VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 22 TN B
Tin Mừng thánh Máccô 7,1-8a. 14-15. 21-23
1 Có những
người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người
từ Giê-ru-sa-lem đến.2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế,
nghĩa là chưa rửa.3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều
nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận;4
thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều
tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.5 Vậy, người
Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo
truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? "6 Người trả lời
họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ
đạo đức giả, khi viết rằng:
Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng
chúng thì lại xa Ta.
7 Chúng có
thờ phượng Ta thì cũng vô ích,
vì giáo lý
chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8 Các ông
gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm
14 Sau đó,
Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây,
và hiểu cho rõ:15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể
làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái
làm cho con người ra ô uế.
21 Vì từ
bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết
người,22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng,
kiêu ngạo, ngông cuồng.23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất
ra, và làm cho con người ra ô uế."
1 Now when the Pharisees
with some scribes who had come from Jerusalem gathered around him,2 they
observed that some of his disciples ate their meals with unclean, that is,
unwashed, hands.
3 (For the Pharisees and, in fact, all Jews, do not eat without
carefully washing their hands, 2 keeping the tradition of the elders.
4 And on coming from the marketplace they do not eat without
purifying themselves. And there are many other things that they have
traditionally observed, the purification of cups and jugs and kettles (and
beds).)5 So the Pharisees and scribes questioned him, "Why do your
disciples not follow the tradition of the elders 3 but instead eat a meal with
unclean hands?"
6 He responded, "Well did Isaiah prophesy about you
hypocrites, as it is written: 'This people honors me with their lips, but their
hearts are far from me;7 In vain do they worship me, teaching as doctrines
human precepts.'8 You disregard God's commandment but cling to human
tradition."
14 He summoned the crowd again and said to them, "Hear me,
all of you, and understand.
15 Nothing that enters one from outside can defile that person;
but the things that come out from within are what defile."
21 From within people, from their hearts, come evil thoughts,
unchastity, theft, murder,22 adultery, greed, malice, deceit, licentiousness,
envy, blasphemy, arrogance, folly.
23 All these evils come from within and they defile."
I. HÌNH
TÔ MÀU
*Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
* Em
hãy viết câu Tin Mừng
thánh Máccô 7,3
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
II. TRẮC
NGHIỆM
01.
Khi nhìn thấy các môn đệ dùng bữa mà không rửa tay, những ai đã hỏi Đức Giêsu:
“Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế
mà dùng bữa”? (Mc 7,4)
a. Các thượng tế
b. Các kinh sư
c. Người Pharisêu
d. Chỉ b và c đúng.
02.
Ngôn sứ Isaia nói về những kẻ đạo đức giả và giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật
của ai? (Mc 7,7)
a. Phàm nhân
b. Giáo Hội
c. Thiên Chúa
d. Đức Giêsu
03.
Ngôn sứ nào đã nói: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng
thì lại xa Ta”? (Mc 7,16)
a. Ngôn sứ Hôsê
b. Ngôn sứ Isaia
c. Ngôn sứ Goên
d. Ngôn sứ Êdêkien
04.
Điều gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7,15)
a. Những cái từ bên ngoài vào trong con người
b. Những cái từ con người xuất ra
c. Lời nói của tha nhân
d. Lời các ngôn sứ
05.
“Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế”. Đó
là … … … (Mc 7,22)
a. Ghen tỵ
b. Kiêu ngạo
c. Ngông cuồng
d. Cả a, b và c đúng
III. Ô
CHỮ
Những
gợi ý
01.
Đây là điều làm cho con người ra ô uế. (Mc 7,22)
02.
Đây là điều làm cho con người ra ô uế. (Mc 7,22)
03.
Ngôn sứ nào đã nói: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng
thì lại xa Ta”? (Mc 7,16)
04.
Ngôn sứ Isaia nói về những kẻ đạo đức giả và giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật
của ai? (Mc 7,7)
05.
Với người Do thái, dùng bữa mà chưa rửa tay, nghĩa là còn gì? (Mc 7,2)
06.
Ai đã dạy : “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm
cho con người ra ô uế được, nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm
cho con người ra ô uế”. (Mc 7, 15)
Hàng dọc
: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH
KINH HỌC THUỘC LÒNG
Không có
cái gì từ bên ngoài vào trong con người
lại có thể
làm cho con người ra ô uế được.
Tin Mừng thánh Máccô 7,15
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 22 TN B
Tin Mừng thánh Máccô 7,1-8a. 14-15. 21-23
I. HÌNH
TÔ MÀU
*Chủ đề :
Rửa tay
* Câu Tin Mừng thánh Máccô 7,3
Người
Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân:
họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận.
II. TRẮC
NGHIỆM
01.
d. Chỉ b và c đúng (Mc 7,4)
02.
a. Phàm nhân (Mc 7,7)
03.
b. Ngôn sứ Isaia (Mc 7,16)
04.
b. Những cái từ con người xuất ra
(Mc 7,15)
05.
d. Cả a, b và c đúng (Mc 7,22)
III. Ô
CHỮ
01.
Độc ác (Mc 7,22)
02.
Xảo trá (Mc 7,22)
03.
Isaia (Mc 7,16)
04.
Phàm nhân (Mc 7,7)
05.
Ô uế (Mc 7,2)
06.
Đức Giêsu (Mc 7,15)
Hàng dọc
: ĐỔI MỚI
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Với cả tâm tình
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Truyện thiền kể có
hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước
sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế
thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao
anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng
nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên
đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống
đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm
hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn
luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông
đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của
mình.
Những người Biệt phái
và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng
những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài
là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật
thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc
bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc
với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế
động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị
lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật
cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho
sạch.
Đức Giêsu chê trách
họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự
trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp
xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần
Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ,
nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến
những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống
rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng
luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để
chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng
yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn
kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên
ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có
giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn
mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật
thì hành vi mới có giá trị
Đạo Chúa không phải
là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng.
Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn
lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như
tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà
không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà
không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ
nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức
mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc
gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc
làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm
sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc
từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ.
Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo
đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu.
Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi
miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát
vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay,
tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình,
những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới
thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho
con thêm lòng yêu mến Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Rửa tay hay rửa
linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2) Điều gì quan trọng
nhất trong đạo? Làm những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh
em?
3) Bạn thường đi lễ
cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4) Bạn làm việc thiện
vì yêu mến người nghèo hay vì muốn khoe khoang?
Phải thờ
Chúa trong tâm hồn
Noel
Quesson
Cha Murray (Muy-rây) lủi thủi đi trên phố
vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc
phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha
Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ
trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa cha, con không biết.
Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời
hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn cha, bây
giờ đang Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi việc giữ luật là quan
trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ
chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu
luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm
tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái
nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh,
nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không
tuân giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong
nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng
túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi
lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu,
người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và
khoan dung với người nghèo khó, bé mọn… nhất là khi những người này bị xét đoán
gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một
Giáo Hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục,
tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp
sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ
lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ
không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều
chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh
em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ
ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa Ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị
lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng
như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ,
hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên
trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng
con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi
mở của Chúa.
Tiến sĩ
luật bị tù
Lm. Mark
Link
Chủ đề: "Trọng tâm tôn giáo không ở tại
nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa và tha nhân"
Nhà thần học William Barclay kể lại câu
chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ
được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị
Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám.
Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục
bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì
khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi
tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát "Ông già" ấy một cách kỹ
lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám
phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi
thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn
lại rất ít nước để uống.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài
Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã
cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa
Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm
hôm nay. Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa
chúng ta và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc
tranh luận đặc biệt này.
Khi Chúa Giêsu nói về "Lề luật",
thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề
luật "truyền khẩu". Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan
trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa
là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề
luật này mang tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống
những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái
bằng lòng với những "kiểu mẫu" này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì
thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công
nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ
trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá
mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều
chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật
thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong
khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt
chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng
hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh
trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về
mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng
cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ
tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ
những lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật
thành văn của Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao
đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc
sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì
tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn
những nghi thức bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức,
là biết phụng sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William
Barclay chứng tỏ rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác
một cách sâu sắc từ trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả "bao
lâu họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác
về vấn đề thanh tẩy".
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn, Barclay
kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi Giáo
đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông
báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở
thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ
làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ
nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì?
Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những
hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố
thí… tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất
cả những điều này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất
cả điều này mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc
chúng ta làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc
đó. Nếu trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi
nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh
thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại
tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
"Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho
rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ… Tôn
giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và
giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng".
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa
Giêsu dùng trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? "Đám dân
này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta".
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không
phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm
những việc ấy. Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim:
yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc
lại những lời nói về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu
Côrintô.
"Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết… Dù
cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức
Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi
không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
"Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế,
không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ
hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu
không bao giờ lùi bước, tình yêu thì bất diệt. Vì thế, tình yêu chính là điều
anh em phải nổ lực tìm kiếm". (1Cr 13, 2-8; 14,1)
Chú giải
mục vụ của Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như
vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó
tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra
nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng
bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc
giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt
nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do
Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật
Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật
Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố
là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời
sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn
tự cảm thấy mình “ô uế” xét về
mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại
sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh
ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa
Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật
này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên
bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên
Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên
tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng
hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu
không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy
truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa!
(c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang
được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc
tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm
dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo
một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để
đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh
vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu
huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám
cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ
điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang
dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường
thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các
môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ
không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó
Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không
phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra
ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái
tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh
Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát
sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê
đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl
5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ,
chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc
ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của
Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu
(c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường
được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là
“ô uế” không được dùng (x.Lv
11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền
thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ
tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là
nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa
đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự
kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng
cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma
v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời
đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự
phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là
vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở
lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà
đã ngăn cản “khách lạ” lui tới,
mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó
khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại
trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng
Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong
vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo.
Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát
mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không
cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ
vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải
đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho
các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn
mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này
(6,30 - 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa
Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo
cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
Chú giải
của Noel Quesson
Có những người Pharisêu và một số
kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị
biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của
Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này
là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo
này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu
trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân
ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người
ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng
bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi
người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa
rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn;
họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà
là tập tục tôn giáo về "sạch" và "nhơ", được ghi thành luật
của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua
truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng
ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để
trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền
thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện
và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về
Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư
hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân,
cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu,
là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu
sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị
những người "trong sạch" ở Giêrusalem coi như những thái độ buông
thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra
"ngoài lề", những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu
thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ
lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ... nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe
của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định
hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về "tính phổ quát”. Người
huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa
khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt
của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho
người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do
Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt
những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của
những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán
ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho
chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để
cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ
vào những "tập tục người xưa".
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý
do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những "tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ
con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào
sự tiến hóa.
Người trả lời họ: "Ngôn sứ
Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi
viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa
Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là
giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người
bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công
môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy
hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan
trọng, mà là "tấm lòng". Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có
giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám
đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy
tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như
vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào
trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ
con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch
theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số
động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay
những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự
đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực
hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản
để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức
Giêsu thì tuyên bố: "Tất cả các thức ăn đều thanh sạch" (Mc 7,19).
Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày
nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề
này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người,
phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự,
không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm
trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở
đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được
tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là
rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái "Cathare"
vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên
hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết "Ma-nét"
là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều
là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ
ơn".
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng
ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết
có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một
sự biện minh cho chủ trương "tự do phong tục": Nghĩa là mỗi người có
quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về
"điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người,
trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi
nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một
tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta.
Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ
hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán
Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương
tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người,
phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam,
độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa
Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai.
Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra
4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo
số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để
dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy.
Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng
của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể
ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều
cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của
tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ
quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên
nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của
một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào
có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận
trong thâm tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá
nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham
lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ
rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp
chúng con được gần Chúa hơn.
Chú giải
của Fiches Dominicales
“GIỚI RĂN
THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến
trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng
ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần
thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất
dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những
người biệt phái cùng ký lục về “sạch" và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ
thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế",
do đó không được đi lại với những người này.
- Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt
phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan" do các môn đệ Đức
Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi
bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin
Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng
tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn
giáo. J. Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao
trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái
vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên
Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền
đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở
Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện
đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì
những “sinh hoạt" của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc
với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi, ... Theo cách nói của các Rabbi
(thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để
bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin
viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư
rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ.
Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn
sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
- Sau khi trả lời những người biệt phái và ký
lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các
môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là
"những kẻ giả hình", khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có
thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân"
(Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những” truyền
thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống" của loài người) thường
cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví
dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những
kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ", đó là giới luật tuyệt đối Thiên
Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan
chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn
nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể
cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá
trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây
là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ
rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những
truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính căn bản
nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa". (sách đã
dẫn, tr.194)
+ Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám
đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ,
Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định
của con người: đó là “lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người
mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con
người ra ô uế”.
M. Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài
học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ
trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời
ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn
lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một
xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối
với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng
đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để
tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p.
125)
+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông
thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà". Sau khi đã kể ra
một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó
đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu
tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc)
chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền
thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo
manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia
này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những
người được tách biệt ra") và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức
những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần
Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt
xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức
những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại
trừ" (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ
xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, "Tin Mừng
thánh Maccô", Centurion, tr. 103)
- Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng
dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang
trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân
ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng
giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã
phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi
trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14).
Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn
Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho
người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr.
195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do
Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Giới răn của Thiên Chúa và tập
tục phàm nhân.
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn
trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời
Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập
tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô
giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải
trải qua những cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy
những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải
chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín
hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy
chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số
người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận
của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người
ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác
cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ "ỡm ờ"
này (Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại:
trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy
ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông
đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số
muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của
Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm
giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm
quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức ăn dành
cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái
kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một
phán đoán rất quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống,
nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". (14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm
đúng lúc vì “những người yếu đuối", Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn
mà phá hủy công trình của Thiên Chúa" (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều
sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù.
Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho
các tín hữu của ông"
2. Truyền thống là gì?
"Những người biệt phái trách các môn đệ
Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn", nghĩa là không trung thành với
truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế
phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này
thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ
ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi
người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một
hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế". Rồi, dựa vào một
tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng
chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là
“Truyền thống".
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này,
cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống
khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu
lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con
người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con
người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề
ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội
tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức
chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội
dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong
con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào
lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng
chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy
lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn
màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy".
3. Đức Giêsu giải phóng chúng ta
“Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải
phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các
môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật
của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức
Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm", tức tận trung tâm của con
người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta
phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch
của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong
chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt
của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu
bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm" của mình, vừa
phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa". Đó chính là hai tiêu chuẩn
để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt
yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những
hình thức bên ngoài...".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét