VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 12 TN NĂM B
Mc 4,35-41
TIN
MỪNG
Đức
Giê-su dẹp sóng gió (Mt 8:23 -27; Lc 8:22 -25 )
35 Hôm
ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên
kia đi! "36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn
trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.37 Và một trận cuồng phong
nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.38 Trong khi đó, Đức
Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức
Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì
sao? "39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm
đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.40 Rồi Người bảo các ông:
"Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? "41 Các ông
hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng
tuân lệnh? "
35 On that day, as evening drew on, he said to
them, "Let us cross to the other side."
36
Leaving the crowd, they took him with them in the boat just as he was. And
other boats were with him.
37 A
violent squall came up and waves were breaking over the boat, so that it was
already filling up.
38
Jesus was in the stern, asleep on a cushion. They woke him and said to him,
"Teacher, do you not care that we are perishing?"
39 He
woke up, rebuked the wind, and said to the sea, "Quiet! Be
still!" The wind ceased and there
was great calm.
40 Then
he asked them, "Why are you terrified? Do you not yet have faith?"
41 They were filled with great awe and said to
one another, "Who then is this whom even wind and sea obey?"
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 4,41
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Đức Giêsu và các môn đệ sang
bờ bên kia lúc nào? (Mc 4,35)
a.
Chiều đến.
b. Chập
tối.
c. Nữa
đêm.
d. Canh
tư.
02. Khi trận cuồng phong nổi lên,
Đức Giêsu đang làm gì? (Mc 4,38)
a. Cầu
nguyện
b. Chuyện
trò với các môn đệ.
c. Dựa
đầu vào chiếc gối mà ngủ.
d. Giảng
dạy dân chúng.
03. Ai đã đánh thức Đức Giêsu dậy?
(Mc 4,38)
a. Các
tư tế.
b. Các
kinh sư.
c. Các
môn đệ.
d. Đám
đông.
04. Ai đã làm cho gió im và biển
lặng? (Mc 4,39)
a. Thiên
Chúa.
b. Ông Môsê.
c. Đức
Giêsu.
d. Ông
Giôna.
05. Khi thấy Thầy làm cho gió tắt,
biển lặng như tờ, các môn đệ có thái độ gì? (Mc 4,41)
a. Vui
mừng.
b. Xôn
xao.
c.
Hoảng sợ.
d. Kinh
ngạc.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Khi trận cuồng phong nổi lên,
Đức Giêsu đang ở đâu? (Mc 4,38)
02. Ai đã đánh thức Đức Giêsu dậy?
(Mc 4,38)
03. Khi trận cuồng phong nổi lên,
Đức Giêsu đang làm gì? (Mc 4,38)
04. Đức Giêsu truyền cho biển câm
đi, biển liền thế nào? (Mc 4,39)
05. Đức Giêsu ngăm đe gió, gió
liền thế nào? (Mc 4,39)
06. Ai đã làm cho gió im và biển
lặng? (Mc 4,39)
07. Khi thấy Thầy làm cho gió tắt,
biển lặng như tờ, các môn đệ có thái độ gì? (Mc 4,41)
Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Vậy
người này là ai,
mà cả đến
gió và biển cũng tuân lệnh?"
Tin Mừng thánh Máccô 4,41
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 12 TN NĂM B
Tin Mừng thánh Máccô 4,35-41
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Giữa biển bao la
*
Câu Tin Mừng thánh Máccô 4,41
Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển
cũng tuân lệnh? "
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. a. Chiều đến
(Mc 4,35)
02. c. Dựa đầu vào
chiếc gối mà ngủ
(Mc 4,38)
03. c. Các môn đệ
(Mc 4,38)
04. c. Đức Giêsu
(Mc 4,39)
05. c. Hoảng sợ
(Mc 4,41)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Đàng lái (Mc
4,38)
02. Môn đệ (Mc 4,38)
03. Ngủ (Mc 4,38)
04. Lặng như tờ
(Mc 4,39)
05. Tắt (Mc 4,39)
06. Đức Giêsu (Mc
4,39)
07. Hoảng sợ (Mc
4,41)
Hàng dọc: Lòng Tin
GB.NGUYỄN THÁI
HÙNG
CHÚA NHẬT 12
THƯỜNG NIÊN - B
Trong đời ta gặp nhiều
trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để
nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến
nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng
khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có
nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là
khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ
muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại.
Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh
khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng
không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì
sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào
đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy
ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm
sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa
phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa
muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu
ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó.
Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi
Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn.
Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi
không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt
hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa
muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc
đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên
mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi
đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp
ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới
biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình
cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn
chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến
biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp
ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết
rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết
yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những
việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp
nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta
mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá
sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin
vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời
gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi,
các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít
lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng
gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể
thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn
luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy
trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh.
Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và
tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành
cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta
bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2) Thử thách giúp ta
trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế
nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
Đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van
xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu
chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể
lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không
hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào
có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin
ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất
phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật
vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm
nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng
như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc
nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không.
Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những
người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin
Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một
ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã
ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các
cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của
mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã
quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng
ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta
kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại
không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa
cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an
toàn.
Chúng ta cũng giống
như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta.
Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ
con.
Người ta tổ chức những
cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm
nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta
có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và
người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa,
người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội.
Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện
diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa
trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì
không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không
hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu
có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như
thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài
giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy
lời giải đáp.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các môn đệ gặp trận
cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất
lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp
đỡ.
Cuộc đời nào tránh
được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng
thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối,
chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến
với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. "Chúng con chết
mất!"
Cái chết thể lý và cái
chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của
những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao
Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới?
"Mà Thầy không lo sao?". Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta
cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ
khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy,
ra lệnh cho gió và biển: "Câm đi! Im đi!". Gió ngừng ngay và biển
lặng xuống.
Sự lặng đi của biển
đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay
xa.
Nhưng chúng ta không
đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải
vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều,
và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại
kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một
con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn
đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép
lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin
thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi
biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít
nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu
chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho
bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa
tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ
hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất
uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt
tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng,
lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có
giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi
muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm
công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi
những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe
lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam
mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự
cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh
thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tng’ – Charles E. Miller)
Chiếc tàu Titanic được
chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng
ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của
Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại
dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống
như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm
sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được
xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm
chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của
Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết
họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của
biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở
685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn
không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn
nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những
gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở
trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên
đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng
và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi
những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà
làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết
Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu
hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách
giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết
rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta,
Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự
sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai
một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp,
sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô
độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng
Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã
giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải
thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay,
bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con
khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta
nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả
đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu
như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm
xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị
đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính
Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của
cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với
chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách
tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng
con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng,
không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến
từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy
im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta
là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát
chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
và sự yên tĩnh của
Thiên Chúa – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giai thoại bão táp yên
lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại”
trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một
sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép
của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu
ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là
khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ
trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong
trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống
Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của
Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống
Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ
khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên
Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức
Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có
khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều
trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng
con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho
thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị
Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ
Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn
bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như
thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp
đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào
thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy
có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức
thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người
hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ
không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải
những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên
Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự
nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm
tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền
gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của
chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và
cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm
lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền
đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong
nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có
khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như
tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con
không có đức tin ư?’.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
John Newton là con
trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó
cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển
khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi
lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng
buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng
bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến
việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích
kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả
cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão
dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng
chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng
kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu
không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu
Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin
của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời
hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục
sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà
giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm
động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của
cậu.
Giống như Newton, các
Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên
cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến
đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau:
“Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây
chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc
1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá,
chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho
chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu
cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui
sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn
Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc
Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió.
Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta
thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ
quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế
các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước
là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ
muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên
Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một
thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ,
nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức
hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường
nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều
khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó.
Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã
vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí
hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong
ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin
không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công
học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người
“giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn
đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể
gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống.
Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai
bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy
thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con
không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng
những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với
tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong
niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho
chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm
can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận”
cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không
tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ
sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?”
phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng
thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn
cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả
trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai,
đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua
bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai”
(2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là
ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá
đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”,
bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là
yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy
lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền
trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì
dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai
quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin
Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là
người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân
theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin
để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy
chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng
Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
Một sĩ quan người Anh
cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì
bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ,
nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách
ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một
lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái
mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi:
- Thấy mũi kiếm sắp
đâm vào người mà em không sợ sao?
- Việc gì em phải sợ?
Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt
anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này
cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ
mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi
ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn
tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết
Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các
ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông
chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say
để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng
mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa
qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa
vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc,
những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa
đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi,
chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa,
bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên
nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên.
Tuy hoảng sợ, các môn
đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy,
chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên,
quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển
lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”.
Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình
trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi
chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách
phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà
Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho
chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin.
Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con
an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con
vững dạ an lòng (Tv 23,4).
Chúng ta phải liên lỉ
băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta.
Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng
trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có
được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường
chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu
của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến
nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết
được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta
nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống
đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu
chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho
mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng
gió.
Không chút do dự các
tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa.
Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo
giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là
giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con
chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp
dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những
lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các
môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành
những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó
khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự
tính.
Thế giới này trong đó
chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như
thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong
một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ
điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin
Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ
buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ
còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ
mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi
đức tin.
Giữa cơn giông tố, các
tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết
quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ:
“Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có
thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại
tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục
Ngài?”.
Không phải một sớm một
chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải
qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong
bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ
bên kia. Đây là một điều kiện
phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an
toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy
rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc
nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển
động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ
về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn
luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ
của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia
trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối
cùng.
Coi chừng những cuộc
sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động.
Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và
chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức
tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
Qua hình ảnh mặt biển
dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng
trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc
chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những
cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ
ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm
hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có
quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì
thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy
cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn
là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là
một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà
người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão
táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường
bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng
phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại
sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự
quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã
đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo
hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng,
chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc
Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh
giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại
chúng ta.
Thánh nữ Cartarina
Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu
khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để
giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa
những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến
và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu
chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm
thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một
pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và
làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn
áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng
xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng
ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu
giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
Rufus Jones có thuật
lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn
bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không
sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha
cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay
cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở
khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn
trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng
tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên
khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con
vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức
tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy”.
Chúng ta không luôn
luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng
ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị
những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn
thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác
vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách
lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến
với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và
an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và
vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở
con”.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản
thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách
nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối
toàn bộ cuộc sống của con.
Hồ Tibêria nằm ở mạn
bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển
Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa
Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế,
các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất
thường.
Cựu Ước ít nhắc tới
Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã
làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng
hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng
chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng
thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra
về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi
thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật
mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các
môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão
trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon
lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn
biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản
lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các
ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức
Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có
quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có
lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được
chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ
các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng
đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền
mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên,
Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình
thường.
Qua phép lạ này, Chúa
Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng
thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được
sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều
tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn
bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa
Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để
cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ
gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này,
con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của
những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết
thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở
cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần
gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà
Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội
luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn
sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu
luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội
vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo
hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp
phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn
năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do
là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của
các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng
thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người
chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì
Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc
sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ
khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và
trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là
bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau
con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi,
điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão
tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy
lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng
con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
Cuộc ra khơi nào cũng
chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm
bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho
con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và
biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực.
Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước
những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí
nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh
trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên
nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn
cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư
dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy
trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con
cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ
bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra
khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi
còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã
từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông
bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật
mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được
những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất
trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào
đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng.
Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ
đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu?
Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể
làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao
duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến
kêu cầu Thầy: "Thầy ơi, chúng con chết mất!". Đó là tiếng kêu từ thẳm
sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên
sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu
cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong
đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương.
Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như
muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời
oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một
mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời
vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. "Xin cứu chữa
chúng con, Chúa ơi!".
Vâng, cuộc đời vẫn còn
đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành
trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín
thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những
thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi
trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy
tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa,
Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu
là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin
thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta.
Amen.
Trên con đường theo
Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông
vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép
lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm
sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma,
đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói,
cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc
tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1,
35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp
khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn
vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật
nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền
năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ
sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin
sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC
MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm,
các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những
phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để
làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa
cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn
tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến
việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi
trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian
của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh
phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của
các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ
diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to,
sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt,
xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy
chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời
truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu
thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc
Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà
ngủ?
Thực ra khi gió to,
biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông
xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con
chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của
các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ
say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa
truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế?
Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của
các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay
biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện,
khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn
chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống
này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của
dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao
Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ
rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải
thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong
thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN
ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực
của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng
của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào
Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy
tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa
trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận
cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người
khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình
đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin
chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều
dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và
khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên
chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp
vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các
môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ
Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả
đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta
trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm
đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền
và hay thương xót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét