương xót của Chúa kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mẹ Maria có thể nhìn thấy việc hành động của lòng thương xót này và ngài cảm thấy được nó "ôm ấp", cùng với toàn thể dân Israel. Ngài trân trọng duy trì trong trái tim ngài ký ức và lời hứa thương xót vô hạn của Thiên Chúa dành cho dân Người. Kinh Magnificat của ngài là lời ngợi khen của một trái tim trong sáng và tràn đầy, nhìn tất cả lịch sử và mỗi con người cá nhân bằng một lòng thương xót của một người mẹ.
Trong chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ của tôi, trong những lúc có thể dành ra để ở một mình bên cạnh Đức Mẹ, khi tôi nhìn ngắm Đức Mẹ, Trinh Nữ Guadalupe, và khi tôi để ngài nhìn tôi, tôi đã cầu xin cho các anh em, các linh mục thân mến, trở thành các mục tử tốt lành của các linh hồn. Trong bài diễn văn của tôi với các giám mục, tôi có nói rằng tôi thường nghĩ tới mầu nhiệm trong ánh mắt của Đức Maria, vẻ dịu dàng và ngọt ngào của nó, từng mang lại cho chúng ta sự can đảm để mở lòng mình ra đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Giờ đây, tôi muốn cùng anh em suy niệm về một vài cách thức Đức Mẹ đặc biệt "nhìn " các linh mục, vì qua chúng ta, ngài muốn nhìn vào dân của ngài.
Ánh mắt của Đức Maria làm chúng ta cảm nhận được vòng tay mẫu thân của ngài. Ngài cho chúng ta thấy rằng "sức mạnh duy nhất có thể chiếm được trái tim con người là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Điều làm ta vui thích và thu hút ta, làm ta khiêm nhường và chiến thắng, cởi mở và giải thoát không phải là sức mạnh của các công cụ hoặc các sức mạnh của pháp luật, mà đúng ra, là sự yếu đuối vạn năng của tình yêu Thiên Chúa, vốn là sức mạnh không thể cưỡng lại được của sự dịu dàng và lời cam đoan bất phản hồi của lòng thương xót" (Diễn Văn với các giám mục Mễ Tây Cơ, ngày 13 tháng 2 năm 2016). Điều mà mọi người tìm kiếm trong đôi mắt của Đức Maria là "một nơi an nghỉ, trong đó những người, dù vẫn đang mồ côi và không được hưởng bất cứ di sản nào, có thể tìm được một nơi ẩn náu, một mái ấm." Và điều đó có liên quan với cách ngài "nhìn" - đôi mắt ngài mở ra cả một không gian mời đón, không hề giống như một tòa án hoặc một văn phòng. Nếu đôi khi anh em nhận ra rằng cái nhìn riêng của anh em đã trở nên chai đá vì công việc khó khăn hay kiệt lực – đây là điều vẫn thường xẩy ra cho tất cả chúng ta- hoặc anh em có xu hướng nhìn người khác một cách khó chịu hoặc lạnh lùng, anh em hãy dừng lại và một lần nữa nhìn lên ngài với một sự khiêm tốn tận đáy lòng. Vì Đức Mẹ có thể lấy đi mọi thứ "đục nhãn mắt" vốn ngăn cản họ nhìn thấy Chúa Kitô trong tâm hồn con người. Ngài có thể lấy đi bệnh cận thị vốn không nhìn thấy các nhu cầu của người khác, vốn cũng là các nhu cầu của Chúa nhập thể, và cả bệnh viễn thị vốn không thể nhìn thấy các chi tiết, những “chữ in nhỏ", nơi những điều thật sự quan trọng đang diễn ra trong đời sống Giáo Hội và đời sống gia đình. Cái nhìn của Đức Mẹ đem lại sự lành lặn.
Một khía cạnh khác trong cái nhìn của Đức Maria liên quan tới việc dệt. Đức Maria nhìn "bằng cách dệt", bằng việc tìm cách rút ra điều tốt từ tất cả những điều người ta đặt dưới chân ngài. Tôi đã nói với các giám mục Mễ Tây Cơ rằng, "trong chiếc áo choàng của linh hồn Mễ Tây Cơ, với các sợi chỉ của đặc điểm mestizo, Thiên Chúa đã dệt nơi Đức Mẹ Nâu một khuôn mặt mà qua đó, Người muốn được biết đến". Một bậc thầy tâm linh đã dạy chúng ta rằng "bất cứ điều gì được nói về Đức Maria đều đặc biệt được nói về Giáo Hội cách chung và về mỗi linh hồn cách riêng" (xem Isaac thành Stella, Serm 51: PL 194, 1863). Khi xem xét cách thức Thiên Chúa dệt nên khuôn mặt và khuôn dung của Đức Mẹ Guadalupe vào chiếc áo choàng của Juan Diego, chúng ta cũng có thể suy niệm cách Người dệt linh hồn chúng ta và sự sống của toàn thể Giáo Hội.
Người ta nói rằng không thể coi bức ảnh Đức Mẹ Guadalupe như đã được "vẽ"; dường như nó đã được "in" vậy đó. Tôi thích nghĩ rằng phép lạ không phải chỉ là ảnh này được in hay được vẽ, nhưng toàn bộ chiếc áo choàng đã được tái tạo, biến đổi từ trên xuống dưới. Mỗi sợi chỉ - những sợi chỉ của lá cây lôi hộ mà các phụ nữ đã học từ thời thơ ấu để dệt vào những hàng may mặc tốt nhất của họ - đã được hiển dung tại chỗ của nó, và, dệt xen với tất cả những chi tiết khác, làm nổi bật khuôn mặt của Đức Mẹ, sắc diện của ngài và môi trường xung quanh ngài. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng thực hiện được điều tương tự. Nó không "vẽ" cho chúng ta một khuôn mặt xinh đẹp, hoặc sơn xì thực tại của chúng ta. Đúng hơn, với các sợi chỉ của cảnh khốn cùng và tội lệ của chúng ta, dệt xen với tình yêu của Chúa Cha, nó dệt chúng ta đến nỗi linh hồn chúng ta được đổi mới và phục hồi được hình ảnh chân thực của nó, tức hình ảnh Chúa Giêsu. Vì vậy, anh em hãy là những linh mục "có khả năng bắt chước sự tự do này của Thiên Chúa, Đấng đã chọn người khiêm tốn để mặc khải vẻ uy nghi của nhan thánh Người, những linh mục có khả năng bắt chước sự kiên nhẫn của Thiên Chúa bằng cách dệt nên một nhân loại mới mà đất nước anh em đang mong đợi bằng các sợi chỉ mịn màng của tất cả những người anh em gặp gỡ. Đừng đầu hàng cơn cám dỗ muốn bỏ đi nơi khác – đây là một trong các cơn cám dỗ của chúng ta, là xin đức giám mục thuyên chuyển! như thể tình yêu của Thiên Chúa không mạnh mẽ đủ để mang lại sự thay đổi "(Diễn văn gửi các giám mục Mễ Tây Cơ, ngày 13 tháng 2 năm 2016).
Khía cạnh thứ ba là khía cạnh chăm sóc chu đáo. Ánh mắt của Đức Maria là ánh mắt quan tâm trọn vẹn. Ngài để tất cả mọi thứ khác lại đằng sau, và chỉ quan tâm tới những người ở phía trước ngài. Giống như một người mẹ, ngài hoàn toàn lắng nghe đứa con có điều muốn nói với ngài. Anh em có thấy các bà mẹ còn bắt chước cả giọng nói của con thơ để khuyến khích con nói không? Chính họ trở nên nhỏ bé. Tại Mễ Tây Cơ, tôi có nói rằng: "Như truyền thống Guadalupe tuyệt vời đã dạy chúng ta, Đức Mẹ Nâu trân quí cái nhìn của tất cả những ai ngắm nhìn ngài; ngài phản ánh khuôn mặt của tất cả những ai đến với ngài. Có một điều gì đó độc đáo trong khuôn mặt của mọi người đến với chúng ta để tìm kiếm Thiên Chúa. Không phải ai cũng nhìn chúng ta cùng một cách. Chúng ta cần phải nhận ra điều này, để mở rộng lòng mình và tỏ ra quan tâm tới họ. Chỉ có một Giáo Hội có khả năng quan tâm chu đáo đối với tất cả những ai gõ cửa nhà mình mới có thể nói chuyện với họ về Thiên Chúa. Trừ khi nào, nhìn vào sự đau khổ của người ta mà biết nhận ra nhu cầu của họ, chúng ta sẽ không có gì để cung cấp cho họ. Sự giầu có mà chúng ta đang sở hữu sẽ chỉ lưu chảy khi chúng ta thật sự gặp gỡ nhu cầu của người khác, và cuộc gặp gỡ này chỉ diễn ra trong chính trái tim mục tử của chúng ta"(ibid.). Tôi yêu cầu các giám mục của anh em phải lưu tâm đến anh em, các linh mục của họ, chứ không để anh em "chơ vơ với sự cô đơn và bỏ rơi, dễ làm mồi cho tính thế gian vốn nuốt chửng trái tim ta" (ibid.). Thế giới đang theo dõi chúng ta cách chặt chẽ, ngõ hầu "nuốt chửng" chúng ta, biến chúng ta thành người tiêu dùng ... Tất cả chúng ta cần chú ý, một ánh mắt quan tâm chính đáng. Như tôi đã nói với các giám mục: "Hãy chú ý và học cách đọc nét mặt các linh mục của mình, để vui mừng với họ khi họ cảm nhận được niềm vui được thuật lại tất cả những gì họ đã "thực hiện và giảng dạy"(Mc 6:30). Cũng đừng bước khỏi khi họ bị ô nhục và chỉ còn biết khóc vì ‘đã từ chối Chúa’(Lc 22: 61-62). Hãy cung ứng sự hỗ trợ của các hiền huynh, trong tình hiệp thông với Chúa Kitô, bất cứ khi nào một trong số họ, nản lòng, đi ra ngoài với Judas để bước vào 'đêm đen' (xem Ga13: 30). Trong những tình huống này, sự chăm sóc phụ thân của các hiền huynh đối với các linh mục của các hiền huynh không bao giờ được thiếu cả. Hãy khuyến khích sự hiệp thông giữa họ với nhau; tìm cách rút được những điều tốt nhất ở nơi họ, và tranh thủ họ tham gia các dự án lớn lao, vì trái tim của một tông đồ đã không được tạo nên cho những điều nhỏ nhặt "(ibid.).
Cuối cùng, ánh mắt của Đức Maria là ánh mắt "toàn diện", ôm lấy tất cả. Nó mang mọi sự lại với nhau: quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nó không phân mảnh hoặc từng phần: lòng thương xót có thể nhìn sự vật như một toàn thể và nắm bắt những gì cần thiết nhất. Tại Cana, Đức Maria "một cách tương cảm" nhìn thấy trước: việc thiếu rượu tại tiệc cưới sẽ có ý nghĩa như thế nào, nên ngài đã yêu cầu Chúa Giêsu giải quyết vấn đề, mà không ai để ý. Chúng ta có thể coi toàn bộ đời sống linh mục của chúng ta phần nào như đã được lòng thương xót của Đức Maria "thấy trước"; Ngài nhìn thấy trước những điều chúng ta thiếu và cung ứng chúng. Nếu có bất kỳ thứ "rượu ngon" hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, thì đó không phải do công lao của chúng ta nhưng do lòng "thương xót dự ứng" của ngài. Trong kinh Magnificat, ngài tuyên xưng Chúa đã "đoái nhìn phận hèn tôi tớ" và "nhớ tới (giao ước) thương xót của Người", một "lòng thương xót được biểu lộ từ đời này tới đời kia" đối với người nghèo và người bị áp bức. Đối với Đức Maria, lịch sử là lòng thương xót.
Chúng ta có thể kết luận bằng cách đọc kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina). Những lời của kinh này ngân vang với mầu nhiệm của kinh Magnificat. Đức Maria là Mẹ của lòng thương xót, là sự sống của chúng ta, là vị ngọt ngào của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta. Bất cứ khi nào linh mục anh em có những khoảnh khắc đen tối hay đau buồn, bất cứ khi nào trái tim anh em bối rối, tôi khuyến khích anh em đừng chỉ “nhìn Mẹ anh em”, một việc dù sao anh em cũng sẽ làm, nhưng hãy đến với ngài, để ngài nhìn anh em, anh em hãy giữ im lặng và thậm chí thiếp ngủ trước mặt ngài. Sự đau buồn của anh em, và tất cả những lầm lỗi từng gây ra sự đau buồn ấy… tất cả những bẩn tưởi này đều sẽ trở thành chiếc bình chứa lòng thương xót. Hãy để Đức Mẹ nhìn anh em! Đôi mắt thương xót của ngài chắc chắn là chiếc bình vĩ đại nhất chứa lòng thương xót, vì cái nhìn của chúng giúp chúng ta uống thoả thuê trong sự nhân hậu và tốt lành ấy mà chúng ta hằng khao khát với một niềm hoài mong mà chỉ có cái nhìn yêu thương mới có thể thỏa mãn. Đôi mắt thương xót của ngài cũng giúp chúng ta nhìn thấy lòng thương xót của Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử nhân loại và tìm thấy Chúa Giêsu trên khuôn mặt của anh chị em chúng ta. Trong Đức Maria, chúng ta thoáng nhìn thấy đất hứa – Vương Quốc thương xót do Chúa chúng ta thiết lập - đã hiện diện ở đời này, bên kia cuộc lưu đầy mà tội lỗi đã dẫn chúng ta vào.
Như thế, hãy để Đức Mẹ nắm lấy tay anh em, và anh em hãy bám lấy tà áo ngài. Tại văn phòng của tôi, tôi có một bức ảnh đáng yêu Đức Bà Synkatabasis mà Cha Rupnik tặng tôi. Bức ảnh cho thấy Đức Maria duỗi hai bàn tay ra như một cầu thang để Chúa Giêsu leo lên. Điều tôi thích nhất về bức ảnh này là Chúa Giêsu một tay cầm trọn bộ Lề Luật, còn tay kia thì bám lấy tà áo Mẹ. Trong truyền thống Nga, các đan sĩ già cho ta hay rằng giữa gió bão thiêng liêng, chúng ta cần đến trú ẩn dưới tà áo Đức Mẹ. Đáp ca Thánh Mẫu đầu tiên ở Phương Tây cũng đã nói cùng một điều: Sub Tuum Praesidium (chúng con trông cậy). Dưới tà áo Mẹ. Như thế, anh em đừng xấu hổ, đừng nói hoài nữa, cứ ở đó đi và để anh em được che chở, hãy để anh em được nhìn ngắm. Và hãy khóc. Khi chúng ta tìm được một linh mục có thể làm điều này, có thể chạy đến với Đức Mẹ với mọi tội lỗi của mình và khóc, thì, tôi xin nói đó chính là một linh mục tốt, vì ngài là một người con tốt. Ngài sẽ là một người cha tốt.
Nắm bàn tay ngài và dưới cái nhìn của ngài, chúng ta có thể hân hoan tuyên xưng sự cao cả của Chúa. Cùng với Đức Maria, chúng ta có thể thưa rằng: Lạy Chúa, linh hồn con ca ngợi Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn phận thấp hèn và khiêm hạ của tôi tớ Chúa. Con diễm phúc xiết bao vì đã được tha thứ. Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa, mà Chúa đã biểu lộ với các thánh của Chúa và với tất cả dân trung thành của Chúa, Chúa cũng đã biểu lộ với con. Con đã xa lạc, chỉ tìm kiếm bản thân mình, vì cao ngạo trong lòng, nhưng nào thấy vinh quang. Vinh quang duy nhất là Mẹ của Chúa đã ôm lấy con, đã bao phủ con bằng tà áo của ngài, và kéo con vào tâm hồn ngài. Con muốn được yêu như một trong những người nhỏ bé nhất của Chúa. Con muốn dùng bánh của Chúa nuôi sống tất cả những người đang đói khát Chúa. Lạy Chúa, xin Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Chúa với con cái Chúa, các linh mục của dân Chúa. Với Đức Maria, ước chi chúng ta trở thành dấu hiệu và bí tích của lòng thương xót Chúa.
Bài suy niệm thứ ba: Mùi Thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của Người
Chúng ta hãy hy vọng rằng Chúa sẽ ban cho ta điều ta tìm trong lời cầu nguyện: noi gương kiên nhẫn của Chúa Giêsu, và với sự kiên nhẫn này, sẽ vượt qua mọi khó khăn.
Bài suy niệm thứ ba này của chúng ta có tựa đề là: Mùi thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của Người.
Trong buổi gặp gỡ thứ ba của chúng ta này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về các việc thương xót, bằng cách tiếp nhận bất cứ việc nào ta cảm thấy có liên hệ mật thiết nhất với đặc sủng của chúng ta, và bằng cách nhìn vào các việc này như một toàn thể. Chúng ta có thể chiêm ngắm chúng qua con mắt thương xót của Đức Mẹ, đấng giúp ta tìm ra "rượu đang thiếu" và khuyến khích chúng ta "làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu nói với chúng ta" (Ga 2: 1-12), ngõ hầu lòng thương xót của Người có thể làm các phép lạ mà người của chúng ta cần.
Các việc thương xót được liên kết chặt chẽ với các "giác quan tâm linh". Trong lời cầu nguyện của chúng ta, chúng ta xin ơn biết "cảm nhận và thưởng thức" Tin Mừng đến nỗi nó có thể làm chúng ta "nhạy cảm" hơn trong cuộc sống của chúng ta. Được Chúa Thánh Thần đánh động và được Chúa Giêsu dẫn dắt, chúng ta có thể, bằng con mắt của lòng thương xót, nhìn thấy từ xa những người gục ngã dọc bên đường. Chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của Bartimêô và cùng với Chúa Giêsu, cảm thấy cái đụng tay nhút nhát nhưng cương quyết của người phụ nữ bị băng huyết, khi bà nắm lấy áo choàng của Người. Chúng ta có thể xin ơn cùng với Chúa Giêsu chịu đóng đinh biết nếm mật đắng của tất cả những người đang chia sẻ thập giá của Người, và ngửi thấy mùi hôi của khốn khổ - trong các bệnh viện dã chiến, trong xe lửa và trong các tàu thuyền chật ních người. Dầu của lòng thương xót không che đây được mùi hôi này. Đúng hơn, khi xức dầu này, nó nức lên niềm hy vọng mới.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, khi thảo luận về các việc thương xót, cho chúng ta biết rằng "khi mẹ ngài trách cứ ngài đã chăm sóc người nghèo và người bệnh tại nhà, Thánh Rose thành Lima nói với bà rằng: ‘Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, chúng ta là mùi thơm của Chúa Kitô’"(số 2449, Latinh). Mùi thơm của Chúa Kitô đó - tức việc chăm sóc người nghèo - vốn là, và luôn luôn đã là, dấu ấn của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã làm cho nó trở thành trọng tâm của cuộc họp giữa ngài với các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, vốn là "các cột trụ" của Giáo Hội. Ngài nói với chúng ta rằng các ngài "chỉ xin một điều, đó là chúng ta nhớ đến người nghèo" (Gl 2:10). Điều này nhắc nhớ một câu truyện tôi đã từng kể. Ngay sau khi tôi vừa được bầu làm giáo hoàng, trong lúc vẫn còn đang đọc tiếp các lá phiếu, một hiền huynh hồng y đến với tôi, ôm tôi và nói: “Đừng quên người nghèo!”. Đó chính là sứ điệp đầu tiên Chúa gửi cho tôi lúc ấy.
Sách Giáo Lý nói tiếp một cách đáng kể rằng "những người bị áp bức bởi nghèo khó là đối tượng của một tình yêu ưu tiên đối với Giáo Hội, một tình yêu mà từ những ngày đầu của Giáo Hội, và bất chấp các thiếu sót của nhiều chi thể của Giáo Hội, vẫn không ngừng làm việc để cứu trợ, bảo vệ và giải phóng họ"(số 2448). Không cần các ý thức hệ, chỉ cần sức mạnh của Tin Mừng mà thôi.
Trong Giáo Hội, chúng ta phạm, và đã luôn luôn phạm, nhiều tội lỗi và thiếu sót. Nhưng khi nói đến việc phục vụ người nghèo bằng các việc thương xót, trong tư cách một Giáo Hội, chúng ta đã luôn luôn đi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Các thánh của chúng ta đã làm điều này theo những cách khá sáng tạo và hữu hiệu. Tình yêu đối với người nghèo đã là dấu hiệu, là ánh sáng thu hút mọi người để làm vinh danh Chúa Cha. Giáo dân ta đánh giá cao điều này nơi một linh mục biết quan tâm tới người nghèo và người bệnh, tới những người có tội được ngài tha thứ và tới những người được ngài kiên nhẫn dạy dỗ và sửa chữa ... Giáo dân ta tha thứ cho các linh mục chúng ta nhiều sai phạm, ngoại trừ sai phạm quá dính bén với tiền bạc. Điều này, thì họ không tha thứ. Nhưng nó không liên quan nhiều tới chính tiền bạc cho bằng sự kiện này: tiền bạc làm chúng ta quên lãng kho tàng của lòng thương xót. Giáo dân ta có thể đánh hơi được tội lỗi nào thực sự nghiêm trọng đối với một linh mục, những tội nào giết chết thừa tác vụ của ngài vì chúng biến ngài thành một quan chức hoặc còn tệ hơn nữa, thành một kẻ làm thuê. Họ cũng có thể nhận ra những tội lỗi nào, tôi sẽ không nói là phụ thuộc (tôi không dám chắc liệu anh em có thể nói thế về phương diện thần học hay không!), nhưng là thứ tội cần được mang giống như một thánh giá, cho đến khi, cuối cùng, Chúa sẽ đốt chúng đi như đốt trấu. Nhưng sự thất bại, không có lòng thương xót, nơi một linh mục là một mâu thuẫn trắng trợn. Nó đánh ngay vào tâm điểm của ơn cứu rỗi, chống lại chính Chúa Kitô, Đấng "đã trở thành nghèo để nhờ cái nghèo của Người, chúng ta có thể trở nên giàu có" (xem 2Cr 8: 9). Vì lòng thương xót chữa lành "nhờ mất đi một điều gì tự nó". Chúng ta cảm thấy nhói đau hối tiếc và chúng ta mất đi một phần cuộc sống của chúng ta, bởi vì, thay vì làm những gì chúng ta muốn làm, chúng ta đã vươn tay ra với một người nào khác.
Như thế, đây không phải là việc Thiên Chúa tỏ cho tôi thấy lòng thương xót đối với tội này hay tội nọ, như thể tôi là người tự túc, hoặc là việc chúng ta thực hiện một số hành vi thương xót đối với người này hoặc người nọ có nhu cầu. Ân sủng chúng ta tìm kiếm trong lời cầu nguyện này là để cho mình được Thiên Chúa tỏ lòng thương xót trong mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta và đến lượt ta, ta tỏ lòng thương xót với nhiều người khác trong mọi việc chúng ta làm. Là linh mục và giám mục, chúng ta làm các bí tích, rửa tội, giải tội, cử hành Thánh Lễ ... Lòng thương xót là cách chúng ta biến toàn bộ cuộc sống của dân Chúa thành một bí tích. Có lòng thương xót không những là "một lối sống", mà là "lối sống" duy nhất. Không có cách nào khác để làm một linh mục. Cha Brochero, sẽ được phong thánh nay mai, đã nói điều này: "linh mục nào ít có lòng thương xót đối với các tội nhân thì chỉ là linh mục một nửa. Những lễ phục tôi mặc không làm tôi thành một linh mục; nếu tôi không có lòng bác ái trong tâm hồn, tôi không là ngay cả một Kitô hữu".
Nhìn thấy nhu cầu và cứu trợ ngay lập tức, và còn hơn thế nữa, dự đoán các nhu cầu đó: đấy chính là dấu chỉ cái nhìn của một người cha. Ánh mắt linh mục này – một ánh mắt chiếm vị trí của người cha giữa lòng Mẹ Giáo Hội - làm chúng ta nhìn người ta bằng con mắt của lòng thương xót. Nó cần được học ngay từ trong chủng viện, và nó phải làm giàu cho tất cả các kế hoạch và dự án mục vụ của chúng ta. Chúng ta mong muốn, và chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta, một cái nhìn có khả năng biện phân được các dấu chỉ thời đại, biết "những việc thương xót nào dân chúng của ta ngày hôm nay cần đến" ngõ hầu cảm nhận được và thưởng thức được vị Thiên Chúa của lịch sử, Đấng đang đồng hành với họ. Vì, như Văn Kiện Aparecida đã nói, qua câu trích dẫn Thánh Alberto Hurtado: "Trong các việc làm của chúng ta, người dân chúng ta biết rằng chúng ta hiểu được nỗi khổ của họ" (số 386). Trong các việc làm của chúng ta ...
Bằng chứng mà chúng ta hiểu là các việc thương xót của ta được Chúa chúc lành và gặp được sự giúp đỡ và hợp tác của người dân chúng ta. Một số kế hoạch và dự án không diễn tiến tốt, mà không ai hiểu lý do tại sao bao giờ. Họ nặn óc, cố gắng moi ra một kế hoạch mục vụ, khi một ai đó chỉ biết nói: "Nó không tiến hành được đâu vì thiếu lòng thương xót", không cần cố gắng thêm làm gì. Nếu nó không được chúc phúc, thì là vì nó thiếu lòng thương xót. Thiếu lòng thương xót vẫn thấy nơi một bệnh viện dã chiến, chứ không phải nơi một bệnh xá đắt tiền; thiếu lòng thương xót vốn trân quí lòng tốt và mở cửa cho cuộc cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, chứ không phải làm một ai đó phải quay gót trước những lời chỉ trích gay gắt ...
Tôi đề nghị một lời cầu nguyện dựa trên việc người phụ nữ được tha thứ tội lỗi (Ga 8: 3-11), để xin ơn thương xót nơi tòa giải tội, và một lời cầu nguyện khác dựa trên chiều kích xã hội của các việc thương xót.
Tôi luôn luôn bỡ ngỡ bởi đoạn văn nói về cuộc gặp gỡ của Chúa với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình, và, khi từ chối lên án nàng, Người "đã vi phạm" Lề Luật ra sao. Để trả lời câu họ hỏi dùng để thử thách Người - "có nên ném đá cô ta hay không?" - Người đã không ra luật, Người đã không áp dụng lề luật. Người giả bộ câm, và rồi quay sang một điều khác. Nhờ thế, Người đã khởi diễn một quá trình trong trái tim người phụ nữ đang cần được nghe những lời này: "tôi cũng không kết tội chị". Người vươn tay ra và giúp nàng đứng dậy, cho nàng nhìn thấy ánh mắt dịu dàng làm thay đổi trái tim nàng. Chúa đã cầm tay con gái ông Giairô và nói: “Hãy cho cháu ăn thứ gì đi”. Người cho người con trai bà góa Thành Naim sống lại và trao anh cho mẹ anh. Còn ở đây, Người nói với người đàn bà tội lỗi đứng lên. Người đặt ta đúng vào chỗ Thiên Chúa muốn chúng ta có mặt: đứng thẳng trên đôi chân, không bao giờ nằm dưới đất.
Đôi khi tôi cảm thấy một chút buồn và khó chịu khi người ta đi thẳng tới những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ này: "Hãy đi và đừng phạm tội nữa". Họ sử dụng những chữ này để "bênh vực" Chúa Giêsu khỏi tội bỏ qua luật pháp. Tôi tin những lời của Chúa Kitô liền mảnh làm một với hành động của Người. Người cúi xuống viết trên mặt đất như một khúc dạo đầu cho những gì Người muốn nói với những người muốn ném đá người phụ nữ, và Người làm như vậy một lần nữa trước khi nói với nàng. Điều này cho chúng ta biết một điều gì đó về "thời gian" Chúa sẽ dùng để phán xử và tha thứ.
Thời gian Người cho mỗi người để họ nhìn vào trái tim của mình và rồi bước đi. Khi nói với người phụ nữ, Chúa đã mở ra nhiều không gian khác: một là không gian không kết án. Tin Mừng nêu rõ không gian rộng mở này. Nó làm chúng ta nhìn sự việc qua đôi mắt của Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta: "Tôi không thấy ai khác, ngoài người phụ nữ này".
Rồi, Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ nhìn quanh. Người hỏi nàng: "những người lên án chị đâu cả rồi?" (chữ "lên án" tự nó rất quan trọng, vì nó nói tới điều ta thấy không thể chấp nhận được liên quan tới những người phán xét hay biếm họa chúng ta ...). Sau khi đã mở ra trước mắt nàng cái không gian không có sự phán xét người khác này, Người nói với nàng rằng Người cũng sẽ không ném một hòn đá nào ở đó: "Tôi cũng không lên án chị". Rồi Người mở ra một không gian tự do nữa trước mắt nàng: "Hãy đi và đừng phạm tội nữa". Mệnh lệnh của Người có liên quan với tương lai, để giúp nàng thực hiện một khởi đầu mới và "bước đi trong tình yêu". Sự nhạy cảm của lòng thương xót là đây: nó cảm thương ngoái nhìn dĩ vãng và đưa ra lời khích lệ tương lai.
Những lời "Hãy đi và đừng phạm tội nữa" không dễ dàng. Chúa nói chúng ra "với nàng". Người giúp nàng đặt thành lời những gì chính bản thân nàng đã cảm nhận, một chữ "không" đầy tự do đối với tội lỗi giống chữ "vâng" của Đức Maria đối với ân sủng. Chữ "không" này cần được nói cho thứ tội lỗi bắt rễ sâu vốn hiện diện trong tất cả mọi người. Nơi người đàn bà này, nó là một tội xã hội; người ta đến gần nàng, hoặc để ngủ với nàng hoặc để ném đá nàng. Đó là lý do tại sao Chúa không những khai quang đường đi trước mặt nàng, Người còn đặt nàng lên con đường này, để nàng có thể chặn đứng việc trở thành "đối tượng" cho người khác nhìn và thay vào đó nhận lấy quyền kiểm soát cuộc sống của mình. Những lời "đừng phạm tội nữa" không những ám chỉ luân lý tính, nhưng, tôi tin, còn ám chỉ thứ tội vốn cản ngăn nàng sống cuộc sống của nàng. Chúa Giêsu cũng nói với người bại liệt ở Bethzatha đừng phạm tội nữa (Ga 5:14). Nhưng người đàn ông đó đã tự biện minh bằng tất cả những điều đáng buồn đã "xảy ra với anh"; anh ta bị chứng mặc cảm nạn nhân. Do đó, Chúa Giêsu đã thách thức anh ta cách khá nhẹ nhàng chưa từng có bằng cách nói: "... kẻo một điều gì đó tệ hơn có thể xảy đến với ngươi". Chúa đã tận dụng lối suy nghĩ của anh ta, nỗi sợ của anh ta, để kéo anh ta ra khỏi cảnh tê liệt của mình. Tôi dám nói, Người đã đem tới cho anh ta một chút e sợ. Trọng điểm là mỗi người chúng ta phải nghe những lời "đừng phạm tội nữa" theo phương thức sâu sắc của chính bản thân mình.
Hình ảnh về Chúa, Đấng đặt người ta lên đường đi của họ, là hình ảnh hết sức đặc trưng. Người là Đấng Thiên Chúa bước đi bên cạnh dân của Người, Đấng dẫn họ về phía trước, Người đồng hành với lịch sử của chúng ta. Do đó, đối tượng của lòng thương xót của Người khá rõ ràng: nó là tất cả mọi điều giữ cho một người đàn ông hoặc một người đàn bà tiếp tục bước trên nẻo đường chính, cùng với dân của họ, theo tốc độ của riêng họ, tới nơi Thiên Chúa yêu cầu họ tới. Điều làm Người lo phiền là người ta đi lạc, hoặc rơi lại phía sau, hoặc cố gắng theo lối riêng của họ. Là kết cục sẽ không đi tới đâu. Là họ không ở đó chờ Chúa, sẵn sàng đi tới bất cứ nơi nào Người muốn sai họ tới. Là họ không đi một cách khiêm nhường trước mặt Người (xem Mk 6: 8), là họ không bước đi trong tình yêu (xem Ep 5: 2).
Không gian của tòa giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do
Bây giờ, ta hãy tới tòa giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trình bày tòa giải tội như là nơi sự thật làm chúng ta được tự do để gặp gỡ. "Khi cử hành bí tích giải tội, linh mục hoàn thành thừa tác vụ của Đấng Chăn Chiên Lành trên đường tìm con chiên lạc, của người Samaria Nhân Hậu đang băng bó các vết thương, của Người Cha đang chờ đợi đứa con trai hoang đàng và chào đón anh trên đường trở về, và của Thẩm Phán công minh và vô tư phán xử vừa công chính vừa thương xót. Linh mục là dấu chỉ và khí cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân "(số 1465). Sách Giáo Lý cũng nhắc nhở chúng ta rằng "cha giải tội không phải làm chủ sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng làm tôi tớ của nó. Thừa tác viên của bí tích này nên kết hợp với ý định và đức ái của Chúa Kitô "(số 1466).
Các dấu chỉ và công cụ của gặp gỡ. Đó là những gì chúng ta là. Một lời mời hấp dẫn để gặp gỡ. Là các dấu chỉ, chúng ta phải có thái độ chào đón, đưa ra một thông điệp có thể thu hút sự chú ý của người ta. Các dấu chỉ này cần phải nhất quán và rõ ràng, nhưng trên hết phải dễ hiểu. Một số dấu hiệu chỉ rõ ràng dễ hiểu đối với các chuyên gia, không ích lợi bao nhiêu. Dấu chỉ và các công cụ. Công cụ phải hữu hiệu, có sẵn đó, chính xác và phù hợp với công việc. Chúng hoặc hữu dụng hoặc không hữu dụng. Chúng ta là những công cụ nếu mọi người có được cuộc gặp gỡ chân chính với Thiên Chúa của lòng thương xót. Nhiệm vụ của chúng ta là "làm cho cuộc gặp gỡ này khả hữu", mặt đối mặt. Những gì người ta làm sau đó là việc của họ. Có đứa con trai hoang đàng giữa bầy heo và người cha mỗi chiều ra ngoài để xem xem liệu anh ta có trở về nhà hay không. Có con chiên lạc và một mục tử ra đi để tìm kiếm nó. Có người bị thương bị bỏ lại bên đường và người Samaria nhân hậu. Thừa tác vụ của chúng ta là gì? Là làm dấu chỉ và dụng cụ giúp cuộc gặp gỡ này thành khả hữu. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta không phải là người cha, người chăn chiên hoặc Samaria. Đúng hơn, bao lâu còn là các tội nhân, chúng ta vẫn chỉ đang ở phía bên kia của ba vị này. Thừa tác vụ của chúng ta phải là dấu chỉ và khí cụ của cuộc gặp gỡ này. Chúng ta là thành phần của mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, Đấng tạo ra Giáo Hội, xây dựng sự hiệp nhất, và không ngừng mời ta vào cuộc gặp gỡ.
Một đặc điểm khác của dấu chỉ và khí cụ là nó không qui chiếu về chính mình. Nói đơn giản hơn, nó không phải là một cùng đích trong chính nó. Không ai dính kết với một dấu hiệu, khi đã hiểu rõ thực tại của nó. Không ai tiếp tục nhìn vào cái tuốc nơ vít hay cái búa, nhưng nhìn vào bức tranh treo ngay ngắn. Chúng ta là những đầy tớ vô dụng. Là dụng cụ và dấu hiệu giúp hai con người kết hợp với nhau trong một cái ôm, giống như người cha và đứa con trai của ông.
Đặc điểm thứ ba của dấu chỉ và khí cụ là sự sẵn sàng có đó. Dụng cụ cần phải sẵn sàng có đó để được sử dụng; dấu hiệu phải được nhìn thấy. Làm một dấu chỉ và khí cụ là làm một người trung gian, là sẵn có đó. Có lẽ đây là chìa khóa thực sự dẫn vào sứ vụ của chúng ta trong cuộc gặp gỡ đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và con người. Thậm chí, chúng ta còn có thể diễn tả nó bằng những từ ngữ tiêu cực. Thánh Inhaxiô nói tới việc "không vào được đường". Người trung gian tốt làm cho mọi thứ ra dễ dàng, chứ không thiết lập ra chướng ngại vật. Ở nước tôi, có một cha giải tội nổi tiếng, Cha Cullen. Ngài thường ngồi ở tòa giải tội và, khi không có ai tới, ngài thường làm một trong hai việc: sửa những trái banh túc cầu đã mòn cho những đứa trẻ địa phương, hoặc dùng ngón tay cái lật một cuốn từ điển lớn bằng tiếng Trung Quốc. Ngài đã ở Trung Quốc nhiều năm và muốn duy trì ngôn ngữ của họ. Ngài thường nói rằng khi người ta thấy ngài làm những việc hoàn toàn vô dụng như sửa trái banh cũ hoặc cố gắng thông thạo tiếng Trung Quốc như thế, họ thường nghĩ: "Tôi phải tới và nói chuyện với vị linh mục này mới được, vì ngài rõ ràng không có mấy việc để làm!" Ngài sẵn sàng có đó cho những gì thiết yếu. Ngài đã dành nhiều giờ thường xuyên để nghe người ta xưng tội, nhưng ngài luôn ở đó. Ngài đã phá bỏ các trở ngại luôn coi mình có vẻ bận rộn và nghiêm trọng. Vấn đề là ở chỗ này: người ta không đến với các linh mục khi họ thấy các ngài luôn bận bịu và chạy đôn chạy đáo.
Mọi người đều đã biết các cha giải tội tốt lành. Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội tốt lành của chúng ta, những vị được mọi người tìm kiếm, những vị không làm cho họ sợ mà còn giúp họ nói chuyện thành thực, như Chúa Giêsu đã làm với Nicôđêmô. Điều quan trọng là hiểu ngôn ngữ thân xác, đừng hỏi những điều đã hiển nhiên qua ngôn ngữ thân xác. Nếu có người nào đến xưng tội thì họ chính là hối nhân; sự ăn năn đã hiển hiện. Họ đến xưng tội vì họ muốn thay đổi. Hoặc ít nhất họ muốn được muốn thay đổi, nếu họ nghĩ rằng tình huống của họ không thể thay đổi. Ad impossibilia nemo tenetur, như câu châm ngôn cũ vốn nói: không ai bị buộc phải làm những điều không thể làm được.
Ngôn ngữ thân xác. Tôi có đọc trong tiểu sử của một trong các vị thánh gần đây của chúng ta: vị thánh tội nghiệp này chịu nhiều đau khổ thời chiến tranh. Ngài phải giải tội cho một người lính sắp sửa đối diện với đội xử bắn. Người đàn ông này rõ ràng là một thứ hay tán gái, nên vị thánh của chúng ta hỏi anh ta: “anh có hối hận về việc này không?”. Người đàn ông trả lời: “Thưa cha, không! Nó tuyệt lắm!” Vị thánh của chúng ta không biết phải làm gì. Đội xử bắn đang chờ để xử tử anh ta, nên anh ta nói: “ít nhất, cha cũng hãy cho con biết cha có hối hận vì đã không hối hận hay không?”… “Chắc chăn có!”… “Vậy thì tốt!” Vị giải tội luôn tìm cách hành động và ăn nói đúng thời đúng lúc để chiếm được tâm điểm sự vật.
Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội tốt, những cha dịu dàng với người tội lỗi, những cha sau một vài lời, đã hiểu mọi sự, như Chúa Giêsu đã hiểu với người phụ nữ bị xuất huyết, và ngay lập tức, sức mạnh tha thứ đã từ các ngài tuôn ra. Tôi luôn được xây dựng bởi một vị hồng y trong giáo triều, người tôi nghĩ khá nghiêm ngặt. Nhưng khi ngài gặp một hối nhân tỏ ra bối rối rõ ràng về việc xưng thú tội lỗi, chỉ sau một vài lời, ngài sẽ ngắt ngang để nói với họ rằng ngài đã hiểu và để họ tiếp tục. Ngài ngắt ngang vì ngài đã hiểu. Đó là tài ứng biến. Nhưng có những vị giải tội khác, xin lỗi, cứ thế mà dò với xét. “Nói cho cha điều này, nói cho cha điều nọ”. Anh em có thực sự cần mọi chi tiết ấy để giải tội không hay anh em muốn “làm phim”? Vị hồng y kia xây dựng tôi rất nhiều.
Sự toàn vẹn của phép xưng tội không phải là một vấn đề toán học. Bao nhiêu lần? Cách nào? Khi nào? Đôi khi người ta cảm thấy ít xấu hổ khi xưng thú một tội hơn là phải nêu rõ số lần họ vi phạm tội đó. Chúng ta phải để mình được đánh động bởi tình huống của người ta, một tình huống có khi hỗn tạp, gồm cả việc làm riêng của họ, lẫn sự yếu đuối của con người, tội lỗi và những giới hạn không thể nào vượt qua được. Chúng ta phải giống như Chúa Giêsu, Đấng đã xúc động sâu xa khi thấy người ta và các vấn đề của họ, và cứ liên tục chữa bệnh cho họ, cả khi họ "không yêu cầu thích đáng", như người phung cùi kia, hoặc xem ra đang nói loanh quanh, như người phụ nữ Samaria. Người phụ nữ này giống như con chim chúng tôi có ở Nam Mỹ: nó quác quác ở một nơi nhưng tổ của nó thì ở nơi khác. Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn.
Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội biết giúp các hối nhân cảm nhận được việc sửa đổi bằng cách bước những bước tiến nhỏ, như Chúa Giêsu, Đấng đã đưa ra một việc đền tội thích đáng và biết đánh giá cao người phung cùi trở lại cảm ơn Người, một người được Chúa ban nhiều hơn. Chúa Giêsu đã không tính toán với người bại liệt, nhưng Người đã làm cho người đàn ông mù và người phụ nữ Syro-Phoenician phải kêu xin. Đối với Người, không thành vấn đề nếu họ không lưu ý đến Người, giống như người bại liệt tại hồ bơi Bethzatha, hoặc nói với người khác những gì Người ra lệnh cho họ đừng nói, kết quả chính Người trở thành người phong cùi, vì Người không thể vào các thị trấn hay vì kẻ thù của Người tìm lý do để kết án Người. Người chữa lành người ta, tha thứ tội lỗi của họ, xoa dịu nỗi đau của họ, cho họ nghỉ ngơi và làm họ cảm nhận được hơi thở an ủi của Thần Khí.
Có lẽ một số anh em đã nhe điều tôi sắp kể. Ở Buenos Aires, tôi biết một tu sĩ dòng Capuchin. Hiện ngài còn sống. Ngài nhỏ tuổi hơn tôi và là một cha giải tội vĩ đại. Luôn luôn có một hàng nối đuôi dài trước tòa giải tội của ngài, nhiều người xưng tội – đủ loại người, giầu và nghèo, linh mục và nữ tu– suốt ngày. Ngài thực sự tốt lành trong việc tha thứ. Ngài luôn tìm cách để tha thứ và đem người ta tiến theo. Quả là một hồng phúc thực sự của Thần Khí. Nhưng thỉnh thoảng có khi sinh ra bối rối về việc tha thứ dễ dàng như thế. Có lần, trong khi trò chuyện, ngài nói với tôi: "Đôi khi con bối rối quá". Do đó, tôi hỏi ngài: "cha làm gì khi cha bối rối như thế?" Ngài trả lời: "con đến trước nhà tạm, con nhìn Chúa chúng ta và con thưa với Người ‘Lạy Chúa, xin tha tội cho con, hôm nay con đã tha thứ rất nhiều. Nhưng chúng ta hãy làm rõ việc này, tất cả đều là lỗi của Chúa, vì Chúa đã làm gương xấu cho con!’” Ngài đã thêm lòng thương xót vào lòng thương xót.
Cuối cùng, liên quan tới việc xưng tội, tôi có hai lời khuyên nhỏ. Thứ nhất, không bao giờ hành động giống như một viên chức hay một quan tòa, một người chỉ thấy các "trường hợp" phải xử lý. Lòng thương xót giải phóng chúng ta khỏi thứ linh mục này, thứ linh mục quen thuộc với việc phán xử các "trường hợp" đến nỗi hết nhạy cảm với những con người, với những khuôn mặt. Khi tôi học năm thần học thứ hai, tôi quen cùng các bạn cùng lớp tới nghe các cuộc khảo hạch công khai các sinh viên thần học năm thứ ba, những người sắp sửa chịu chức thánh. Chúng tôi đi để học hỏi và luôn học được một điều gì đó. Có lần, tôi còn nhớ, một sinh viên được hỏi về đức công bình, nhưng câu hỏi quá khó hiểu và không hiện thực đến nỗi sinh viên này trả lời một cách rất khiêm tốn rằng: “Nhưng thưa cha, điều này không bao giờ xẩy ra ở đời thực!”. Sinh viên này được trả lời: “Nhưng nó có trong sách vở!”. Đúng là luân lý sách vở, chẳng liên quan gì tới kinh nghiệm.
Quy tắc của Chúa Giêsu là "đừng phán xét để khỏi bị phán xét". Đây là chìa khóa để chúng ta phán xử: chúng ta phải đối xử với những người khác một cách xứng đáng, chúng ta không được hạ giá hoặc ngược đãi họ, chúng ta giúp nâng họ dậy, và chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa sử dụng chúng ta, dù chúng ta yếu đuối, làm khí cụ của Người. Không nhất thiết vì phán xử của chúng ta "tốt nhất", nhưng vì nó chân thành và có thể xây dựng được một mối quan hệ tốt.
Mẩu lời khuyên nữa của tôi là không nên tò mò ở trong tòa giải tội. Thánh Therese cho chúng ta biết: khi các đệ tử của bà tâm sự với bà, bà rất cẩn thận không hỏi sự việc kết quả ra sao. Bà không xoi mói linh hồn người ta (Xem Truyện Một Linh Hồn, thủ bản C, gửi Mẹ Gonzaga, c. XII, 32r.). Đặc điểm của lòng thương xót là che tội lỗi bằng chiếc áo choàng của nó, để không làm tổn thương phẩm giá của người ta. Giống như hai con trai của Nôê, đã dùng chiếc áo choàng che sự trần truồng của cha mình khi ông say rượu (xem St 9:23).
Chiều kích xã hội của các việc thương xót
Giờ đây, ta hãy nói đôi điều về chiều kích xã hội của các việc thương xót.
Vào cuối cuốn Linh Thao, Thánh Inhaxiô viết bài "chiêm niệm để đạt được tình yêu", một bài nối kết điều cảm nghiệm được trong lời cầu nguyện với cuộc sống hàng ngày. Ngài làm chúng ta suy niệm về việc phải đặt tình yêu vào việc làm nhiều hơn vào lời nói. Những việc làm này là các việc thương xót mà Chúa Cha "đã chuẩn bị từ trước làm cách sống của chúng ta" (Ep 2:10), những việc mà Chúa Thánh Thần linh hứng nơi mỗi người vì lợi ích chung (xem 1Cr12: 7). Trong lúc cảm tạ Chúa vì tất cả những hồng phúc chúng ta nhận được từ lòng rộng rãi của Người, chúng ta xin ơn biết mang đến cho tất cả nhân loại lòng thương xót vốn đã cứu rỗi chúng ta.
Về chiều kích xã hội này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về một trong những đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng. Ở đấy, chính Chúa nối kết giữa điều chúng ta nhận được và điều chúng ta được kêu gọi cho đi. Chúng ta có thể đọc những kết luận này với chìa khóa "các việc thương xót", những việc từng cụ thể hóa thời của Giáo Hội, thời trong đó Chúa Giêsu phục sinh sống, hướng dẫn, sai đi và kêu gọi sự tự do của chúng ta, một sự tự do tim thấy nơi Người sự thể hiện cụ thể hàng ngày.
Thánh Mátthêu nói với chúng ta rằng Chúa gửi các Tông Đồ của Người ra đi để làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ bằng cách "dạy họ giữ hết mọi điều Thầy đã truyền dạy" (28:20). Việc "mở dạy kẻ mê muội" này chính là một trong các việc thương xót. Nó tỏa lan như ánh sáng đối với các việc khác: những việc được liệt kê trong Tin Mừng Mátthêu chương 25, tức các việc liên quan nhiều hơn với những điều gọi là "các việc thương người về phần xác", và với mọi điều răn và lời khuyên Phúc Âm, như "tha thứ", "anh em sửa chữa cho nhau" , an ủi người buồn sầu, và chịu đựng sự bách hại...
Tin Mừng Maccô kết thúc với hình ảnh về Chúa, Đấng "hợp tác" với các Tông Đồ và "xác nhận lời nói bằng những dấu lạ kèm theo". Những "dấu chỉ" này rất giống với các việc thương xót. Trong số nhiều điều khác, Thánh Maccô nói đến việc chữa lành người bệnh và xua đuổi ma quỉ (xem 16: 17-18).
Thánh Luca tiếp tục Tin Mừng của ngài bằng cuốn "Công Vụ" - tức các thực hành - của Các Tông Đồ, thuật lại lịch sử các ngài hành động ra sao và các việc các ngài làm, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
Tin Mừng Thánh Gioan kết thúc bằng cách đề cập đến "nhiều việc khác" (21:25) hay "các dấu lạ" (20:30) mà Chúa Giêsu đã làm. Các hành động của Chúa, các việc Người làm, không phải chỉ là những việc làm mà đều là những dấu lạ qua đó, bằng một cách hoàn toàn có tính bản thân, Người tỏ bầy tình yêu và lòng thương xót của Người cho mỗi người.
Chúng ta có thể chiêm ngắm Chúa, Đấng sai chúng ta đi thi hành sứ vụ này, bằng cách dùng bức ảnh Chúa Giêsu hay thương xót như đã được tiết lộ với Nữ Tu Faustina. Trong bức ảnh này, chúng ta có thể nhìn thấy lòng thương xót như một tia sáng duy nhất phát xuất từ thẳm sâu Thiên Chúa, băng qua trái tim Chúa Kitô, và xuất hiện thành nhiều màu sắc đa dạng, mỗi mầu đại diện cho một việc thương xót.
Các việc thương xót thì vô tận, nhưng mỗi việc mang dấu ấn của một khuôn mặt đặc thù, một lịch sử bản thân. Chúng không phải chỉ là những bản danh sách liệt kê bảy việc phần xác và bảy việc phần hồn của lòng thương xót. Các danh sách này giống như các nguyên vật liệu - vật liệu của chính cuộc sống – sau khi được nhào nặn bởi bàn tay thương xót, biến thành một sáng tạo nghệ thuật cá nhân. Mỗi việc sẽ được hóa nhiều giống như bánh mì trong các giỏ; mỗi việc đem lại sự phát triển phong phú như hạt cải. Vì lòng thương xót vốn sinh hoa trái và có tính bao gồm.
Chúng ta thường nghĩ đến những việc thương xót một cách cá thể và trong tương quan với một sáng kiến chuyên biệt: bệnh viện cho người nghèo, nhà bếp nấu cháo cho người đói ăn, nơi tạm trú cho người vô gia cư, trường học cho những người cần được giáo dục, hướng dẫn xưng tội và linh đạo cho những người cần huấn đạo và tha thứ ... Nhưng nếu nhìn vào các việc thương xót như một toàn thể, chúng ta sẽ thấy rằng đối tượng của thương xót là chính sự sống của con người và tất cả mọi thứ nó bao trùm. Chính sự sống, vì là một "xác thịt", nên biết đói biết khát; nó cần phải được mặc quần áo, cung cấp chỗ ở và được viếng thăm, ấy là chưa nói tới việc được chôn cất tươm tất, một điều không một ai trong chúng ta, dù giầu có bao nhiêu, có thể tự làm cho chính mình. Ngay cả những người giàu có nhất, trong cái chết, cũng trở thành kẻ khốn cùng; không hề có xe dọn đồ trong đoàn xe tang. Chính sự sống, vì là một "tinh thần", nên cần được giáo dục, sửa trị, khuyến khích và an ủi. Chữ cuối cùng vừa rồi rất quan trọng trong Thánh Kinh; anh em hãy nghĩ tới Sách An Ủi Israel trong Isaia. Chúng ta cần người khác để huấn đạo chúng ta, tha thứ cho chúng ta, chịu đựng chúng ta và cầu nguyện cho chúng ta. Gia đình là nơi những việc thương xót này được thực hành một cách bình thường và khiêm tốn đến nỗi chúng ta thậm chí không nhận ra. Ấy thế nhưng, một khi một gia đình có trẻ nhỏ mất đi người mẹ, mọi sự bắt đầu tan rã. Hình thức nghèo nàn độc ác nhất và tàn nhẫn nhất là hình thức các trẻ em đường phố, không cha mẹ và làm mồi cho đủ thứ kền kền.
Chúng ta đã xin được ơn trở nên dấu chỉ và dụng cụ. Bây giờ chúng ta phải "hành động", không chỉ bằng những cử chỉ, nhưng còn bằng các dự án và cơ cấu, bằng cách tạo ra một nền văn hóa thương xót. Nền văn hóa này không y hệt như nền văn hóa từ thiện; ta cần phân biệt hai loại văn hóa này. Một khi đã bắt đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được ngay lập tức rằng Thần Khí lên sinh lực và nâng đỡ các việc này. Thần Khí làm việc này bằng cách sử dụng các dấu chỉ và dụng cụ Người muốn, ngay cả đôi khi các dấu chỉ và dụng cụ này xem ra không phải là những dấu chỉ và dụng cụ thích đáng nhất. Thậm chí, người ta còn có thể nói được rằng, để thực hiện các việc thương xót, Thần Khí có xu hướng lựa chọn những dụng cụ nghèo nàn nhất, khiêm tốn nhất và vô nghĩa nhất, những dụng cụ chính chúng cũng cần các tia thương xót đầu tiên của Thiên Chúa hơn cả. Chúng là những dụng cụ có thể được lên khuôn và chuẩn bị tốt nhất để phục vụ hữu hiệu và tốt đẹp nhất. Niềm vui khi nhận ra rằng chúng ta là "đầy tớ vô dụng" được Chúa chúc phúc với tính sinh hoa trái của của ân sủng Người, được Người cho ngồi tại bàn ăn của Người và dọn Thánh Thể cho chúng ta, là một xác nhận rằng chúng ta đang tham gia vào các việc thương xót của Người.
Các tín hữu của chúng ta rất vui được tụ tập quanh các việc thương xót. Chỉ cần tới dự triều kiến chung vào các hôm Thứ Tư, anh em sẽ thấy rất nhiều nhóm và hiệp hội dấn thân vào các việc thương xót. Trong các cuộc cử hành sám hối và lễ hội, và trong các hoạt động giáo dục và từ thiện, tín hữu của chúng ta tự nguyện đến với nhau và để được chăn dắt theo những cách không luôn được nhìn nhận hoặc đánh giá cao, trong khi rất nhiều kế hoạch mục vụ trừu tượng và có tính học thuật hơn của chúng ta không tiến hành được. Sự hiện diện lớn lao của tín hữu chúng ta trong các đền thánh và các cuộc hành hương là một sự hiện diện ẩn danh, nhưng chỉ ẩn danh vì nó bao gồm rất nhiều khuôn mặt và trong một mong muốn đơn giản chỉ để được Chúa Giêsu và Đức Mẹ nhìn một cách thương xót. Cũng có thể nói tương tự như thế về rất nhiều những cách, trong đó tín hữu giáo dân ta tham gia vào rất nhiều sáng kiến liên đới; điều này cũng cần được chúng ta nhìn nhận, đánh giá cao và cổ vũ. Tôi rất thích thú ngạc nhiên khi khám phá ra rằng ở Ý các tổ chức loại này rất mạnh và mời gọi được rất nhiều người.
Là linh mục, chúng ta xin hai ân sủng của Đấng Chăn Chiên Lành, là để ta được hướng dẫn bởi cảm thức đức tin (fidei sensus) của tín hữu giáo dân chúng ta, và được hướng dẫn bởi "cảm thức người nghèo" của họ. Cả hai "cảm thức" này phải liên hệ với cảm thức Chúa Kitô (sensus Christi) mà Thánh Phaolô từng nói tới, với tình yêu Chúa Kitô và đức tin vào Người của các tín hữu giáo dân chúng ta.
Chúng ta hãy kết luận bằng cách đọc kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô (Anima Christi), lời cầu nguyện đẹp đẽ này vốn nài xin lòng thương xót của Chúa, Đấng đã đến giữa chúng ta bằng xác thịt và nhân từ nuôi dưỡng chúng ta bằng mình và máu của Người. Chúng ta xin Người tỏ lòng thương xót đối với chúng ta và đối với dân của Người. Chúng ta xin linh hồn của Người "thánh hóa chúng con", thịt Người "cứu vớt chúng con", máu của Người làm "say sưa chúng con" và loại khỏi ta mọi cơn khát khác không phải là khát Người. Chúng ta xin nước chảy ra từ cạnh sườn Người "rửa sạch chúng con", sự thống khổ của Người "củng cố chúng con". Lạy Chúa chịu đóng đinh, xin Chúa an ủi dân của Chúa! Xin các vết thương của Chúa "che chở chúng con" ... Lạy Chúa, xin ban ơn cho dân Chúa, để họ không bao giờ bị lìa xa Chúa. Xin đừng để điều nào và người nào có thể tách chúng con ra khỏi lòng thương xót của Chúa, một lòng thương xót bảo vệ chúng khỏi các cạm bẫy của kẻ thù độc ác. Nhờ đó, lạy Chúa, chúng con sẽ hát ca những sự thương xót của Chúa, cùng với mọi vị thánh của Chúa khi Chúa mời gọi chúng con đến với Chúa.
[Đọc Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô]
Thỉnh thoảng tôi nghe nhận định của các linh mục nói rằng: "Đức Giáo Hoàng này luôn la rầy chúng ta, luôn luôn la mắng chúng ta". Quả có đôi chút thật. Nhưng tôi phải nói rằng tôi đã được xây dựng bởi một số linh mục tốt lành! Bởi những vị - và tôi đã biết họ - thời trước khi có máy trả lời, ngủ với máy điện thoại trên chiếc bàn ban đêm của các ngài. Không ai chết mà không được chịu bí tích; khi điện thoại reo vào bất cứ giờ nào, các ngài cũng đều đứng dậy và ra đi. Các linh mục tốt lành! Và tôi cảm ơn Chúa vì ơn phúc này. Tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, nhưng chúng ta có thể nói rằng có rất nhiều linh mục tốt lành và thánh thiện, những vị hoạt động âm thầm và không ai thấy. Đôi khi có vụ tai tiếng xẩy ra, nhưng, như chúng ta đã biết, một cây khi nó đổ gây nhiều ồn ào hơn cả một cánh rừng đang mọc.
Hôm qua tôi nhận được một lá thư. Tôi để nó trên bàn của tôi với các thư từ cá nhân. Tôi mở nó hôm nay, ngay trước khi đến đây và tôi tin rằng Chúa muốn tôi làm việc này. Nó đến từ một linh mục ở Ý, một mục tử của ba thị trấn nhỏ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên lắng nghe chứng từ này từ một trong những người anh em của chúng ta.
Nó được viết vào ngày 29 tháng 5, chỉ vài ngày trước đây thôi.
"Xin lỗi con đã làm phiền Đức Thánh Cha. Con lợi dụng một người bạn linh mục đang tới Rome để dự Năm Thánh của các linh mục để đơn giản gửi tới Đức Thanh Cha, trong tư cách một linh mục bình thường phụ trách ba giáo xứ nhỏ miền núi, một vài suy nghĩ về việc mục vụ của riêng con. Chúng được gợi ra bởi một số điều Đức Thánh Cha đã nói, vốn thách thức con hàng ngày phải hồi tâm, và vì điều này con xin cảm ơn Đức Thánh Cha. Con biết con không nói với Đức Thánh Cha bất cứ điều gì mới; chắc chắn đây là những điều Đức Thánh Cha đã nghe trước cả rồi. Nhưng con cảm thấy tự con phải nói ra.
Con thường bỡ ngỡ bởi lời kêu gọi của Đức Thánh Cha muốn các chủ chăn chúng con có mùi của chiên. Con đang ở trên vùng núi, vì vậy con biết rất rõ điều đó có nghĩa gì. Chúng con trở thành linh mục để biết mùi đó, mùi thực sự là nước hoa của đoàn chiên. Sẽ là điều tuyệt vời nếu việc tiếp xúc hàng ngày và các cuộc viếng thăm đoàn chiên của chúng ta, vốn là lý do đích thực cho ơn gọi của chúng ta, không bị thay thế bởi các trách nhiệm hành chính và bàn giấy tại các giáo xứ, trường học và vv. Con may mắn có được những giáo dân tốt và có khả năng đảm nhiệm những điều này. Nhưng là người đại diện hợp pháp duy nhất của giáo xứ, với tất cả mọi trách nhiệm của mình, vị mục tử luôn kết cục phải chạy đôn chạy đáo, đôi khi phải cho các cuộc viếng thăm người bệnh và các gia đình xuống dưới chót. Con nói điều này về bản thân con. Đôi khi, quả ngã lòng khi thấy trong đời sống linh mục của con, con đã bị liên lụy vào các vấn đề hành chính và bàn giấy, mà giáo dân của con, mà đoàn chiên nhỏ đã được ủy thác cho con chăm sóc, hầu như phải tự lo liệu lấy cho bản thân họ. Thưa Đức Thánh Cha, xin Đức Thánh Cha tin con khi con nói rằng việc ấy làm cho con đến phát khóc. Chúng con cố gắng tổ chức sự việc, nhưng cuối cùng, chỉ gặp những cơn lốc trong công việc hàng ngày.
Một điều khác Đức Thánh Cha đã nói đến là thiếu tình cha con. Người ta bảo xã hội ngày nay thiếu những người cha và người mẹ. Điều làm con ngỡ ngàng là cả chúng con cũng có thể đã từ bỏ tư cách làm cha tinh thần, tự để cho mình bị giản lược thành những ông bàn giấy thánh thiêng, với kết quả đáng buồn là chúng con cảm thấy bị bỏ rơi và cô độc. Như thế, khó khăn của chúng con trong việc làm cha có những vang dội không thể tránh khỏi đối với các bề trên của chúng con, những vị có các trách nhiệm và những vấn đề riêng của các ngài. Mối liên hệ của các ngài với chúng con cũng có thể có nguy cơ trở thành hoàn toàn có tính hình thức trang trọng, liên quan đến việc quản trị cộng đồng, chứ không liên quan gì đến cuộc sống của chúng con như những con người, những tín hữu và những linh mục.
Tất cả điều này - và ở đây con xin kết luận – không lấy mất điều gì khỏi niềm vui và sự phấn khích của con được làm một linh mục cho mọi người và với mọi người. Nếu có những lúc, trong tư cách một mục tử, con không có mùi chiên, con vẫn cảm động khi nhận ra rằng đoàn chiên của con không mất mùi của vị mục tử của mình! Thưa Đức Thánh Cha, quả là một điều tuyệt vời khi nhận ra rằng đoàn chiên không bỏ chúng con cô độc. Họ có thể đo lường mức độ chúng con có đó cho họ, và nếu không may vị mục tử lạc xa đường và mất hướng đi, họ sẽ đi tìm ngài và lấy tay nắm lấy ngài. Con luôn cảm ơn Chúa vì Người luôn cứu chúng con qua bầy chiên, bầy chiên được trao phó cho chúng con, tất cả những con người tốt lành, tầm thường, khiêm tốn và thanh thản, đoàn chiên là phước lành thật sự của mọi người chăn chiên.
Con muốn gửi cho Đức Thánh Cha những suy nghĩ đơn giản nhỏ mọn này vì Đức Thánh Cha gần gũi với đoàn chiên. Đức Thánh Cha có thể hiểu chúng con và có thể tiếp tục giúp đỡ và nâng đỡ chúng con. Con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và con cảm ơn Đức Thánh Cha, về việc thỉnh thoảng "trách mắng" mà con cảm thấy cần thiết cho cuộc hành trình của con. Thưa Đức Giáo Hoàng Phanxicô, xin Đức Giáo Hoàng chúc lành cho con và cầu nguyện cho con và cho giáo xứ của con. "
Ngài đã ký bức thư rồi, cuối cùng, viết thêm, như mọi mục tử tốt lành: "con để lại cho Đức Thánh Cha một tặng phẩm nhỏ. Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho cộng đồng của con, đặc biệt cho các người bệnh nặng và một vài gia đình có khó khăn tài chính, và không chỉ khó khăn tài chánh. Cảm ơn Đức Thánh Cha!"
Đây là một trong những người anh em của chúng ta. Có rất nhiều người khác như vị này! Hiển nhiên nhiều vị đang ở đây giữa chúng ta. Nhiều lắm. Ngài chỉ đường cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy tiến lên phía trước! Đừng quên cầu nguyện. Hãy cầu nguyện bao nhiêu có thể, và nếu anh em ngủ gục trước nhà tạm, thì cứ ngủ đi. Nhưng hãy cầu nguyện! Đừng bao giờ để mất việc này. Đừng bao giờ quên để mình được Đức Mẹ ngắm nhìn, và luôn giữ lấy ngài làm Mẹ của anh em. Đừng bao giờ mất lòng nhiệt thành của anh em, cả sự gần gũi và sẵn sàng có đó cho giáo dân của anh em. Và điều này nữa, tôi xin phép nói: Đừng bao giờ mất cảm thức hài hước ... Vì vậy, hãy tiến lên phía trước!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét