VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 19 TN B
Tin Mừng thánh Gioan 6,41-51
41 Người
Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: "Tôi là bánh từ
trời xuống."42 Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông
Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói:
"Tôi từ trời xuống? "43 Đức Giê-su bảo họ: "Các ông đừng có xầm
xì với nhau!44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi,
không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.45
Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy
dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.46
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa
mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.47 Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin
thì được sự sống đời đời.48 Tôi là bánh trường sinh.49 Tổ tiên các ông đã ăn
man-na trong sa mạc, nhưng đã chết.50 Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai
ăn thì khỏi phải chết.51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này,
sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho
thế gian được sống."
41 The Jews murmured about him because he said, "I am the
bread that came down from heaven,"
42 and they said, "Is this not Jesus, the son of Joseph? Do
we not know his father and mother? Then how can he say, 'I have come down from
heaven'?"
43 Jesus answered and said to them, "Stop murmuring among yourselves.
44 No one can come to me unless the Father who sent me draw him,
and I will raise him on the last day.
45 It is written in the prophets: 'They shall all be taught by
God.' Everyone who listens to my Father and learns from him comes to me.
46 Not that anyone has seen the Father except the one who is
from God; he has seen the Father.
47 Amen, amen, I say to you, whoever believes has eternal life.
48 I am the bread of life.
49 Your ancestors ate the manna in the desert, but they died;50
this is the bread that comes down from heaven so that one may eat it and not
die.
51 I am the living bread that came down from heaven; whoever
eats this bread will live forever; and the bread that I will give is my flesh
for the life of the world."
I. HÌNH
TÔ MÀU
*Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
* Em
hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 6,-51
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
II.
TRẮC NGHIỆM
01.
Người Do thái xì xầm phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói gì?
(Ga 6, 41)
a. “Tôi là Con Thiên Chúa”
b. “Tôi là sự sống lại”
c. “Tôi là bánh từ trời xuống”
d. “Tôi là sự sáng thế gian”
02. Đức Giêsu
nói: ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì … … … (Ga 6,45)
a. Có sự sống mới
b. Sẽ đến với tôi
c. Được giải thoát trong ngày sau hết
d. Được cứu độ
03.
Đức Giêsu nói với người Do thái, ai tin thì được điều gì? (Ga 6,47)
a. Sự sống đời đời
b. Chúa Cha thương mến
c. Đất làm gia nghiệp
d. Hưởng Nước Trời
04.
Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, để ai ăn thì … … … (Ga 6,50)
a. Khỏi phải chết
b. No đủ muôn đời
c. Không phải khát
d. Cả a, b và c đúng
05.
Đức Giêsu nói: bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, … … … (Ga 6,51)
a. Được ban cho các ngươi
b. Để cho thế gian được sống
c. Được ban cho muôn người
d. Để ai ăn thì được sống
III. Ô
CHỮ
Những
gợi ý
01. Đức
Giêsu nói ngài là gì từ trời xuống? (Ga 6,41)
02.
Những ai đến với Đức Giêsu thì Ngài sẽ làm gì cho họ trong ngày sau hết? (Ga 6,44)
03.
Đức Giêsu là bánh gì từ trời xuống? (Ga 6,51)
04.
Đức Giêsu nói chẳng ai đến được với ngài nếu ai không lôi kéo người ấy? (Ga 6,44)
05.
Người nào phản đối xì xầm vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống” ?
(Ga 6,41)
06.
Người do thái nói Đức Giêsu là con của ai? (Ga 6,41)
07.
Đức Giêsu nói: bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho ai được sống?
(Ga 6,51)
08.
Đức Giêsu là bánh hằng sống từ đâu xuống? (Ga 6,50)
09.
Những ai tin vào Đức Giêsu thì được sự sống gì? (Ga 6,47)
10.
Ai là bánh hằng sống từ trời xuống? (Ga 6,41-51)
Hàng
dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Tôi là
bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời.
Tin Mừng thánh Gioan 6,-51
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 19 TN B
Tin Mừng thánh Gioan 6,41-51
I. HÌNH
TÔ MÀU
*Chủ đề :
Bánh
bởi trời
* Câu Tin Mừng thánh Gioan 6,-51
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn
bánh này, sẽ được sống muôn đời.
II.
TRẮC NGHIỆM
01.
c. “Tôi là bánh từ trời xuống”
02.
b. Sẽ đến với tôi (Ga 6,45)
03.
a. Sự sống đời đời (Ga 6,47)
04.
a. Khỏi phải chết (Ga 6,50)
05.
b. Để cho thế gian được sống (Ga 6,51)
III. Ô
CHỮ
01.
Bánh (Ga 6,41)
02.
Sống lại (Ga 6,44)
03.
Hằng sống (Ga 6,51)
04.
Chúa Cha (Ga 6,44)
05.
Do thái (Ga 6,41)
06.
Giuse (Ga 6,41)
07.
Thế gian(Ga 6,51)
08.
Trời (Ga 6,50)
09.
Đời đời (Ga 6,47)
10.
Đức Giêsu (Ga 6,41-51)
Hàng
dọc : BÁNH TỪ TRỜI
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Bánh bởi trời
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Cuộc đời tiên tri Êlia là một
cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại
cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng
vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần
Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì
chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay,
đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời.
Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa
cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn
đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho
người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi
tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta
cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt
qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn.
Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn
con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn
con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã
ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là
Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được
thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là
Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma
quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do
miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện.
Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống
của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha:
“Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua
trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa
trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà
góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại
tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả
những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ
tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú,
dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ
Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.
Ban Lời hằng sống chưa đủ với
tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người
trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha
thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn
kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn
ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương
thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh
dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở
nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời
trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong
đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả
hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy
dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường
đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với
những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta
cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe
để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng
nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự
sống.
Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt
sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng
nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức
mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn,
biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên
đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu
thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh
trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
Nói thẳng về một sự thật sống động
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller)
Đôi
khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa
nhân lành; tội lỗi thì xấu xa, đơn giản là nhưng câu nói trực tiếp những gì
thật sự là quan trọng trong đời sống làm cho chúng ta dừng lại hoặc làm chúng
ta chú ý.
Trong
hội đường Caphanaum Chúa Giêsu đã quyết định nói thẳng về bản chất của một sự
thật cốt yếu. Ngài đã muốn cho những thích giả của Ngài chú ý. Ngài muốn cho
chúng ta dừng lại để suy nghĩ về chân lý nơi những lời của Ngài.
Ngày
hôm trước, Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông dân chúng với năm chiếc bánh, Ngài
đã trông đợi họ nhìn thấy phép lạ này như một dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ
một điều gì đó hơn nữa, một điều gì đó lớn hơn là bánh cho toàn thể thế giới.
Ngài sẽ hiến tặng chính mình Ngài để làm của ăn thiêng liêng.
Những
người lãnh đạo trong dân đã không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ
chỉ thấy Ngài là một người quá bình thường mặc dầu những dấu hiệu Ngài đã ban
cho họ trong việc hoá bánh ra nhiều. Họ vẫn giữ ý kiến: “Ông này không phải là
Giêsu con ông Giuse sao? Không phải chúng ta đã biết cha và mẹ của ông ấy sao?”
Chúa
Giêsu đã nghe những lời bàn tán đồn thổi nhưng không hề giận về điều ấy và Ngài
từ chối cúi mình, coi thường sự làm ngơ của họ. Ngài nhấn mạnh: “Ta là bánh
hằng sống từ trời xuống. Hễ ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.” Tiếp đó với
lời lẽ đơn giản trực tiếp, một tuyên bố chứa đựng một chân lý cốt yếu cho đức
tin Công Giáo của chúng ta, một lời loan báo được thúc đẩy bằng một sự quan tâm
đáng yêu của một Thiên Chúa nhân lành. Một lời tuyên xưng của giáo lý mà nhưng
người nam và những người nữ qua muôn thế hệ đã hiến dâng mạng sống mình để tử
đạo, để bảo vệ một lời hứa đã tiết lộ tình yêu tuyệt vời nơi trái tim của Đức
Kitô. Chúa Giêsu nói: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được
sống”.
Không
có lời nào thẳng thắn hơn. Không có điều gì diễn tả một cách rõ ràng hơn. Tất
cả đã không phải là một sự hùng biện. Chúa Giêsu không nói bánh thì giống như
là Thịt của Ngài, điều đó sẽ gợi lên nhắc nhở đến thịt của Ngài. Ngài nói một
cách rất rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được
sống”.
Chúa
Giêsu đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài chịu nạn. Vì các
môn đồ của Ngài và các môn đồ kế tiếp đã đi theo Ngài, đang theo Ngài và sẽ
theo Ngài đến tận cùng thế giới, Ngài đã thiết lập hy tế Thánh nhân, mọi người
của mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá, đã được kêu gọi tới bàn của Chúa chúng ta.
Hạnh phúc biết bao cho những người được mời đến, và phúc cho những ai đã đáp
trả lời mời gọi đó trong đức tin. Bánh và rượu với những hình thức bên ngoài
của Thánh Thể, có vẻ quá bình thường, đơn giản trong đôi mắt của nhiều người
nhưng đối với những người có đức tin, họ nhìn thấy đây là một đặc ân rất lớn
lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người.
Chúng
ta cầu nguyện xin lương thực này, chúng ta không phải chỉ xin thực phẩm duy trì
sự sống của chúng ta trên mặt đất này nhưng còn là của ăn trên trời, thức ăn mà
sẽ dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Chúng ta không làm điều gì lầm lạc, chúng
ta tiếp tục trung thành với đức tin Công Giáo của chúng ta, bánh mà Đức Kitô đã
ban chính là Thịt và Máu của Người để cho thế gian được sống.
Ai được Cha giáo hóa thì đến với Ta
(Suy niệm của Noel Quesson)
Hồng y Niu-mân trước kia theo Anh giáo. Người là một chức
sắc cao cấp, được trợ cấp hàng năm một ngân khoản rất lớn. Thế mà sau một thời
gian lâu dài suy nghĩ, cuối cùng người đã quyết định xin trở lại Công giáo. Một
bạn thân của Niu-mân khuyên:
- Bạn phải suy nghĩ cẩn thận, nếu cải giáo, bạn sẽ mất
hết số lương bổng hàng năm.
Niu-mân hiên ngang trả lời:
- Ngân khoản trợ cấp và bổng lộc là gì, so với một lần
tôi được rước lễ?
Có được tâm tình đó, hẳn Niu-mân phải được ơn Chúa soi
sáng hướng dẫn. Thực vậy, thiếu ơn Chúa, chẳng những người ta không hiểu nổi
mầu nhiệm Chúa Giêsu mà còn thấy khó chịu khi nghe Chúa nói. Bởi lẽ chỉ có
Thiên Chúa mới hiểu được Thiên Chúa và có khả năng giúp con người hiểu biết
Thiên Chúa mà thôi.
Chính Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta những mạc khải
sâu xa nhất về Thiên Chúa mà Cựu Ước chỉ nói tới rất mơ hồ. Chúa Giêsu giáng
trần đã đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng nếu không có Thiên Chúa
trực tiếp soi sáng và dạy bảo, làm sao chúng ta hiểu nổi điều đó? Từ ngàn xưa,
Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ và các biến cố lịch sử mà chuẩn bị tâm hồn con
người đón nhận Chúa. Nhưng người Do Thái không thành tâm thiện chí tiếp thu lời
Chúa dạy qua Kinh Thánh, nên khi nghe Chúa Giêsu nói về Người là “Bánh từ trời
xuống”, họ liền tức bực nói: “Lẽ nào ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta
ăn sao?”.
Những ai là người đã được Thiên Chúa giáo hóa? Đó là
những mục tử vùng Bêlem, các đạo sĩ Đông phương, Simêon, Anna, Gioan Tẩy giả… Chúa Giêsu đã xếp những người này vào
loại được Thiên Chúa giáo hóa, và cho họ biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế từ
trời xuống, là Con Thiên Chúa thật. Người là Ngôi Lời, là lương thực nuôi sống
linh hồn chúng ta, như cơm bánh nuôi thân xác ta vậy: “Người ta sống không
nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa nói ra” (Mt 4,4).
Ai đón nhận và thực thi lời Chúa, sẽ được sống vĩnh viễn.
Còn ai không đón nhận sẽ chết muôn đời. Tin Mừng trong lễ hôm nay, Chúa nói về
Thánh Thể, đồng thời cũng nhấn mạnh về Lời Chúa, cốt cho chúng ta dứt khoát lập
trường, đón nhận Chúa hoặc từ chối Chúa, tin hoặc không tin Lời Chúa dạy. Chúa
khẳng định Chúa là “Bánh hằng sống” không phải là hình ảnh hay ẩn dụ nhưng là
bánh thật cho cuộc sống tâm linh của mọi tín hưũ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đón nhận Lời Chúa
hằng ngày để được Chúa giáo hóa. Lời Chúa là sự sống tâm hồn chúng con, là ánh
sáng dẫn đưa chúng con đến cuộc sống muôn đời.
Chú giải của Noel Quesson
BÁNH HẰNG SỐNG
Người Do Thái liền xầm xì phản
đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống".
Họ nói: "ông này chẳng phải
là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây
giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng
qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong
Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những "thính giả đầu tiên"
của Đức Giêsu đã "phản đối" khi họ nghe nói về “Thánh Lễ" chắc
điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu
nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như
người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời
Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy
khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn
nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo
"lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh
đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan
điểm hợp lý mà thôi. "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống". Đây là cao
vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta
biết rõ cha mẹ . Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự
khước từ “bánh bởi trời"?
Đức Giêsu bảo họ: "Các ông
đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã
sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong
ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được
Thiên Chúa dạy dỗ".
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng
trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường
gọi là "ân sủng" hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để
thấu 'hiểu được những việc của Thiên Chúa, để "đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có
Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé
nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là
Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta.
Phải đón nhận "Lời Chúa", lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức
Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ "chẳng có gì hấp
dẫn", bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu
lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay
mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của "sự hiện diện", tiếng Hêbrơ gọi
là "Shekinnar" có nghĩa là "sự cư ngụ thực sự" của Thiên
Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ?
Nhạc "bình ca" hay nhạc "tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ
cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những
bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là
Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một "hồng phúc của Thiên
Chúa". Một thứ ân sủng: "Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở
rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa".
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì
sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất
tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người
khẳng định:
- Vai trò ưu tiên của "ân
sủng", một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc
chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha "lôi
kéo", "dạy bảo” và "đề nghị". Nhưng con người có thể
"lắng nghe" và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận
"lắng nghe lời dạy của Chúa Cha" mới có thể bước vào mầu nhiệm
"Bánh hằng sống". Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức
Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: "Có một số người được Chúa
Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: "Tất cả họ đều
được Thiên Chúa dạy dỗ". Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự
khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi
người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. "Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp" (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón
Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng...
Không phải là đã có ai thấy Chúa
Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa
Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn
mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ
thuật hay chính, trị. "Ngôi vị Thiên Chúa" đã đột nhập trong lịch sử
nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là "Đấng duy
nhất" biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên
Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ
thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối,
của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan
điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một "lỗ hổng"... một sự mở
rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể
đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao
giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói.
Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa,
thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh
hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải
tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ
hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới
hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời.
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu
như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ
như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um
trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra
ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc "sáng tạo đầu tiên từ hư
không".
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại:
"Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: "Tôi sẽ cho người ấy sống
lại".
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng
định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là "Đấng hiện hữu
YAHVEH". Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ
chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do
Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói:
"Tôi hiện hữu”, "Tôi là Bánh hằng sống".
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong
sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi
phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống
muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề "sự
sống". Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống" (o artos tès zoès) bây
giờ Đức Giêsu nói về "Bánh hằng sống" (o artos ozôn). Cuốn sách đầu
tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng
Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do "cây hằng sống" mà con
người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối
cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết
nữa. "Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa".
Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định
với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự
“bất tử", sự sống không chết "này nhờ đức tin" đã được ban cho
những người, không còn phải ăn "cây hằng sống”, nữa mà là "bánh hằng
sống": Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh
Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm
vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình": Không ai
đã thấy cái "vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một "sự
sống" vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực "lý trí". Nhưng tại
sao chúng ta không để cho "Chúa Cha dạy bảo"? Tại sao chúng ta lại
không tin Người?
Từ chối sự "dâng hiến"
siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho
hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: "Cái gì
bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt" (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại
không can thiệp để "ban cho" chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của
Người?
Lạy Chúa này đây tay chúng con
đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là
thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là
vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên
Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên "cảm thấy
được"; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được
hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng
hành động: "Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu
trọn vẹn .
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời
Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng
ta.
Chú giải của Fiches Dominicales
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ
TRỜI XUỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bỏ qua “những lời sầm xì phản
đối”
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm
hiểu bài 'diễn từ về Bánh hằng sống" đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật
trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: "Tôi là bánh từ trời xuống”.
Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác:
đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được
no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là
"Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng
bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống . Chúa
nói tiếp: "Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao
giờ”.
Lời tuyên bố này vì có tính cách
thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ
đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của
cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.
Những điềm báo trước sự đổ vỡ này
được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:
- Trước tiên đã có sự thay đổi từ
vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ "đám đông" hoặc "dân
chúng" để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những
người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái
chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những
người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám
chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
Thứ đến là việc lặp đi lặp lại
hai động từ "xầm xì phăn đối" để nêu bật những phản ứng tiêu cực
trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu.
Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến
thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X. Léon-dufour
giải thích: "Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên
cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế
hệ của những người trong sa mạc xưa: "họ xì xầm, phản đối”, những khác nào
cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu
trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản
văn là sự thiếu lòng tin (...) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn
đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã
phản đối Đức Giavê vậy". Có thể là Gioan thích dùng động từ "xì xầm
phản đối" hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý
rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính
Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha
sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người" ("Lecture de
l'evangile selon Jean"; cuốn 11, trang 152).
Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ
đưa ra: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông
ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ
nghĩ bụng: "Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi,
nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được
chăng?”
2. Tiếp đến lòng tin vào Đức
Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.
Không những không nhẹ giọng, Đức
Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ
mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ
trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về
liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học
cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không
phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo
mới đến được với Đức Kitô thôi: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được
Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.
Dựa vào những lời hứa và hình ảnh
tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy
nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.
Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng
Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: "Mọi người sẽ được chính
Thiên Chúa dạy dỗ" (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc
Đức Giêsu khẳng định - lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính
bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy
dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là
"con ông Giuse" chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các
ngôn sứ loan báo trước.
Manna, lương thực lạ lùng đấy,
nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức
Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là "bánh hằng sống”, bánh
đem lại phúc trường sinh: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng
đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: "Bánh tôi sẽ ban
tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái
chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang
phần hai của "Diễn từ về Bánh hằng sống" chúng ta sẽ đọc vào Chúa
nhật tới.
A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng:
"Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không
thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa
ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc
khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh,
cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ
ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí
tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí
tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức
Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sâu thẳm lòng tin"
(Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous
avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).
Những lời Chúa nói gây nên trong
đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ
chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người
Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy.
Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông
Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức
Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của
ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu
nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên
cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật.
Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm
này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách
khá rõ ràng.
Đây là một vấn đề luôn có tính
thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp
nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ
ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa
Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa
Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất
người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải "đến
với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ
khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong
ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời:
"Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là
một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông
theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả
vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh
quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để
Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên
ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm.
Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu
Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn.
Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần
gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người
2. “Chúng ta có tránh khỏi sầm xì
không”.
(H.Vulliez, trong "Dieu si
proche, Năm B", Desclée de Brouwer, tr. 137).
Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to
nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn
những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ
khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc
"những củ hành và miếng thịt" của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ
phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.
Thực ra chính là họ đứng lên
chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ "xầm xì phản
đối" đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ
ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong
phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ
"bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các
môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công
khai vậy.
Liệu chúng ta có tránh khỏi thái
độ xầm xì không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét