KỸ NĂNG SÁNG TÁC CỬ ĐIỆU
MỘT BÀI HÁT SINH HOẠT GIÁO LÝ
I. PHÂN LOẠI VÀ NHẬN ĐỊNH:
Loại bài hát suông: Trong một số nghi thức như: câu chuyện dưới cờ, câu chuyện tàn lửa ở đất trại, tĩnh tâm cầu nguyện của giới trẻ, để giữ bầu khí thiêng liêng và một khoảnh khắc thinh lặng nội tâm, Linh Hoạt Viên yêu cầu mọi người đứng nghiêm trang, hướng dẫn vài lời đưa vào chủ đề, mời hát chậm rãi, vừa đủ nghe, không vỗ tay, không làm động tác hay cử điệu.
Ví dụ: Anh em chúng ta chung một đường lên, chung một đường lên đến nơi Nguồn thật...
Trong đêm u tối chúng ta ngồi quây quần, lửa hồng soi bóng...
Loại bài hát có vỗ tay: Trong sinh hoạt, để gây bầu khí vui tươi nhộn nhịp, Linh Hoạt Viên có thể đề nghị vỗ tay theo nhịp hoặc theo tiết tấu của bài hát, vỗ toàn bài hay chỉ vỗ cuối câu, hoặc chỉ vỗ ở một số từ nào đó trong câu thay vì hát thành lời.
Ví dụ: Tang tang tang tình tang tính, ta ca ta hát vang lên...
Vỗ tay, vỗ tay, cùng nhau hát mà vui cười...
Vỗ tay, vỗ tay, cùng nhau hát mà vui cười...
Loại bài hát có động tác: Trong sinh hoạt, Linh Hoạt Viên có thể dùng các động tác đơn giản, dứt khoát, kèm theo từng câu của Bài Hát Sinh Hoạt, thường là 4 động tác ( nếu là nhịp 2/4 và 4/4 ) hoặc 3 động tác ( nếu là nhịp 3/4 ) cứ lập đi lập lại, ăn với các phách mạnh nhẹ của câu nhạc. Loại bài hát này có tác dụng gây bầu khí sôi nổi, giúp thư giãn, tỉnh ngủ khi phải ngồi mỗi một chỗ đã lâu.
Ví dụ: Lu lu lá lù, lù lá lu là lu la lế...
Ta hát to hát nhỏ nhò nho...
Ta hát to hát nhỏ nhò nho...
Loại bài hát có vũ điệu: Loại bài dùng làm các tiết mục trình diễn của một Nhóm, một Đội, hay một toán bạn trẻ trên các sân khấu bỏ túi, văn nghệ quần chúng, hoặc trong các dịp đốt lửa trại. Vì mang nhiều tính nghệ thuật nên cần phải được tập luyện nhuần nhuyễn, đạt mức độ tương đối khá về nghệ thuật.
Ví dụ: Anh em ta về cùng nhau ta quây quần nè, 1 2 3 4 5...
Tình bằng có cái trống cơm khen ai khéo vỗ...
Tình bằng có cái trống cơm khen ai khéo vỗ...
Loại bài hát có cử điệu: Loại Bài Hát Sinh Hoạt đặc biệt này cho tới nay vẫn còn ít được sử dụng. Thật ra, dạng này rất dễ sáng tác, dễ lồng các cử điệu vào, lại dễ tập cho cả tập thể đứng vòng tròn hoặc ngồi hoặc đứng ngay trong lớp học. Mọi lứa tuổi đều có thể tham gia một cách hứng thú, sinh động, gây ấn tượng sâu xa nhờ ý nghĩa của lời hát được minh họa bằng các cử điệu đơn sơ gần gũi với đời sống thường nhật.
Ví dụ: Người khôn xây trên đá ngôi nhà chắc chắn và xinh...
Chiều nay em đi câu cá và mang rá theo bắt cua...
Có năm người ở Ô Không May, đó là người em chưa thương mến...
Thà rằng đốt lên ngọn lửa cháy, thà rằng đốt lên cây đèn sáng...
Chiều nay em đi câu cá và mang rá theo bắt cua...
Có năm người ở Ô Không May, đó là người em chưa thương mến...
Thà rằng đốt lên ngọn lửa cháy, thà rằng đốt lên cây đèn sáng...
II. ĐỊNH NGHĨA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Dáng điệu: Vẻ bề ngoài của khuôn mặt, của toàn thân mình luôn ăn khớp với nhịp độ của các động tác, của giai điệu bài hát cũng như ý tưởng từng lời của bài hát.
Vậy, Bài Hát có Cử Điệu chính là một dạng bài hát ngắn có kèm theo các cử chỉ và dáng điệu đơn giản rõ nét, để diễn tả tối đa nội dung của từng câu, từng ý trong bài hát.
III. GIÁ TRỊ CỦA CỬ ĐIỆU:
Các cử điệu mang tính cách tế nhị, kín đáo, lại vừa phong phú về mặt biểu hiện cảm xúc của người Đông Phương ( Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam... ) thì các cử điệu, dẫu không dùng đến lời nói, vẫn có thể diễn đạt nhiều ý tứ sâu sắc.
Thậm chí, các cử điệu còn được ứng dụng một cách tự nhiên trong việc giáo dục nhân bản và tâm linh không chỉ đối với trẻ em mà cho cả người lớn trong các mối tương quan với chính mình, với tha nhân, với thiên nhiên và với Thượng Đế. Cử điệu diễn tả lòng tri ân, sự kính trọng, quan niệm sống bác ái, vui tươi lạc quan... Cử điệu giúp bầy tỏ những tính cách và ước nguyện kín ẩn của nội tâm như vâng phục, khiêm tốn, hồn nhiên trong sáng... Với tín ngưỡng, cử điệu có thể thay cho một lời tuyên xưng về các nhân đức như xác tín, phó thác, yêu mến...
IV. CHUẨN BỊ CHO MỘT BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU:
Để đạt được thành công, Linh Hoạt Viên cần ý thức về bầu khí, về khung cảnh, về đối tượng tham gia, về mục tiêu nhắm tới để chuẩn bị cho xứng hợp. Cần chú ý các yếu tố sau đây:
Về Bài Hát Sinh Hoạt: nên sáng tác hoặc chọn các bài hát ngắn, cân phương, 4 hoặc 8 câu, có âm vận, có ý tứ đơn giản dễ thương, trải ra trong 16 trường canh, theo nhịp 2/4 tươi tắn khỏe mạnh hoặc nhịp 3/4 duyên dáng nhẹ nhàng.
Về cử điệu kèm theo: mỗi câu hát chỉ nên chọn minh họa bằng 1 hoặc 2 cử điệu đơn giản, nhịp ăn khớp với tiết tấu nhạc, thường sử dụng các ngón tay, bàn tay, cánh tay, phối hợp với động tác chân và sự di chuyển thân mình, đồng thời hài hòa với ánh mắt và nét mặt.
Về tập thể tham dự: nên chọn hình thức vòng tròn cho sinh hoạt ngoài trời, bán cung nếu nhắm đến một nghi thức như cầu nguyện, tĩnh tâm, cũng đôi khi phải ứng biến ngay trong lớp học.
Về Linh Hoạt Viên: nên hát mẫu kèm theo cử điệu mẫu một cách chậm rãi rõ ràng, tập cho tập thể, sau đó làm nháp và chính thức. Có thể cho điểm số 1–2, nếu cần có các cặp làm cử điệu đối xứng. Có thể giới thiệu ý nghĩa bài hát trước hoặc sau khi đã cùng làm.
V. DIỄN XUẤT CÁC CỬ ĐIỆU:
Linh Hoạt Viên đòi hỏi có nhiều sáng kiến, biến báo và có tâm hồn sâu sắc, giàu cảm xúc, nên có thể dễ dàng chọn, sáng tác và thể hiện các cử điệu cho đúng ý nghĩa, cân đối, duyên dáng, đạt mức nghệ thuật tối thiểu. Dưới đây là một số nguyên tắc cần lưu ý về các cử điệu:
Thống nhất đầu-cuối: nhanh hay chậm, dí dỏm hay trang trọng, sôi nổi hay dịu dàng, sao cho thích hợp với nội dung và tính cách của bài hát, tuy vậy đôi khi vẫn có thể thay đổi nhịp độ và tiết điệu để gây ấn tượng, đồng thời kết hợp các tiếng hò, tiếng hô, tiếng gọi, băng reo để tạo bầu khí sinh động.
Thứ tự trái-phải: tay trái thường làm trước tay phải, chân trái cũng bước trước chân phải, do vậy thân mình cũng quay sang trái trước rồi quay sang phải sau.
Đối xứng trước-sau: cử điệu thường sẽ được đưa lên rồi lại đưa xuống đưa sang trái rồi lại đưa sang phải, vươn tới trước rồi lại thu về phía mình, mở rộng ra ngoài rồi lại kéo vào trong.
Với 3 yếu tố căn bản nêu trên, các cử điệu cần phải liền lạc, không đứt quãng đột ngột, tất cả làm thành một chu kỳ diễn tiến hài hòa, đẹp mắt mà lại có ý nghĩa.
VI. HIỆU QUẢ CỦA BÀI HÁT CÓ CỬ ĐIỆU
Bài hát có cử điệu thường được các Linh Hoạt Viên vận dụng nhằm các mục đích như sau:
Xáo trộn vị trí: một số bài có cử điệu sẽ khéo léo xáo trộn chỗ của mỗi người trong vòng tròn một cách tự nhiên, không gượng ép, tránh được việc cụm lại thành các Nhóm nam-nữ riêng rẽ.
Gây dựng bầu khí: bài hát có cử điệu luôn tạo được sự vui tươi linh hoạt, làm nên tâm tình hiệp nhất trong tập thể, xóa nhòa mọi cách biệt tuổi tác, phái tính, trình độ và tâm lý bỡ ngỡ hoặc khép kín trong các dịp họp mặt, lửa trại, sinh hoạt vòng tròn ngoài trời...
Góp phần giáo dục: bài hát có cử điệu chuyển tải được các nội dung giáo dục hướng thượng và vị tha một cách nhẹ nhàng mà lại thấm thía, tránh được kiểu nói nặng về huấn đức khô khan.
Minh họa sứ điệp: bài hát có cử điệu trong Giáo Lý thường là các bài ca ý lực, diễn ý các câu Lời Chúa, diễn tả cách đơn giản các mệnh đề tín lý và luân lý, có thể dùng trong sinh hoạt hoặc cầu nguyện ở đầu, ở giữa hay ở cuối tiết dạy Giáo Lý.
Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 1
Nguồn: http://www.trungtammucvudcct.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét