Lê Diễn Đức
Giáo Hoàng John Paul II, người Ba Lan vĩ đại nhất
Hôm nay, ngày 02 tháng Tư, cả nước Ba Lan kỷ niệm 5 năm ngày
mất của Đức Giáo Hoàng John Paul II.
Đức Giáo Hoàng John Paul II là người đã thay đổi diện mạo
đất nước Ba Lan, có công lao to lớn trong việc bảo vệ hòa bình, đoàn kết các
dân tộc và tôn giáo.
Ngày 16/10/1978 Giáo Hội Vatcan đã chọn Tổng Giám mục địa
phận Krakow của Ba Lan, Karol Jozef Wojtyla (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại
Wadowice) làm Giáo hoàng, người kế nhiệm thứ 264 của Thánh Peter. Đây là người
đứng đầu Giáo hội đầu tiên sau 455 năm không phải người Italia mà là thuộc sắc
tộc Slaver, xuất thân từ một nước xã hội chủ nghĩa chịu ảnh hưởng đáng kể các
sự kiện ở Đông Âu và châu Á trong những năm 80 của Thế kỷ XX.
Giáo hoàng John Paul II là một người toàn năng. Ngài nói lưu
loát 14 ngoại ngữ, là nhà thơ, nhà ngôn ngữ học, diễn viên, nhà soạn kịch, nhà
giáo dục, nhà triết học lịch sử, hiện tượng học, thần bí học và đại diện của
thuyết Cơ Đốc Nhân Vị.
Một trong những đặc trưng của Giáo hoàng John Paul II là
thực hiện sứ mệnh trong các chuyến công du nước ngoài. Ngài đã thăm tất cả các
lục địa với 104 chuyến đi. Ở nhiều nơi Ngài tới thăm, chưa có Giáo hoàng nào
trước đó đặt chân tới. Ngài là Giáo hoàng đầu tiên thăm Vương quốc Anh (từ năm
1534 Giáo hội Anh không công nhận quyền tối cao của Tòa Thánh). Mặc dù Ngài hết
sức nỗ lực nhưng trước khi chết Ngài tiếc chưa thực hiện được cuộc hành hương
đến Nga, hầu như do không đạt được đồng thuận với Giáo hội Chính thống giáo
Nga. Ngài cũng đã nhã ý muốn thăm Việt Nam ,
nhưng bị Việt Nam
khước từ vì lý do bảo vệ an ninh. Trong khi đó, Ngài đã đến Chile và Argentyna
như một “Giáo hoàng của Hòa bình” vào năm 1987 và được dân chúng gọi là “Papa
Polaco”. Hai năm sau đó chế độ độc tài quân sự của Tướng Pinoche sụp đổ. Ngài
cũng đã tới Cuba ,
và được Fidel Castro trịnh trọng đón tiếp. Trong buổi lễ cầu nguyện với dân Cuba tại thủ đô Havana ,
Ngài nói: “Cuba hãy mở với
thế giới và thế giới hãy mở cửa cho Cuba , để đất nước này có thể nhìn
về phía trước với hy vọng”.
Những nước mà Giáo hoàng John Paul II viếng thăm nhiều lần
là Ba Lan (8 lần), Mỹ (7 lần), Pháp (7 lần) và gần 100 lần ở Italia.
Giáo hoàng John Paul II đã có những thay đổi to lớn ở
Vatican và vị trí của Giáo hoàng trong nhận thức của cộng đồng, cả Công giáo,
cũng như Kitô, và những người theo các tôn giáo khác. Ngay sau khi được bầu làm
Giáo hoàng, trong buổi đại lễ nhậm chức niên hiệu John Paul II, Ngài đã không
cho phép Hồng y Wyszynski quỳ xuống để tỏ lòng tôn kính. Bài phát phát biểu đầu
tiên của mình, Giáo hoàng John Paul II dùng tiếng Italia, thay vì theo thông lệ
từ trước luôn luôn bằng tiếng Latin.
Giáo hoàng John Paul II rất coi trọng quan hệ với những
người của các tôn giáo khác, không chỉ trong Kitô giáo, mà còn với thành viên
của các tôn giáo khác và cả với người vô thần. Năm 1999, Đức Giáo Hoàng đã hôn
kinh Koran được xem như một món quà đối với giáo sĩ Hồi giáo. Ngài cũng trực
tiếp tham gia buổi cầu nguyện tại Assisi
của đại diện hàng chục các tôn giáo trên thế giới.
Ngày 13/05/1981, tại Quảng trường Thánh Phêrô (Peter) ở Roma
lúc 17 giờ 19, Giáo hoàng John Paul II đã bị bắn vào bụng và tay bởi tay súng
Thổ Nhĩ Kỳ Mehmet Ali Ağca. Tại bệnh viện Gemelli, Giáo Hoàng đã trải qua ca
phẫu thuật kéo dài sáu giờ và được cứu sống.
Các con tin nhìn thấy một sự liên đới với cuộc ám sát Giáo
hoàng vào ngày 13 Tháng Năm, giống như là sự xuất hiện lần đầu tiên của Đức
Trinh Nữ Maria tại Fatima vào năm 1917. Giáo hoàng John Paul II phải điều trị,
phục hồi chức năng trong bệnh viện 22 ngày, nhưng vẫn chịu nhiều hậu quả từ sau
vụ bị bắn. Ngài không bao giờ che giấu những thiếu sót của mình trước các tín
hữu, mà biểu thị tất cả các mặt của một người đàn ông bình thường phải chịu đau
đớn.
Một năm sau vụ mưu sát, Giáo hoàng đã đến Fatima
cầu nguyện Đức Mẹ và cảm ơn đã cứu cuộc đời của Ngài. Cũng vào ngày đó,
13/05/1982, một linh mục không thạo tiếng Tây Ban Nha đã cầm con dao đâm Ngài.
Quân bảo vệ Giáo hoàng ngay lập tức đã vô hiệu hóa hành động của hung thủ. Đức
Giáo Hoàng kết thúc buổi cầu nguyện của mình mặc dù bị thương chảy máu. Sự kiện
này đã không được công bố công khai cho đến năm 2008.
Năm 1985, CIA phân tích báo cáo và kết luận có nhiều khả
năng đứng sau vụ mưu sát ngày 13/05/1981 là KGB của Liên Xô và tình báo nước
ngoài khác.
Năm 1995, tuần báo Italia “Toscana Oggi” cho đăng tải tài
liệu của Uỷ ban Trung ương Cộng sản Liên Xô năm 1979, trong đó lệnh cho KGB “sử
dụng tất cả các cơ hội có thể để ngăn chặn một hướng mới trong chính sách khởi
xướng bởi một Giáo hoàng người Ba Lan, và, nếu trong trường hợp cần thiết – sử
dụng các phương tiện ngoài việc lung lạc thông tin và làm giảm uy tín”. Trên
lệnh có chữ ký của: Mikhail Gorbachev, Mikhail Suslov và các thành viên khác
của Uỷ ban Trung ương – Andrei Kirylenko, Konstantin Chernenko, Konstantin
Rusakow, Boris Ponomarev, Ivan Kapitonov, Mikhail và Vladimir Zimianin Dołgich.
Tài liệu này đã được nghiên cứu và công bố rộng rãi trong năm 2008 bởi nhà báo
người Mỹ John O. Kohler.
Trong tháng 3 năm 2006, Ủy ban điều tra của Quốc hội Italia
được thiết lập để xác định trách nhiệm của công dân Ý bị tình nghi cộng tác với
KGB, đã xác định rõ rằng, lệnh ám sát Giáo hoàng được Leonid Brezhnev Tổng bí
thư Uỷ ban Trung ương Cộng sản Liên Xô ban hành và Bộ Chính trị, trong đó có
Mikhail Gorbachev phê chuẩn. Ali Agca đã hành động theo chỉ thị của an ninh Bulgaria ,
cộng tác viên của KGB Liên Xô. Nghiên cứu tài liệu lưu trữ cho thấy đã có cơ
hội ngăn chặn vụ ám sát nhưng thật không may, các tín hiệu cảnh báo do gửi CIA
tới không được quan tâm đúng mức. Sau khi vụ ám sát Giáo hoàng, các biện pháp
an ninh đặc biệt được triển khai, bao gồm cả xe bọc thép có kính chắn đạn dùng
cho Giáo hoàng di chuyển trong các buổi hành hương.
Từ đầu những năm 90 bệnh Parkinson của Giáo Hoàng John Paul
II nặng lên. Tháng 7 năm 1992 Ngài phải trải qua phẫu thuật để cắt bỏ khối u
trong ruột già. Cuộc đấu tranh lâu dài của Ngài với bệnh tật, tuổi già, nhưng
vẫn cố gắng thực hiện sứ mệnh của mình đến giờ chót, biểu hiện phẩm giá bền bỉ
và sự vật lộn kiên cường của con người với đau khổ, giống như nhục hình mà Chúa
Chrystus đã gánh chịu. Ngày 13/05/1992, kỷ niệm 11 năm ngày bị mưu sát, Giáo
Hoàng lấy nó làm Ngày Thế giới của Người bệnh.
Sức khoẻ của Giáo hoàng suy giảm đột ngột bắt đầu vào ngày
01/02/2005. Trong hai tháng cuối đời, John Paul II, đã trải qua nhiều ngày
trong bệnh viện và không xuất hiện trước công chúng. Ngài phải giải phẫu khí
quản để tránh suy hô hấp.
Vào thứ Năm, 31/03/2005, khi đi đến nhà nguyện riêng Ngài
thấy ớn lạnh cùng với sự gia tăng nhiệt độ cơ thể lên tới 39,6 ° C. Đây là sự
khởi đầu của sốc nhiễm khuẩn kết hợp với trụy tim mạch, là yếu tố nhiễm trùng
từ đường tiểu bị yếu do bệnh Parkinson và suy hô hấp.
Chiếu theo nguyện vọng của Giáo hoàng, người ta để Ngài ở
lại nhà. Ngày 02 tháng 4, lúc 7.30 sáng, Giáo hoàng đã bắt đầu mất trí và nhiệt
độ cơ thể tăng mạnh. Bằng giọng rất yếu, lúc 15.30 Ngài nói: “Hãy cho tôi về
với Chúa Cha“. Sau đó Ngài hôn mê, và qua đời vào lúc 21.37.
Lễ tang của Giáo hoàng John Paul II đã được tổ chức vào thứ
Sáu ngày 08 tháng Tư năm 2005. Thi thể của Ngài nằm trong quan tài bằng gỗ cây
bách đơn giản (biểu tượng của sự bất tử) được đặt trên thảm phía bên ngoài của
Quảng trường Thánh Peter. Tham dự lễ tang trên Quảng trường Thánh Peter có
khoảng 300.000 người, 200 vị tổng thống, thủ tướng và đại diện các tín ngưỡng
của thế giới, bao gồm cả giáo sĩ Hồi giáo và Do Thái. Nhiều người tại buổi lễ
đã gương cao biểu ngữ với dòng chữ Italia “Santo Subito” (phong thánh ngay lập
tức). Khoảng 5 triệu người khác đến Roma không có cơ hội vào Quảng trường Thánh
Peter theo dõi tang lễ qua màn hình ở ngoài, trong đó có khoảng 1,5 triệu người
Ba Lan.
Năm nay, kỷ niệm 5 năm ngày Giáo hoàng Johon Paul II qua
đời, trùng vào ngày Thứ Sáu Lớn, đúng vào dịp Ngày Lễ Phục Sinh của Chúa
Chrystus, người Ba Lan nghỉ đến hết thứ Hai tuần sau, nên không khí đón lễ ở Ba
Lan rất trang trọng và đặc biệt có ý nghĩa.
Giáo Hoàng John Paul II không phải chỉ được người Ba Lan tôn
kính, tôn vinh Ngài là Người Ba Lan vĩ đại nhất, mà được cả nhân dân trên toàn
thế giới ngưỡng mộ về di sản cống hiến của mình cho nhân loại. Nhân dân Ba Lan
hy vọng trong năm nay, tiến trình thủ tục phong Thánh của Vatican kết thúc và
Giáo Hoàng John Paul II thực sự trở thành Vị Thánh của Ba Lan và các tín hữu
Công giáo nói chung.
Nguồn: VietCatholic
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét