Thần Học Cận Đại Về Thập Giá
Lm. Phan Tấn Thành, OP
Kính thưa quý vị và các bạn,
Từ thời các giáo phụ, vấn đề chính của thần học về Thập giá là tìm hiểu mối liên hệ giữa cái chết trên Thập giá của đức Kitô với hồng ân cứu độ ban cho loài người. Nói khác đi, Thập giá được bàn tới trong nhãn giới của mầu nhiệm cứu chuộc. Hôm nay chúng tôi xin trình bày vài nhãn giới khác của thần học cận đại. Bắt nguồn từ vấn nạn của Lutêrô về mặc khải Thiên Chúa nơi Thập giá, các nhà thần học Tin lành cận đại nói tới sự đau khổ của Thiên Chúa trên Thập giá, và từ đó xét lại vấn đề ý nghĩa của sự đau khổ của con người. Sau cùng chúng ta sẽ nói thêm đôi chút về thần học Thập giá theo Thượng hội đồng Giám mục thế giới họp năm 1985.
I. Sự đau khổ của Thiên Chúa
Trong khi mà thần học công giáo cổ điển bàn tới Thập giá trong nhãn giới của ơn cứu chuộc, thì Lutêrô nói tới Thập giá dưới khía cạnh mặc khải: làm sao con người có thể biết được Thiên Chúa ? Lutêrô phân biệt giữa hai cách biết Thiên Chúa: một đàng là biết nhờ dùng suy luận từ các hữu thể thụ tạo, được mệnh danh là theologia gloriae, Thiên Chúa được quan niệm như Đấng chủ tể trọn tốt trọn lành. Thế nhưng Lutêrô cho rằng đó không phải là khuôn mặt thực của Thiên Chúa mà chỉ là một hình tượng do con người đã tạo ra. Lutêrô chủ trương rằng cách thức để nhận biết khuôn mặt thực của Thiên Chúa là con đường Thập giá (theologia crucis), nơi mà Thiên Chúa tỏ ra ý định của Ngài đối với nhân loại. Ngài không phải là một Hữu thể toàn hảo bất biến, nhưng là một Đấng xót xa với tội lỗi và đau khổ của con người, đã bày tỏ tình yêu với con người cách hùng hồn nơi Thập giá của đức Giêsu.
Tiếp theo Lutêrô, thần học về Thập giá về phía Tin lành mang một hướng đi độc đáo: nó không những chỉ muốn đào sâu giá trị của ơn cứu chuộc được ban từ Thập giá, nhưng nó cũng trình bày lại toàn thể thần học về bản tính của Thiên Chúa được mặc khải nơi Thập giá. Vào thế kỷ 20 này, vấn đề được phát biểu một cách bạo dạn như sau: ai chịu đau khổ và chịu chết trên Thập giá ? phải chăng chỉ có đức Kitô chịu khổ và chịu chết ? có thể nói rằng Chúa Cha chịu đau khổ hay không ? Có thể nói rằng Thiên Chúa chịu chết hay không? Nên biết là đây không phải là những câu hỏi ngớ ngẩn, gợi lên để nói cho vui. Một số câu hỏi này đã được đặt ra từ các trại tập trung của Đức Quốc xã, khi hàng triệu người phải nếm những cảnh tra tấn tù tội, hỏa lò: họ cảm tưởng rằng Thiên Chúa đã chết trong sự thinh lặng, không ra tay can thiệp, cũng giống như cảnh tượng đức Giêsu bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng trong hoàn cảnh tương tự, nhà thần học Tin lành Kazo Kitamori người Nhật đã viết những dòng suy tư về sự đau khổ của Thiên Chúa từ kinh nghiệm đau khổ của dân tộc vào hồi thế chiến thứ hai (Theology of the Pain of God, 1946, tái bản 1972).
Từ một câu hỏi đặt lên trong giới thần học Lutêrô, nó trở thành một đối tượng cho một ngành của thần học gọi làstaurologia (Thập giá học). Các thần học gia cả công giáo lẫn Tin Lành đều tham gia vào cuộc khảo cứu những đề tài về sự mặc khải Thiên Chúa từ Thập giá. Trước tiên, họ bàn tới sự đau khổ và sự chết nơi đức Kitô như một chủ thể duy nhất gồm thiên tính và nhân tính (nơi đức Kitô, thiên tính đã chia sẻ sự đau khổ của nhân tính như thế nào). Kế đó, họ đi lên mối liên hệ giữa Chúa Cha với đức Kitô (xét vì đức Kitô với Cha là một). Tác giả dẫn đầu cho hướng đi này là Jurgen Moltmann, với tác phẩm "Thiên Chúa bị đóng đinh trên Thập giá" (xuất bản năm 1972), mở rộng Thập giá tới toàn thể mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi: "Vì yêu mà Con đau khổ khi bị Cha bỏ rơi; vì yêu mà Cha khổ khi Con bị đau đớn và chết; Thánh Thần tình yêu đã khôi phục sự sống cho người đã chết. Nơi Thập giá ta chứng kiến được sự can dự yêu thương của cả Ba ngôi Thiên Chúa".
Cũng trong chiều hướng đó mà các nhà thần học công giáo như Hans Urs von Balthasar, F.X. Durwell đã trình bày toàn bộ mầu nhiệm Vượt qua như là mặc khải mầu nhiệm Ba ngôi Thiên Chúa.
II. Ý nghĩa của sự đau khổ
Đang khi mà thần học Tin lành nhìn lên Thập giá để tìm hiểu sự đau khổ của Thiên Chúa, thì thần học giải phóng nhấn mạnh tới sự đau khổ của con người. Thực ra, như chúng ta đã biết, việc gắn liền Thập giá với đau khổ không có gì mới lạ. Văn chương tu đức đã trình bày khía cạnh này từ lâu rồi: chúng ta hãy bắt chước đức Kitô chấp nhận những đau khổ như Thập giá mà Chúa gửi đến! Tuy nhiên, thần học giải phóng tố cáo rằng một luồng tu đức như vậy sẽ tạo ra những hạng người thụ động: đứng trước các bất công xã hội, những cảnh lầm than của nhân loại, người tín hữu chỉ biết học đức kiên nhẫn chịu đựng, thay vì tìm cách cải tạo xã hội. Hơn thế nữa, nói rằng chấp nhận những đau khổ như Thập giá Chúa gửi đến thì có khác nào như nói rằng Chúa muốn cho con người phải đau khổ hay sao?
Những vấn nạn vừa nêu lên đã bắt buộc thần học cận đại xét lại một câu hỏi mà con người mọi nơi mọi thời đã đặt lên cho tất cả các tôn giáo: vì đâu mà con người phải khổ? Câu hỏi này đòi hỏi một mục riêng để tìm câu trả lời cho bản chất và nguồn gốc của sự dữ. Giới hạn vào sự liên hệ với Thập giá, ta nên biết rằng Kitô giáo tiên vàn không nhằm đề ra một lý thuyết giải thích về nguyên nhân của sự đau khổ cho bằng trưng ra mẫu gương của một người đã cùng chia sẻ sự đau khổ: người ấy chính là đức Kitô. Nơi Người Thiên Chúa đã nếm thử tất cả những mùi đau khổ của con người, cả về thể chất lẫn tinh thần, nhất là sự khắc khoải trước cái chết và cái chết dã man ô nhục. Thiên Chúa đã lãnh lấy đau khổ không phải vì Ngài ưa thích đau khổ, nhưng là vì yêu thương con người khổ đau. Ngài không muốn phô trương kỷ lục về đau khổ cho bằng muốn chia sẻ thân phận con người ngay từ khi vào đời. Chính trong sự liên đới của đức Kitô với những đau khổ của loài người mà chúng ta tìm thấy một niềm an ủi: thực vậy, bất cứ người nào, cho bị chìm sâu xuống bể khổ đến đâu, cũng đều có thể hướng mắt nhìn lên Thập giá.
Thực ra, đức Kitô không có thánh hóa sự đau khổ xét như là đau khổ: sự đau khổ nguyên nó là điều xấu; và có thể gây ra bao nhiêu sự xấu khác (căm tức, oán hờn, trách phận, ghen tương vv). Chúng ta cũng đừng coi sự đau khổ như là giá mà đức Kitô phải trả cho Thiên Chúa để đền tội của loài người: bởi vì quan niệm như vậy là hạ giá Thiên Chúa, coi Ngài như ông chủ nợ khắc nghiệt cay cú! Hình ảnh ấy không phản ánh khuôn mặt của Thiên Chúa mà đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta. Thiết tưởng phải nói rằng không phải số lượng đau khổ chồng chất lên thân xác của đức Kitô đã mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cũng chẳng phải chính cái chết có sức đền tội thay cho chúng ta; nhưng là cách thức mà Đức Kitô đã lãnh nhận cái chết. Đức Kitô đã đón nhận hết tất cả những đau khổ cho tới chết với tinh thần tự do âu yếm và trao hiến thân mình. Đức Kitô đã hoán cải cái chết, từ chỗ là hoa quả của thù hận và tội lỗi để trở nên ngọn lửa của yêu thương. Chính vì đã xoay ngược ý nghĩa của cái chết như vậy mà ta có thể nói rằng đức Kitô đã giao tranh với sự chết. Đức Kitô đã lãnh lấy cái chết trên mình và đã vật ngã nó nhờ sự sống lại; hay nói cách khác, Ngài đã tiêu diệt cái chết. Nhờ tình yêu mà Ngài thông ban cho con người, chúng ta cũng có thể chấp nhận cùng với Ngài (nghĩa là có thể hoán cải) sự đau khổ. Vì thế đau khổ có thể có giá trị hay không là tùy theo thái độ của chúng ta có chấp nhận nó cách tự do hay không, nghĩa là có biết đón nhận nó với sức mạnh của đức Kitô (giống như Ngài và cùng với Ngài) hay không.
Dù sao, cần phải nhấn mạnh rằng Thập giá không phải là một học thuyết giải thích hay biện minh cho đau khổ của con người. Thập giá cho ta thấy một sự kiện là Thiên Chúa đã đến gặp gỡ sự đau khổ, với thái độ tự do của Ngài. Điều đó đã vạch ra hai bộ mặt của đau khổ: nó vừa kinh tởm vừa xinh đẹp. Nó kinh tởm bởi vì chính một kẻ công chính vô tội đã phải chịu khổ do dã tâm của đồng loại. Nó xinh đẹp bởi vì cách thức mà đức Giêsu đã chấp nhận và biến đổi nó: Người đã đón nhận nó cách âu yếm và hoán cải nó thành dụng cụ yêu thương. Và đức Kitô mời gọi các môn đệ hãy vác Thập giá đi theo Ngài với nghĩa ấy: bắt chước Chúa trong thái độ yêu mến.
Đức Gioan Phaolo II đã viết dòng suy niệm về ý nghĩa sự đau khổ trong tông thư Salvifici Doloris.
III. Thần học Thập giá trong tương quan giữa Giáo hội với trần thế.
Trong hậu bán thế kỷ XX, chúng ta nhận thấy trong thần học công giáo có nhiều du di đáng kể chung quanh thần học Thập giá. Trước đó, Thập giá được nói nhiều trong cách sách tu đức, đề cao việc chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu qua những việc hãm mình đền tạ. Vào thập niên 50, với cuộc cải tổ phụng vụ, Thập giá dần dần biến đi nhường chỗ cho mầu nhiệm Phục sinh. Thực vậy, nếu không có sự phục sinh thì Thập giá chẳng có ý nghĩa gì hết mà chỉ dẫn tới tuyệt vọng. Trùng với thời kỳ phát triển khoa học và kinh tế tại Âu châu, các văn kiện của công đồng Vaticano II được soạn ra dưới ánh sáng lạc quan của mầu nhiệm Phục sinh đến nỗi quên đi mầu nhiệm Thập giá! Thế nhưng đến khoảng thập niên 70, với những cuộc khủng hoảng kinh tế, với những cảnh bất công còn tái diễn trên thế giới, thần học lại quay lại với Thập giá. Sự quân bình giữa Thập giá và Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng! Vào dịp kỷ niệm 20 năm bế mạc công đồng Vaticano II, khi nhận định về sứ mạng của Hội thánh trong thế giới dựa theo hiến chế "Vui Mừng và Hy Vọng" Thượng hội đồng Giám mục khóa bất thường năm 1985 đã tuyên bố như sau:
Chúng tôi nhận thấy rằng :
“Những dấu chỉ của thời đại chúng ta có phần khác với thời của công đồng, với những vấn đề và khắc khoải lớn hơn. Thực vậy, ngày nay khắp nơi trên thế giới chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng của đói kém, đàn áp, chiến tranh, đau khổ, khủng bố và nhiều hình thức bạo lực khác. Điều này đòi hỏi một sự suy tư thần học mới và sâu xa hơn, ngõ hầu có thể giải thích những dấu chỉ này trong ánh sáng của Tin mừng. Chúng tôi thấy rằng trong những nỗi khó khăn hiện tại Thiên Chúa muốn dạy chúng ta cách thấm thía hơn về giá trị, tầm quan trọng và trung tâm của Thập giá đức Kitô. Vì thế sự liên hệ giữa lịch sử nhân loại và lịch sử cứu rỗi cần được giải thích dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt qua. Dĩ nhiên thần học Thập giá không loại bỏ hoàn toàn thần học về tạo dựng và Nhập thể, nhưng nó giả thiết cả hai nền tảng đó. Khi các Kitô hữu nói tới Thập giá, chúng ta không muốn bị gán là bi quan yếm thế nhưng chúng ta muốn đặt mình trên thực trạng của niềm hy vọng Kitô giáo.
Từ viễn ảnh của mầu nhiệm Vượt qua, cùng với sự khẳng định mối liên kết giữa Thập giá và Phục sinh, chúng ta có thể nhận định một sự thích nghi canh tân là chính hiệu hay giả hiệu. Một đàng chúng ta không thể nào chấp nhận Giáo hội hoàn toàn đồng hóa với thế gian; đàng khác chúng ta cũng không thể đóng khung Giáo hội vào cộng đồng của các tín hữu: chúng ta cần phải khẳng định sự cởi mở truyền giáo của Giáo hội nhằm tới sự cứu rỗi toàn diện con người. Nhờ đó, hết mọi giá trị chân chính của con người không những được chấp nhận mà còn được bảo vệ cách cương quyết: phẩm giá nhân vị; những quyền lợi căn bản của con người; hòa bình; tự do khỏi mọi áp bức, nghèo kém và bất công. Tuy nhiên sự cứu rỗi toàn diện chỉ có thể đạt được khi mà những thực tại vừa nói của con người được thanh luyện và nâng cao nhờ ơn sủng và sự kết hợp với Thiên Chúa, nhờ đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần”.
Cũng nên biết là văn kiện ấy cũng lấy mầu nhiệm Thập giá làm mẫu mực cho việc hội nhập văn hóa. Nói cách khác, tiêu chuẩn của việc hội nhập văn hóa không thể chỉ dựa thuần túy trên mầu nhiệm nhập thể, nhưng còn phải dựa cả trên mầu nhiệm Thập giá nữa: Giáo hội cần biết thu nhận các nền văn hóa nhưng đồng thời cũng cần phải biết thanh tẩy luyện lọc chúng nữa. Như thế ta thấy một chiều kích khác nữa của thần học Thập giá, đặt trong mối tương quan giữa Giáo hội với trần thế, giữa lịch sử nhân loại với lịch sử cứu độ.
Thư Tịch : B. SESBOUÉ, Cruz, in: "Diccionario Teologico El Dios Cristiano", Secretariado Trinitario, Salamanca 1992, 317-333.
M. FLICK, Croce, in: "Nuovo Dizionario di Teologia", Paoline Roma 1979, 262-280.
M. FLICK - Z. ALSZEGHY, Il Mistero della Croce, Queriniana, Brescia 1978
Nguồn: daminhvn.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét