Vũ Văn An
Nhân Lễ Mình Thánh Chúa: Thánh Thể
và Sai Đi, Trong Thần Học Hans Urs Von Balthasar
Hans Urs Von Balthasar, thần học gia
Thụy Sĩ, qua đời năm 1988, vài ngày trước khi nhận mũ hồng y từ tay đức Gioan
Phaolô 2, từng được Henry de Lubac S.J. ca tụng là “người có kiến văn bậc nhất
thời ông”. Ngày 23 tháng 6 năm 1984, khi trao giải thưởng Quốc Tế Phaolô 6 cho
ông, đức Gioan Phaolô 2 tuyên bố “ông là thần học gia ưu tú Công giáo duy nhất
thời nay dám tự mình đảm nhiệm công trình vĩ đại về một Tổng luận thần học, một
tổng luận mà sự thống nhất về quan niệm và phạm vi đồ sộ mang lại cho nó quyền
được đặt ngang hàng với những tổng hợp vĩ đại khác từng đánh dấu nhịp bước của
thần học Phương Tây”. Ở đây, chúng tôi không có tham vọng nói đến công trình vĩ
đại của nhà thần học này, mà chỉ đưa ra một số nét rút ra từ nền thần học của
ông liên quan đến Phép Thánh Thể, là chủ đề của năm Phụng Vụ 2005. Bài này dựa theo
bài tham luận của linh mục Roch Kereszty, O.Cit. đọc trong cuộc Hội Thảo Về
Hans Urs Von Balthasar, được tổ chức từ 14 đến 17 tháng 4 năm 2005 tại Trung
Tâm Hội Thảo Lansdown, Virginia để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, do tạp
chí Communio tổ chức, một tạp chí do chính Balthasar và thần học gia Joseph
Ratzinger (Đức Bênêdictô 16 hiện nay) sáng lập.
Trong cố gắng cải tổ Giáo hội thời
hậu công đồng, sau giai đoạn nhìn vào bên trong và tự phân tích, sau nhiều
tranh luận và hàm hồ, một thế hệ mới gồm các giáo dân và giáo sĩ Công giáo đang
xuất hiện với một cái nhìn và những ưu tiên mới mẻ. Thế hệ này từ khước cái thứ
cập nhật hóa (aggiornamento) thiếu trở về nguồn (1) và họ tỏ ra lo ngại trước
việc “cởi mở đối với thế gian” nhưng thiếu trung trinh đối với Chân lý Tin
Mừng. Họ hiểu ra rằng hai cách thế thời thượng trong việc trình bày Tin Mừng
trong các thập niên 70 và 80 hoặc như một mớ chân lý (phương thức của các người
Công giáo bảo thủ) hoặc như một cảm nghiệm về Thiên Chúa xuyên qua một cộng
đoàn yêu thương (phương thức của những người mệnh danh là Công giáo cấp tiến)
đều đã không nắm được điều mới mẻ và trung tâm vô chừng trong Kitô giáo. Giờ
đây, nhờ bản năng hay nhờ suy tư thần học, họ bắt đầu khám phá ra “cõi lòng của
Giáo hội”, tức cái nguồn và cái tâm sứ vụ sai đi của Giáo hội, ở ngay bên trong
mầu nhiệm Thánh Thể. Càng ngày họ càng thấy rõ sứ vụ sai đi của Giáo hội không
phải chỉ là chuyển giao một sứ điệp hay một cảm nghiệm, nhưng quan trọng hơn
còn là lôi kéo toàn bộ nhân loại tham dự đầy đủ vào mầu nhiệm Thánh Thể.
Diễn trình tự phát từ gốc vươn lên
này đã được Huấn quyền “thêm sức”, lên khuôn hình và điều hướng: tông thư cuối
cùng của đức Gioan Phaolô 2, Ecclesia de Eucharistia, và việc công bố Năm Thánh
Thể của ngài đã đem ra ánh sáng tính trung tâm của Thánh Thể. Đối với cái hiểu
mới về sứ vụ sai đi của Hội thánh, một cái hiểu lấy Thánh Thể làm trung tâm,
thần học của Balthasar đã cung cấp nhiều cái nhìn thông sáng mới và một thúc
đẩy mạnh mẽ.
Trong bộ Lebenswerk đồ sộ của
Balthasar, phần minh nhiên nói về Thánh Thể chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy
nhiên, tổng luận thần học của ông có tính Thánh Thể một cách sâu sắc, bởi nó
cho thấy các mầu nhiệm Ba Ngôi, Sáng Thế, Mạc Khải, Nhập Thể và Cứu Chuộc thẩy
đều đã trở nên hiện thực đối với chúng ta trong Phép Thánh Thể một cách hết sức
cụ thể như thế nào. Nhìn mầu nhiệm dưới ba góc cạnh khác nhau (thần mỹ, thần
kịch và thần lý: theological aesthetics, theo-drama and theo-logic), trước
nhất, ta sẽ xem xét Thánh Thể như một khuôn hình (form), sau đó là việc tham dự
của chúng ta vào vở kịch nhân thần xuyên qua Thánh Thể, và cuối cùng ta sẽ ráng
nói ra cái luận lý học của tình yêu Thiên Chúa tự mạc khải mình ra trong mầu
nhiệm này.
I.Theo Viễn tượng Thẩm mỹ Thần học
Đối với Balthasar, thẩm mỹ thần học
(theological aesthetics) rất khác với thần học thẩm mỹ (aesthetical theology).
Đối với ông, thần học thẩm mỹ là một tiếp cận có tính chủ quan của một người
bàng quan không can dự, một tiếp cận vốn tách cái đẹp ra khỏi cái chân và cái
thiện. Nhưng đối với Balthasar, ông đã đưa ra một loại suy hữu ích giữa điều
nhà thẩm mỹ coi như cái đẹp và cái đẹp của mạc khải. Cái đẹp trần gian là sự
tỏa sáng, là vẻ huy hoàng hay ánh sáng của khuôn hình nơi bất cứ hữu thể đặc
thù nào vốn có hai đặc tính vừa thiện vừa chân. Nó mời gọi người nhìn không
những chỉ thụ động thưởng ngoạn mà còm ôm lấy cái đẹp và tìm kiếm sự phong phú
của hữu thể và sự tốt lành mà khuôn hình tươi đẹp kia phát lộ ra. Mặt khác, cái
đẹp thần học bộc lộ cho ta cái địa sở tối hậu của cái đẹp trần thế này, nó là
vẻ huy hoàng tỏa ra từ khuôn hình của mạc khải Thiên Chúa là mạc khải đem lại
cho mọi tạo vật ý nghĩa và giá trị nhưng là một mạc khải đặt trung tâm ở khuôn
hình Giêsu Kitô. Cái đẹp này còn lôi kéo con người mạnh mẽ hơn, quá bên kia
việc ngắm nhìn thụ động, so với cái đẹp trần thế. Kết hợp với sự thèm khát
(eros) do ơn thánh thúc đẩy trong ta, khuôn hình trông thấy và nhận thấy nơi
con người Giêsu lôi kéo chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng (conformed) với
Ngài bằng cách tham dự vào cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài. Cái khuôn
hình là chính Giêsu Kitô này đã được ban cho Giáo hội dưới hình thức Thánh Thể
dọc dài suốt thời gian Lịch Sử Cứu Độ nghĩa là từ lúc chấm dứt cuộc sống trần
thế của đức Giêsu cho đến lúc Ngài Lại Đến (Parousia). Ta cần khảo sát “khuôn
hình” này một cách chi tiết hơn.
Bối cảnh thánh kinh để ta hiểu mối
liên kết giữa Ba Ngôi, Nhập Thể và Thánh Thể chính là tổng hợp của Balthasar về
nền thần học Gioan và Phaolô. Trong Gioan, sứ vụ Chúa Con đạt tới hoàn tất
(consummation) trên thánh giá lúc máu và nước chẩy ra từ cạnh sườn bị đâm thủng
của Ngài và với hơi thở cuối cùng, Ngài phó mình cho Thánh Linh. Máu và nước
chẩy ra từ thân xác bị đâm thủng, bị hiến tế của đức Giêsu chính là suối nguồn
sự sống bí tích của Giáo hội, đặc biệt là bí tích Rửa tội và Thánh thể, qua đó,
biến cố hy lễ Vượt Qua, một biến cố xẩy ra một lần và vĩnh viễn, trở thành hy
lễ của Giáo hội. Còn trong Phaolô, lễ hy sinh của đức Giêsu hệ ở việc Ngài tự
đổ mình ra (selfemptying) hoàn toàn, tự hiến mình hoàn toàn cho Chúa Cha dưới
hình thức tự hiến mình cho chúng ta.
Balthasar khởi sự bằng cách cho rằng
Ba Ngôi hành động (economic Trinity) đã mạc khải Ba Ngôi tự tại (immanent
Trinity). Việc Chúa Cha tự đổ mình qua đức Giêsu lúc Nhập Thể đã phản ảnh một
cách loại suy việc Ngài tự đổ mình qua Chúa Con từ thuở đời đời. Việc tự đổ
mình ra này có nghĩa là Chúa Cha tự hiến hoàn toàn cho Chúa Con. Việc Chúa Con
đáp trả mình hoàn toàn cho Chúa Cha cũng xẩy ra từ thuở đời đời trong Chúa
Thánh Thần, Thánh Thần của cả Chúa Cha và Chúa Con. Tuy nhiên, trong nhiệm cục
cứu độ, việc Chúa Con đáp trả mình cho Chúa Cha xẩy ra trong lịch sử, từng chút
một, qua nhập thể, qua cuộc sống trần thế, qua cuộc khổ nạn, qua cái chết, qua
việc xuống âm ty (hell) và qua cuộc phục sinh. Ở mỗi bước như thế, việc đáp trả
này đều xẩy ra trong Chúa Thánh Thần: Thánh Thần chuẩn bị cung lòng đức Trinh
Nữ cho việc Nhập Thể, Ngài hướng dẫn đức Giêsu vâng lời Chúa Cha từng bước qua
cuộc sống trần thế, khổ nạn và tử hình cho đến lúc tự đổ mình hoàn toàn trên
thánh giá, bằng cách luôn nhắc cho đức Giêsu nhớ đến quyết định chung mà Ba
Ngôi Vị cùng đạt tới từ thuở đời đời. Đức Giêsu đi qua diễn trình này để thi
hành sứ mệnh cứu chuộc phổ quát của mình. Dưới khuôn hình tôi tớ hèn hạ, chính
Thánh Thần giúp Ngài thi hành được sứ mệnh gánh lấy tội lỗi chúng ta và bước
xuống vực thẳm sau cùng của chết chóc và âm ty trong khi đáp trả tình yêu cho
Chúa Cha trong trạng thái hoàn toàn bị Chúa Cha rơi bỏ. Ngài đã sống trọn tình
Con Thảo Thần Thiêng như thế nơi trần thế sa ngã này.
Cho đến lúc tận cùng việc Ngài thực
thi trong vâng lời sứ mệnh đáp trả Chúa Cha mà Ngài hằng lắng nghe qua Chúa
Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã hoàn toàn thấm nhập thân xác đức Giêsu đến nỗi
trong thân xác sung mãn thần khí (pneumatic body) ấy, đức Giêsu đã trở thành
vừa là người gửi Chúa Thánh Thần đi vừa là người ban thân xác và máu mình theo
một cách khiến cả ba thứ ấy tạo nên chỉ một thực tại (xem 1Ga 5:6-7); việc Ngài
tự hiến mình trong Chúa Thánh Thần trên thánh giá đã được đời đời hóa trong
việc Phục Sinh và qua Thánh Thần đã thấm nhập vào từng giây phút trong lịch sử
chúng ta theo cả chiều quá khứ lẫn tương lai. Và dấu chỉ hữu hiệu của việc hiến
mình cho Chúa Cha dưới hình thức trở nên của ăn và của uống cho chúng ta chính
là bánh và rượu đã hóa thể (transubstantiated): chúng diễn tả và thông truyền
việc hiến mình của đức Giêsu cho Giáo hội.
Hiểu theo nghĩa trên, Thánh Thể
chính là khuôn hình, là Gestalt Thiên Chúa Tự Thông Truyền trong giai đoạn Lịch
sử Cứu độ của chúng ta, là vinh quang và vẻ sáng của tình yêu Chúa Ba Ngôi
trong nhân tính bị đóng đinh và được hiển vinh của đức Giêsu Kitô dưới các biểu
hiệu khiêm tốn của bánh và rượu. Việc chiêm ngắm khuôn hình này, nếu được đi
kèm với ơn thánh Chúa trong tâm hồn ta, sẽ khơi lên lòng “thèm muốn” (eros) của
ta, lòng thèm muốn được hoà nhập trong đó. Trong lịch sử Giáo hội, đã có nhiều
cuộc trở lại minh nhiên do Thánh Thể. Ta có thể nói được rằng chính “khuôn
hình” Thánh Thể đã phá tan bức tường kình chống ơn thánh nơi họ và dẫn họ vào
Giáo hội Công giáo. Simone Weil, một nhà bất khả tri nhưng chịu tìm kiếm, đã
được đức Kitô dẫn vào một nhà thờ Công giáo và bảo phải qùy gối trước nhà tạm
vì “đây chính là Sự Thật”. Sau này cô viết lại rằng đối với cô, sự đơn giản
trong hình thức hiện diện của đức Kitô là dấu chỉ hiển nhiên cho thấy sự hiện
diện ấy là chân thực. André Frossard, một nhà trí thức Công giáo nổi tiếng,
theo chính lời ông nói, lúc còn là người hoài nghi, lần kia bước vào một nhà
thờ, thấy người ta thờ lạy Thánh Thể, khi bước ra trở thành người Công giáo tin
đạo.
II.Theo Viễn tượng Thần kịch
Tuy nhiên, khuôn hình này không đơn
giản chỉ là con người của đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, nhưng còn bao
gồm trọn vẹn thảm kịch cuộc đời, cái chết và việc phục sinh của Ngài. Như thế,
trọn cuộc đời Ngài (hiểu như việc ngài tự hiến dần dần cho Thiên Chúa dưới hình
thức phục vụ chúng ta) cũng trở nên cùng thời với chúng ta trong cử hành Thánh
Thể. Bởi vậy, việc chiêm ngắm khuôn hình này chỉ là bước đầu; phụng vụ Thánh
Thể bao gồm chính việc đức Giêsu trao ban cho Giáo hội lễ hy sinh của Ngài và
ngược lại, lễ hy sinh của Giáo hội, sự tự hiến của Giáo hội, được thấm nhập vào
lễ hy sinh của đức Kitô. Sự trao đổi kỳ diệu, cuộc admirabile commercium này đã
xẩy ra như thế nào? Làm thế nào các môn đệ yếu hèn và tội lỗi đã có thể biến lễ
hy sinh của đức Giêsu thành lễ hy sinh của chính họ được, những môn đệ hết sức
đần độn và luôn kình chống lại không muốn nhận ra, chứ đừng mong bước vào mầu
nhiệm Cuộc Khổ Nạn của Ngài? Câu trả lời của Balthasar đã khai triển được cái
móc nối từng bị nhiều người quên lãng giữa đức Maria và Thánh Thể, một móc nối
vốn có cơ sở chặt chẽ trong các dữ kiện Thánh Kinh và trong thần học giáo phụ:
Đức Kitô đã được ủy thác trong tay đức Maria lúc sinh và lúc chết. Điều này có
tính trung tâm hơn việc Ngài được phó ban trong tay Giáo hội, xét theo khía
cạnh chính thức và công khai. Việc trước là điều kiện có trước của điều sau…
Một mình đức Maria đã thốt ra lời Xin Vâng cần thiết để việc Nhập Thể của Ngôi
Lời xẩy ra. Chính trong lời Xin Vâng nguyên hình này, đức tin của mọi thành
phần khác trong Giáo hội, dù yếu dù mạnh, đã được nuôi dưỡng.
Rất xa trước khi các môn đệ (tức
Giáo hội phẩm trật) tiếp nhận lệnh truyền cử hành hành vi Thánh Thể để tưởng
nhớ đức Giêsu, đức Maria vốn đã thốt ra tiếng Xin Vâng của Người. Tuy mặc nhiên
nhưng Người hết lòng chấp nhận trong đức tin mọi điều Chúa phán với Người khi
Người tiếp nhận Ngôi Lời trở thành nhục thân trong dạ mình; hơn nữa, việc chấp
nhận nguyên khởi lễ hy sinh của Con mình này sẽ trở thành minh nhiên dưới chân
thánh giá. Việc Người thuận tình với Chúa Cha theo nghĩa Người đồng ý với việc
Con mình tự hiến cho Chúa Cha thay thế cho chúng ta và vì chúng ta quả là đầy
đủ và trọn lòng vì Người là Đấng Vô Nhiễm, Đấng Immaculata, Đấng chịu thai
không vướng nguyên tội và đầy ơn phúc. Bởi thế, tiếng Xin Vâng của Người, việc
chấp nhận của Người, không bị yếu đi hay bị chia đi bởi bất cứ khuynh hướng tội
lỗi nào. Qua cách đó, đức Maria, Đấng đã trở nên Immaculata nhờ được cứu chuộc
trọn vẹn ngay từ trước nhờ lễ hy sinh của Con mình, đã có thể biến lễ hy sinh
đó thành lễ hy sinh của mình một cách trọn vẹn. Và vì đức Maria là nguyên mẫu
(archtype) và khởi đầu của Giáo hội, nên nơi Người, lễ hy sinh của đức Kitô đã
trở thành lễ hy sinh của Giáo hội.
Thuật ngữ giáo phụ “personam
Ecclesiae gerens” (hành động nhân danh Giáo hội), “in persona Ecclesiae” (nhân
danh Giáo hội) nói lên một thứ đại diện chỉ thực sự đúng khi vai trò được thủ
diễn (persona) vẽ ra được chính chủ quan tính của Cô Dâu Giáo Hội. Nhưng làm
thế nào kẻ tội lỗi có thể thủ diễn được vai trò kia, một vai trò đòi phải có
một tình yêu không tì vết. Cái phẩm tính (disposition) anh ta muốn vẽ ra nhất
thiết luôn luôn là một cái gì cao hơn anh ta, một lý tưởng xưa nay chưa thể
hiện được, đến nỗi không ở chỗ nào Giáo hội có thể thủ diễn được vai trò đã ủy
thác cho mình trong lễ Hy sinh của đức Kitô bằng cách thực hiện được điều đã ủy
thác. Đây chính là lý do tại sao tín điều Vô Nhiễm Thai là một định đề bắt buộc
của giáo hội học…Việc thuận tình của Ekklesia, của Giáo hội, đối với hy lễ của
Chúa Con cần khởi sự cho đến lúc đạt tới tình trạng hoàn toàn bất vị kỷ
(selflessness) của đức Maria, để sự thuận tình này không còn một vết vị kỷ nào
cho đức Giêsu, Con Chiên Vượt Qua, có thể được sát tế để cứu chuộc ta và làm ta
nên hoàn thiện.
Mặt khác, trong cùng một hành vi
dâng hiến Con mình lên Chúa Cha, đức Maria cũng dâng chính Người nữa. Như thế,
đây cũng chính là sự Trao Đổi Kỳ Diệu, admirabile commercium, trong đó, Người
chấp nhận trong lòng lễ hy sinh của Con mình và cùng một lúc với sự thuận tình
này, Người phó mình hoàn toàn cho thánh ý Chúa Cha. Sự trao đổi “đời thực” này,
tức sự hiệp nhất giữa lễ hy sinh của đức Giêsu và lễ hy sinh của đức Maria
chính là nguyên mẫu và là điều kiện cho phụng vụ Thánh Thể của Giáo hội. Trong
phụng vụ này, qua hành động của vị linh mục thừa tác, vốn đại diện đức Kitô,
Đầu Giáo hội, cộng đoàn phụng vụ tham dự vào sự chấp nhận của đức Maria đối với
lễ hy sinh của Con mình, và cùng với đức Maria, cộng đoàn hiệp nhất hiến tế
chính mình vào hiến tế của Chúa Con. Trong cái nhìn này, ta mới thấy rõ khẩu
hiệu triều đại đức Gioan Phaolô 2, Totus Tuus (Tất Cả Của Mẹ) đã diễn tả trọn
vẹn chính cái cốt lõi trong nền linh đạo về đức Maria và về Thánh Thể của
Balthasar. Mục tiêu của chúng ta là mỗi ngày một thuộc về Mẹ Maria hơn bằng
cách tự đổ mình ra và bước vào tâm khảm của Người. Bao lâu ta ráng làm được
điều đó, là ta đã biến hy lễ của đức Maria thành hy lễ của ta: bằng cách rước
Mình và Máu đức Kitô vào lòng, ta đã biến đức vâng lời đầy yêu thương của đức
Kitô đối với Chúa Cha thành của ta và nhờ đó dâng chính chúng ta lên Chúa Cha
trong niềm hiệp nhất với Chúa Con. Ta sẽ không bao giờ thực hiện được trọn vẹn
sự đồng-nhất-trong-khác-biệt (identity-in-difference) vốn đã được thực hiện
giữa hành vi của đức Giêsu và việc đức Maria chấp nhận hành vi của đức Giêsu
trong đức tin; đó chính là lý do khiến Giáo hội phải hàng ngày hay đúng hơn
không ngừng làm mới lại Hy Lễ Thánh Thể và, theo thuật ngữ Thánh Augustinô, học
cách tự dâng mình lên trong bí tích lễ hy sinh của Chúa Con.
Trong bối cảnh này, ta hiểu rõ hơn
tại sao Thánh Thể lại lên thịt xương (embodies) một cách sáng chói sứ vụ của
Giáo hội. Vì khi được lôi cuốn vào chiều sâu khôn dò của tình yêu đức Kitô, ta
trở nên đồng hình đồng dạng với Người đến mức sẵn sàng đổ hết con người mình
ra, hết cái hiện sinh qui ngã của mình ra, và học hỏi yêu thương con người đồng
loại với chính cái tình yêu đức Kitô ấy. Bằng cách ấy, ta tham dự vào sứ mệnh
ban sự sống và nuôi dưỡng sự sống của Ngôi Lời Nhập Thể. Sứ mệnh chung của
Nhiệm Thể Đức Kitô bao gồm sứ mệnh hết sức cá biệt của mỗi chi thể, một sứ mệnh
dự phần vào sứ mệnh cứu chuộc phổ quát của Chúa Con. Sứ mệnh này của chúng ta
không phải là cái gì tùy thể (accidental) và nằm bên ngoài chúng ta, nhưng tùy
theo mức độ ta chấp nhận nó, nó biến chúng ta thành những ngôi vị theo nghĩa
thần học đầy đủ nhất; nó biến những ai, trước khi chấp nhận sứ mệnh của họ
trong đức Kitô vốn chỉ là những chủ thể thuần lý cá biệt (Geistessubjekte), thành
những ngôi vị. Hơn nữa, ta cần ghi nhớ điều này: sứ mệnh của đức Kitô đơn thuần
chỉ là khía cạnh “quoad nos”, việc vươn dài đi vào lịch sử của việc Chúa Cha
sinh ra Chúa Con trong yêu thương từ thuở đời đời. Tương tự như thế, sứ mệnh
của Giáo hội và của mỗi chi thể trong Giáo hội không phải chỉ là một lệnh
truyền theo pháp lý. Nó phát sinh từ tình yêu đức Kitô, một tình yêu vốn sản
sinh chúng ta, trong quyền năng Chúa Thánh Thần, để trở thành những ngôi vị độc
đáo trong một ngôi vị Maria hiệp đoàn, một ngôi vị vừa là Nhiệm Thể đức Kitô
vừa là Cô Dâu của Người. Thánh Thể xây đắp nên và củng cố chính Nhiệm Thể và Cô
Dâu này.
Tuy nhiên, việc được Thánh Thể xây
đắp thành Nhiệm Thể và Cô Dâu của đức Kitô này không phải là một diễn trình tự
động nhưng là một phần của vở Thần-Kịch (Theo-Drama). Chính trong Thánh Thể,
chúng ta bước một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết vào việc đức Maria và Giáo hội
tiếp nhận trong đức tin lễ hy sinh của Chúa Con, và dâng chúng ta lên cho Chúa
Cha qua đức Kitô bằng cách tự trở nên tặng phẩm cho người khác. Như thế, sứ
mệnh sai đi của chúng ta bao gồm các công tác công bằng xã hội, nhưng không chỉ
thu gọn trong các công tác ấy. Tình yêu nẩy sinh từ Thánh Thể tôn trọng tính tự
chủ của trật tự tạo dựng và do đó cũng kính trọng các đòi buộc luân lý từ cái
nhân tính chung kia phát sinh ra. Nó đòi ta phải hành động làm cho xã hội ta
văn minh hơn và nhân đạo hơn; nó hợp tác với mọi người có thiện chí trong việc
xây dựng một nền “văn minh tình thương”; nhưng nó không ngưng ở đấy. Tình yêu
Thánh Thể biến đổi các động lực của ta nhưng nó cũng vượt quá các giới hạn cuả
bất cứ sinh hoạt tốt lành nào. Nó bao gồm việc chuyển cầu trong đức Kitô cho
người khác, kể cả các chi thể của Giáo hội lẫn toàn bộ thế giới; nó cũng có
nghĩa phải chia sẻ gánh nặng của họ, đứng vào chỗ của họ, đau đớn và chuộc lỗi
(atoning) cho họ, và tất cả những điều đó được thực hiện qua việc tham dự vào
tình yêu vô tận của đức Kitô. Nói cách khác, sự sống cho người khác của ta bao
gồm cả hành động lẫn chịu đau đớn vì tình yêu cứu chuộc của đức Kitô trong đó
chúng ta dự phần với nhau, thực sự, chỉ trở nên hữu hiệu nhất sau khi Ngài bước
quá hành động tự ý tiến vào việc phó mình hoàn toàn cho khổ nhục và tử hình vì
người khác.
Sau cùng, ta cần thăm dò chiều kích
vũ trụ trong thần học Thánh Thể của Balthasar. Ông suy tư dài rộng về vai trò
Chúa Con trong sáng thế, như đã được giảng trong các thư Côlôsê và Ephêsô của
thánh Phaolô. Vũ trụ đã được tạo dựng trong đức Kitô và cho đức Kitô. Thiên Chúa
“dựng phòng” cho thế giới trong tính tự lập tương đối của nó gồm các hữu thể
không thần linh, được tạo dựng, nhưng đã làm trọn thế giới bằng cách thu tóm nó
lại dưới một đầu duy nhất là đức Kitô, làm món quà thế giới tặng cho Chúa Con.
Món quà thế giới tặng Chúa Con này bắt đầu trong Nhập Thể, hoàn tất dự phóng
cách dấu ẩn trong Thánh Thể. Thế giới vật chất và nhân loại đã được Chúa Cha
ban cho đức Kitô để đức Kitô dâng trả trong tạ ơn, sau khi đã cứu chuộc và biến
cải, cho Chúa Cha qua Thánh Thể.
Nếu sứ mệnh sai đi của Chúa Con Nhập
Thể bao gồm việc tiếp nhận toàn thể tạo dựng như món quà từ Chúa Cha, mục đích
chỉ để hoàn trả cái toàn thể ấy lại cho Chúa Cha, sau khi đã mua lại bằng cái
chết của mình, thì Chúa Con chỉ có thể thực hiện và hoàn tất được sứ mệnh ấy
qua Chúa Thánh Thần và Giáo hội bằng cách trao ban cho Giáo hội sứ mệnh, qua
Chúa Thánh Thần, tiếp tục biến đổi thế giới bằng việc cử hành Thánh Thể của
mình.
Sau khi duyệt lại viễn tượng thần
kịch về Thánh Thể, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến 4 cái nhìn thông sáng mang lại
rất nhiều hoa trái nhưng phần lớn đã bị quên lãng xưa nay rút ra từ tư tưởng
của Balthasar:
1.Balthasar muốn chứng tỏ rằng việc
tiếp nhận tích cực hy lễ của đức Giêsu kiểu Maria Giáo hội (Marian Church), qua
tiếng Xin Vâng của đức Maria, đã đi trước việc Giáo hội chính thức cử hành
Thánh Thể. Phụng vụ Thánh Thể, được chủ tọa bởi giám mục hay linh mục là người
đại diện đức Kitô đòi trước đó phải có tiếng Xin Vâng của đức Maria lúc Truyền
Tin và dưới chân thánh giá. Chính nhờ có đức tin này của đức Maria mà giáo hội
phẩm trật đã làm cho hy lễ của đức Kitô thành hiện thực (present).
2. Thời ta, ngay những đại biểu sáng
giá nhất của thần học Thánh Thể, ở một mức độ nào đó, cũng vẫn loay hoay ở chỗ
nhấn mạnh đến khía cạnh chủ quan, nhân học của nó. Hiển nhiên, bên trong hành
động Thánh Thể, chúng ta có quyền chú tâm tới việc dâng hiến chúng ta như của
lễ hiệp nhất với của lễ của đức Kitô. Tuy thế, ta thường hay quên cái mầu nhiệm
đáng kính sợ trong lễ hy sinh của đức Kitô mà ta muốn hiệp nhất với chính việc
dâng mình của ta. Nếu thực sự ta có ý “làm việc này để nhớ” đến Ngài, ta không
nên e dè tham dự vào cái vực thẳm khôn dò của nỗi thống khổ và tình yêu của đức
Giêsu, vào việc Ngài vác lấy gánh nặng tội lỗi của ta và vào tình yêu của Ngài
dành cho Chúa Cha dù bị Chúa Cha bỏ rơi. Trong tình yêu của Ngài, đức Giêsu cảm
tạ Chúa Cha đã cho phép Ngài đổ mình ra đến cái cực điểm chết cho chúng ta trên
thánh giá. Ta được mời gọi tham dự vào của lễ “cho chúng tôi” (“pro nobis”) đầy
kinh hãi và đáng sợ của đức Giêsu. Tóm lại, Balthasar mời gọi ta đi quá cái
nhìn thường tình của ta về Thánh Thể, đừng nhìn nó chủ yếu như việc diễn lại
một cách bí tích việc chúng ta dâng hiến ta trong hiệp nhất với đức Kitô để
tham dự tích cực vào chính hy lễ của Ngài.
3. Cái nhìn phác họa trên đây về
cách Thánh Lễ Mi-Sa trở nên hy lễ của Giáo hội như thế nào đã có những hệ quả
đại kết quan trọng. Balthasar muốn chứng minh rằng cộng đoàn phụng vụ không
thêm gì có gía trị cứu chuộc vào hy lễ của đức Kitô. Họ tham dự vào hy lễ ấy
một cách tiếp nhận linh hoạt (active receptivity), qua việc tham dự vào lời Xin
Vâng của đức Maria, vào việc Ngài thuận tình với hy lễ của Con mình. Người Công
giáo không nên coi Thánh Lễ như “việc thánh thiện” (good work) về phía Giáo hội,
nhưng phải như một hành vi đức tin tinh ròng mà linh hoạt. Đồng thời, người Thệ
Phản cũng được mời gọi tái thẩm định vai trò của đức Maria để họ có thể thấy ra
trong đấng Immaculata (Vô Nhiễm Thai), cái mẫu mực và sự tròn trịa trong đức
tin của Giáo hội.
Ngay cả khi Balthasar không minh
nhiên nói ra ý nghĩa đại kết, ông cũng cho thấy mối liên kết nội tại giữa Thánh
Thể hiểu như lễ tạ ơn, và Thánh Thể hiểu như lễ hy sinh chuộc tội. Người Thệ
Phản không phản đối việc gọi lễ Mi-Sa là hy lễ chúc tụng và tạ ơn, nhưng cho
đến nay, khá nhiều thần học gia Thệ Phản vẫn coi việc người Công Giáo hiểu đặc
tính chuộc tội của thánh lễ đó như một thứ xúc phạm đến ý nghĩa hy sinh vĩnh
viễn của thánh giá. Balthasar muốn chứng minh rằng hai khía cạnh ấy không tách
biệt được: đức Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã cho Ngài được hiến mình dưới hình thức
của ăn thức uống cho chúng ta làm lễ hy sinh phổ quát chuộc tội và đền tội
thay. Việc chúc tụng và tạ ơn của Ngài gói ghém và định nghĩa ra việc tự hiến
để tha tội của Ngài. Như thế, Thánh Thể không thể tham dự vào một khía cạnh của
hy lễ này mà lại không đồng thời bao hàm khía cạnh kia.
Cũng thế, sứ mệnh sai đi của các
Kitô hữu muốn mô phỏng cuộc đời trên dương thế này theo Thánh Thể cũng buộc
phải bao gồm một cách không phân chia cả việc tạ ơn và chúc tụng lẫn đền tội
thay và cứu chuộc. Họ tạ ơn Thiên Chúa không những vì những điều thiện hảo của
sáng tạo và vì ơn phúc được tham dự vào chính sự sống Ba Ngôi của Thiên Chúa,
nhưng họ cũng kết hiệp nỗi thống khổ của họ vào nỗi thống khổ của đức Kitô để
lễ hy sinh đền tội thay và cứu chuộc của đức Kitô trở nên hữu hiệu cho chính họ
và cho những ai ủy thác cho họ chăm sóc cũng như cho toàn thế giới.
4. Tư tưởng của Balthasar về khía
cạnh vũ trụ (cosmic) của Thánh Thể (hiểu như việc Chúa Con Nhập Thể, Đầu và Chi
Thể, hoàn lại Chúa Cha trong tạ ơn toàn bộ sáng thế đã được dựng nên trong
Ngài) có khá nhiều hạt mầm thông sáng quan trọng nhưng chưa được ông khai
triển. Chúng tôi cố gắng đưa ra vài điểm để chúng ta cùng suy tư.
Trong những tiếp cận thông thường
thời hậu công đồng Triđentinô về Thánh Thể, việc hoàn lại toàn bộ sáng thế cho
Chúa Cha gồm luôn vũ trụ vật chất là điều khó mà quan niệm được, nếu không muốn
nói là không thể quan niệm được. Vì nền thần học ấy khước từ bất cứ bình diện thực
tại nào cho loại hình vật chất của bánh và rượu được truyền phép; nền thần học
ấy nghĩ rằng điều xem ra là bánh và rượu thực sự không phải là bánh và rượu
nữa. Cái dáng vật chất đánh lừa (false appearances) kia không thể biểu tượng
cho việc hoàn trả vũ trụ vật chất cho Chúa Cha được. Tuy nhiên, siêu hình học
của Balthasar, nếu được khai triển thêm, có thể đưa lại những biểu thức rõ hơn
về khía cạnh vũ trụ của Thánh Thể. Nếu hữu thể, tương tự nhau ở mọi bình diện,
kéo theo cả sự phong phú lẫn sự nghèo nàn hay đúng hơn một sự phong phú hệ ở sự
nghèo nàn của nó theo nghĩa, ở những bình diện khác nhau và theo những cách
khác nhau, hữu thể ấy tự làm rỗng (self-emties) mình vì một hữu thể mới, và
chính trong việc tự làm rỗng mình này mà hữu thể ấy đạt tới sự hoàn thiện của
mình, thì việc truyền phép Thánh Thể và viêc dâng lễ sau đó thực sự có thể
tượng trưng cho việc hoàn trả tạo vật vật chất trên một bình diện siêu việt cho
Chúa Cha. Lúc ấy, sự “nghèo nàn” hữu thể của bánh và rượu là điều kiện siêu
hình cho phép lạ hóa thể (transubstantiation) xẩy ra. Nói cách khác, qua ngôn
từ sáng tạo của đức Kitô và trong quyền lực Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trên
bàn thờ không còn hiện diện trong chính chúng nữa, nhưng chúng đã trở thành các
dấu chỉ thông truyền thực sự của thân xác chịu đóng đinh và sống lại của đức
Giêsu Kitô. Trong hành động hóa thể vừa do Chúa vừa do Giáo hội
(divine-ecclesial), bánh và rượu không bị vô hư hóa hay mất hết mọi thực tại
tính; trái lại, chúng được nâng lên trên chính chúng để trở thành “bánh sự
sống” và “chén cứu độ muôn đời”. Trong tư cách Mình và Máu Chúa chịu đóng đinh
và sống lại, giờ đây chúng là của “ăn đích thực” và của “uống đích thực”. Sự
kiện các phẩm tính thực nghiệm của bánh và rượu vẫn còn đó không phải là cách
đánh lừa đầy đạo hạnh của Thiên Chúa nhưng có nghĩa là đức Giêsu Kitô hiện diện
với chúng ta như của ăn và của uống. Chính trong nghĩa này, Thánh Thể tượng
trưng và dự phóng trước việc hóa dung (transfiguration) toàn bộ vũ trụ vật chất
và việc hoàn trả vũ trụ ấy cho Chúa Cha trong đức Kitô.
Khía cạnh vũ trụ này của Thánh Thể
soi sáng một khía cạnh khác trong sứ vụ sai đi của Kitô hữu nơi trần thế này,
một khía cạnh đầu tiên được phát biểu rõ trong Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy
Vọng), và sau đó được đức Gioan Phaolô 2 trích dẫn trong thông điệp Sollicitudo
Rei Socialis (Lo Lắng Công Tác Xã Hội): Cùng với mọi người thiện chí, chúng ta,
người Kitô hữu, phải hành động cho tiến bộ nhân bản (cải thiện các điều kiện
nhân bản của nghèo đói, bệnh tật, tranh chấp vũ trang và các hình thức sự ác
khác). Nhưng ngay những cố gắng vĩ đại nhất của chúng ta cũng chỉ đưa lại chất
thể cho trời mới và đất mới mà Thiên Chúa sẽ tạo ra lúc tận cùng của lịch sử,
hệt như trong Thánh Thể, sự đóng góp của chúng ta chỉ có thể bao gồm việc chuẩn
bị của lễ bánh và rượu cho việc truyền phép của Thiên Chúa mà thôi.
III.Theo Viễn Tượng Thần Luận Lý
Theo chúng tôi biết, Balthasar không
khai triển một khảo luận minh nhiên nào về thần luận lý của Thánh Thể nhưng vốn
xem sét thần luận lý của Thánh Thể bên trong diễn trình toàn bộ của Nhập Thể và
Cứu Chuộc. Tuy thế, điều ta cần làm ở đây chỉ là minh giải điều đã ẩn tàng
trong tư tưởng của Balthasar mà thôi. Tình yêu Thiên Chúa từng tỏ mình ra trong
Thánh Thể vượt quá giới hạn bất cứ hiểu biết nào của con người. Thế nhưng, đối
với những ai phó mình cho Chúa Thánh Thần làm việc bên trong trái tim họ, thì
Ngài sẽ soi sáng cho họ thấy cái chiều sâu tối hậu của tình yêu sáng thế và cứu
thế cũng như ý nghĩa của mọi thực tại. Bắt đầu với phản ứng của các môn đệ đối
với bài nói về Thánh Thể của đức Giêsu tại Ca-pa-na-um qua suốt nhiều thế kỷ
đến tận thời ta, Thánh Thể vẫn luôn là “đường cách phân lục địa”: đối với người
này, nó là trở ngại lớn chống lại đức tin, nhưng đối với người kia, nó lại là
chứng cớ hùng hồn nhất của thực tại tình yêu Thiên Chúa. Là trở ngại, vì nó cho
thấy cái vực thẳm tối hậu của lòng khiêm nhường nơi Thiên Chúa: Ngài che dấu
không những sự uy nghi thần thánh của Ngài như Ngài đã làm lúc sống trên dương
gian và lúc chịu đóng đinh, mà còn che dấu cả nhân tính của Ngài nữa. Ngài trở
nên như một “đồ vật”, một mẩu bánh hay một vài giọt rượu, không còn sự hạ nhân
phẩm nào tệ hơn thế! Trong trạng huống Thánh Thể, Ngài hoàn toàn yếu đuối và
hoàn toàn lệ thuộc chúng ta. Ngài từng trao mình cho những Giuđa và những Phêrô
của Giáo hội Ngài, Ngài có thể bị chà đạp hay phạm thượng hoặc yêu mến và thờ
lạy. Ta hãy cân nhắc nhận xét của Calvin: “Nếu ta đặt Ngài dưới những yếu tố dễ
hư nát của dương gian… ta sẽ hủy diệt tận cùng niềm vinh quang của Lên Trời” (Tiểu
Luận về Bữa Tiệc Ly của Chúa).
1. Tuy nhiên, nếu ta chấp nhận luận
lý học trong tình yêu Thiên Chúa, một luận lý học vốn vượt quá các giới hạn của
luận lý học con người nhưng cùng một lúc thỏa mãn khát vọng thâm sâu nhất trong
tình yêu con người, ta sẽ nhìn ra, trong Thánh Thể, chính cái ánh sáng dấu ẩn
của tình yêu Thiên Chúa, niềm vinh quang của Lên Trời, một vinh quang chỉ được
mạc khải cho những con mắt đức tin. Chính sự Phục sinh và Lên trời của đức
Giêsu, sự biến hóa nhục thân Ngài bởi Chúa Thánh Thần, đã giúp Ngài ở với chúng
ta một cách vừa vượt quá các giới hạn không gian và thời gian vừa đảm bảo với
chúng ta Ngài sẽ hiện diện tại bất cứ thời điểm nào và nơi chốn nào, mỗi khi ta
cử hành Thánh Thể. Ngài hiện diện không những với chúng ta mà còn vào trong
chúng ta trong thực tại nhân thần của Ngài, trong trạng thái hiến tế cho Chúa
Cha, để, như lời thánh Inhaxiô thành Antôkia, sự hiệp nhất của ta với Ngài có
thể trở nên vừa nhục thân vừa thiêng liêng.
Luận lý học con người không thể giải
thích được điều trên. Thế nhưng nó có thể cho ta thấy sự hiện diện vô cùng đơn
giản và vô cùng thân mật kia của toàn diện con người đức Kitô trong ta là điều
tình yêu của con người, trong giây phút cao thượng nhất, từng khát mong nhưng
không thể đạt được. Các cặp tình nhân cố gắng hoài công hiến tặng người yêu
không phải chỉ là cái biểu trưng cho mình mà là chính cái chân thân tâm sinh lý
(psychosomatic) của mình. Chỉ một mình Thiên-Chúa-làm-người mới thực sự có thể
hiến trọn con người Ngài cho từng chi thể một của Cô Dâu Ngài là Giáo hội.
2. Chân lý cho rằng các yếu tố vật
chất của bánh và rượu đã biến thành nhân tính bị đóng đinh và được hiển vinh
của Chúa chúng ta có liên quan đặc biệt với bầu khí trí thức hôm nay, một bầu
khí trong đó, vũ trụ vật chất (mà thân xác chúng ta là một thành phần), đối với
người không tin, có thể là một đe dọa sống chết cho cuộc hiện sinh của họ. Việc
hoàn cầu nóng lên, các cơn bão trên mặt trời, các sao chổi trên đường có thể
đâm vào hành tinh trái đất chúng ta, cái già nua ngày một rõ của vũ trụ, là
cái, ở một điểm nào đó, kết cục sẽ đem lại cái chết rực lửa cho mọi sinh vật,
thẩy đều là những viễn tượng ta không thích đối diện, nhưng dù cho có cố gắng
dập tắt, chúng vẫn lẩn quẩn trong tiềm thức ta. Hơn nữa, mọi yếu tố từ bên ngoài
đi vào cơ thể ta đều có thể mang theo nó cái nguy cơ của một cơn bệnh chết
người. Như thế, thế giới vật chất xem ra hoàn toàn nhửng nhưng, nếu không muốn
nói là thù địch, đối với số mệnh bản thân ta. Nếu chỉ dựa vào các dữ kiện của
khoa học tự nhiên, một triết gia chỉ có thể xác nhận sự hiện hữu của một lý trí
sáng tạo đầy quyền năng, nhưng không thể xác nhận được gì về sự hiện diện của
một Thiên Chúa yêu thương, đấng hướng dẫn cuộc sống bản thân của ta đến chung
cuộc hạnh phúc. Trong bối cảnh cái “lo lắng” (“angst”) hiện sinh ấy, khía cạnh
vũ trụ luận của Thánh Thể quả có một ánh sáng mới. Không phải chỉ cuộc phục
sinh trong thân xác đức Kitô, nhưng cả sự hiện diện của Ngài, tỏa sáng qua các
yếu tố được truyền phép, đã mạc khải và bảo đảm với chúng ta rằng vũ trụ vật
chất của chúng ta và chính thân xác chúng ta không bị loại ra ngoài chương
trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Trái lại, theo những cách thế khác nhau, cả thân
xác sống lại, được thiêng liêng hóa, nhưng vẫn còn là vật chất của đức Kitô lẫn
các yếu tố đã được truyền phép của bánh và rượu đều mạc khải và thông truyền
cho ta sự hiện diện đầy chữa lành, đầy bản thân của Thiên Chúa Ngôi Con. Qua
Ngài, thân xác ta sẽ được biến đổi và được đặt trong một thế giới vật chất cũng
đã biến đổi, một tạo dựng mới có tính cánh chung, nơi đức Kitô sẽ là tất cả
trong tất cả (Col 3:11).
(1)
Thuật ngữ “về nguồn”
(ressourcement=trở về nguồn đức tin và đời sống Kitô giáo) do thần học gia Y.
Congar O.P. tạo ra. Thuật ngữ này đã trở thành khẩu hiệu của phong trào canh
tân thánh kinh học, giáo phụ học và phụng vụ học trong Giáo hội trước thời Công
đồng Vaticanô 2. Tuy nhiên, trong thập niên đầu sau Công đồng, nó đã bị lãng
quên, nhường chỗ cho việc mở cửa một chiều đối với thế gian.
Nguồn: VietCatholic
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét