Trang

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 12)


Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 12)


VỀ ĐẾ QUỐC      

Thế còn quan hệ giữa ông và đế quốc thì sao? Ở xứ miền gần thủ phủ Philíphê, nơi thung lũng khá bình lặng, đã xảy ra hai cuộc chiến khá lớn vào trước thời thánh Phaolô xuất hiện, cũng không lâu. Thật ra thì, cuộc chiến ấy đã quyết định phần nào bản chất văn minh của thế giới trời Tây và đế quốc La Mã. Và cuối cùng, thì Octavian đã trở thành thần-nhân Augustus rồi cứ thế kéo dài chuyện của đế quốc. Tôi nghĩ, đường đi Đamát là chốn miền quan trọng trong lịch sử của nền văn minh/văn hoá, chứ không chỉ là lịch sử thánh thiêng hoặc Giáo hội, Đạo Chúa, mà là lịch sử của Israel và thế giới. Ta cũng thấy là thánh Phaolô nhận ra rằng tên gọi của trò chơi ở đây, không phải là có được hoà bình ngang qua chiến tranh. Đó, chính là hoà bình ngang qua đường lối của Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi sự gộp chung lại. Và, thể thức mà thánh-nhân tạo được- rút từ thánh vịnh, bởi đó chính là sự công chính của Chúa.

Sự công chính của Thiên Chúa, không là sự công bằng mà con người từng hiểu. Điều mà thánh Phaolô từng định nghĩa về sự công chính của Thiên Chúa, là những gì Chúa hằng quan tâm như Ngài vẫn có loại hình công chính của chính Ngài. Điều, mà Chúa quan tâm lại là Thiên Chúa để tâm đến những gì đẹp đẽ, phong phú. Chúa quan tâm đến sự phong phú mà chính Chúa bao gộp mọi người –từ sự chết đến sự sống và tất cả mọi sự này khác đều mang tính tích cực. An bình qua những gì Chúa quan tâm, là ý niệm còn đẹp hơn cả ý niệm mà người La Mã vẫn nghĩ tưởng.

Xem thế, thì đó mới là ý nghĩa của Giao ước. Đó, là lý do tại sao bất-bạo-lực là ngôn từ khá yếu kém. Đó là sự loại trừ mọi hình thức bạo lực để dẫn ta về với sự tử tế, và dẫn vào với tình thương-yêu vẫn hiện diện cũng cởi mở. Là, sự quân bằng/đồng đều trong tôn kính và thương yêu mọi sự và mọi người. Cả đến cụm từ “an bình” cũng không là từ ngữ rất đúng nghĩa, nhưng thật tình thì tôi nghĩ, nó cũng có thể chuyên chở ý nghĩa hệt như thế. Trong chiều hướng ấy, đáng lẽ ra tôi phải nhắn bảo rằng người La Mã đã ra đi và đã phá bỏ từ ngữ “an bình” và sử dụng nó một cách sai trái. Thánh Phaolô sử dụng cụm từ này rất chính xác, đầy ý nghĩa. Nhưng ở đây, từ ngữ ấy lại hoàn toàn mang ý nghĩa bao gộp rất khác. Thánh-nhân còn nói: Hãy cho tôi biết toàn bộ hệ thống và lối hành xử đầy thống trị của vũ trụ đi, tôi sẽ loại trừ được một số..” Cũng thế, có lẽ thánh-nhân lại sẽ bảo: Cho tôi biết về các thần linh ở đâu đó, và Thiên Chúa của tôi đã cho tôi thấy Ngài làm cho Đức Giêsu phục sinh tức là Ngài không giống thần linh nào như thế. Ngài thuộc về một trật tự khác.

Phải chăng như thế có là “đánh” vào thuyết nhị-nguyên của Hy Lạp không? Đúng. Nhưng thay vì “đánh” vào nó ta lại lấy đi những cái hay/cái đẹp của Hy Lạp để thiết lập cộng đoàn chính trị cho mọi người như họ từng làm thế quanh các thị trấn Hy Lạp. Và thánh Phaolô chắc đã phải có ý tưởng đúng đắn nhưng lại không biết hoàn tất những việc như thế. Và chỉ một Đấng duy nhất biết được việc ấy chính là Thiên Chúa, và Ngài đã làm thế ngang qua Phục sinh vực dậy Đức Giêsu, và đó là khởi đầu tiến trình phục sinh nơi mọi người. Và, nơi chúng ta.

Và, thánh Phaolô khi đó lại cũng nói: “Đó là điều đang xảy đến, ngay lúc này. Và sự việc ấy đang loại trừ đế quốc La Mã, ngay bây giờ.” Theo tôi thì, thánh-nhân có lẽ đã nói: nếu anh em không loại trừ hệ thống chính trị rất thống trị như Đế quốc La Mã, thì anh em không thực sự là người Đạo Chúa. Mà, anh em chỉ mơ tưởng chuyện ấy ở nhà mình và chỉ có ý nghĩ đẹp rất thoáng qua, thôi. Điều này nghe ra cũng hơi “dị giáo”, khá rối như thể bảo rằng: Tôi cũng không rõ là tôi thuộc hữu khuynh hoặc tả khuynh, nhưng tôi đang vui chơi nơi chuồng ngựa. Và, tôi đang chơi trò to lớn hơn, và đội ngũ mà tôi đang cùng chơi lại là trò chơi theo tình đồng đội.


PHỤC SINH NƠI CỬA HÀNG CÁ MÒI

Để cho dễ hiểu, tôi xin phép có được một chút tưởng tượng mà nghĩ rằng: nhiều người sẽ nói với thánh Phaolô –có lẽ vào cuối đời của thánh-nhân khi ông được nhiều người biết đến- là: chúng tôi sẽ đưa ông về lại Côrinthô. Vâng. Một số người ở Côrinthô thuộc loại cứng đầu cứng cổ, đã quyết định sẽ không mua bán thứ gì hết vì thánh-nhân từng khuyên bảo họ như thế, và họ sẽ nói với thánh-nhân rằng:

Này ông Phaolô, thế đâu là chứng cớ cho thấy chuyện ông nói đã thực sự xảy ra?” Và khi đó, thánh-nhân từ chốn hành nghề thuộc da đã ngước lên cao nhìn và nói: “Đúng ra phải nói là ở đây có cửa hàng cá mòi ở đầu phố và họ mở cửa rất sớm, vào mỗi sáng. Nhưng, trước khi mở cửa đã thấy nhiều người trong chúng ta đã tụ tập ở trước cửa, có lẽ để nguyện cầu. Có điều là, cụm từ “nguyện cầu” mang ý nghĩa nào khác hơn là cho người nghe. Tức, tụ và họp chỉ để ở cạnh nhau và mở lòng ra với nhau. Và mỗi tuần, ta cũng tụ và họp ở nhà thờ để gặp nhau cho dài lâu. Và, trong các buổi tụ họp như thế, ta mang đến phân nửa những gì mình kiếm được vào tuần trước, rồi cho đi. Cho, hết mọi người, không trừ ai. Ta mang thức ăn từ nhà đến và cùng nhau san sẻ những gì còn sót lại như ta thường làm. Ta lại sẽ mang xuống phố cho người khác, những người mà ta vẫn thấy cứ ngồi đó suốt ngày mà chẳng có gì để ăn.

Ta làm thế không theo cung cách các đấng bậc vị vọng tụ họp nhau lại, nơi Đế quốc. Và, ta làm thế là bởi: vẫn tin rằng mọi tạo vật đều bị đánh động từ sự việc Phục sinh và là hoa quả của những gì ta làm ra, rồi nhờ đó có ảnh hưởng. Có thể nói, mọi thực phẩm ta ăn vào cũng đánh động ta theo kiểu cách hệt như thế. Và, tất cả thuộc về Đấng đã và đang trỗi dậy. Và, ta còn chuyển giao cho mọi người, vì tất cả được bao gộp trong động lực ấy. Trên thế giới, luôn có động lực năng nổ tại nơi ta làm việc, để mình có thể phân phát mọi sự theo cách Chúa làm, là: dội ngược về với sự công chính của Đức Chúa. Và, đó là những gì vẫn đối nghịch lại đế quốc. Và, ở nơi đó, có rất nhiều của hàng cá mòi cũng dội ngược như thế. Và, trên nguyên tắc, nó có mặt khắp nơi. Và, điều đó có nghĩa là đế quốc La Mã nay đã chấm dứt. Cũng thế, các quan thày, hoặc đại gia cùng thân chủ này khác, cũng đều làm như vậy.”

Thánh Phaolô là người rất giỏi trong việc đưa ra chứng cớ nhãn tiền, tựa như thế. Cũng tựa như cung cách sống niềm tin mãnh liệt. Chuyện rắc rối/khó xử thời hôm nay, là: lúc này, ta vẫn thấy Giáo hội chỉ nói và mừng kính Phục Sinh bằng các nghi thức phụng vụ có lễ lạy đình đám, chứ chẳng làm điều gì chứng tỏ là có phục sinh, trên thực tế, bằng phương cách chính trị. Theo tôi, đó là việc cũng khó thực hiện. Có thể, nhiều người từng thấy được cách sống thực dụng mà thánh Phaolô muốn, không khiến cho các quan thày, đại gia cũng như thân chủ của mình từ bên trên đoái hoài nhìn xuống; và nếu gặp may, cũng sẽ bỏ đi. Thực tế, cũng không lay động được những người từng thất bại, cố tiến lên từ chốn miền thấp bé để thăng hoa. Mọi người đều có cơ hội đồng đều, và lần đầu trong lịch sử hiện hữu, ta có được cơ may ở mức độ có thể gia-nhập vào “cuộc chơi” này. Và, mức độ ấy, mọi người đều có khả năng đồng đều. Thế nên, vấn đề là hỏi rằng: ta có thị kiến về Đấng Bậc đó không? Nếu có, sẽ được bảo: ta sẽ thấy điều gì đó như thánh-nhân từng thấy trên đường Đamát, chứ?


THÁNH PHAOLÔ NAY BÀY TỎ             

Ai là người được thánh Aphaolô kể cho nghe những điều như thế? Phải chăng thánh nhân đặt vấn đề như thế với người Do thái? Nếu thế, chắc rằng họ cũng kêu lên:

“Ơ kìa ông Phaolô! Phục sinh thông thường vẫn xảy đến đấy chứ! Dù chúng tôi có tin vào một chuyện và hy vọng một chuyện và cũng cầu một chuyện, nhưng chuyện đó vẫn chưa thấy xảy đến.

Thánh-nhân có đem điều ấy đến với người La Mã dính dự vào chuyện thờ cúng thần hoàng đế không? Nghe hỏi, chắc rồi họ cũng bảo:

“Ơ kià! Augustus và các hoàng đế kế nghiệp ông vẫn ở đây đến suốt đời, mà.” Có thể, họ cũng không coi đó là chuyện hệ trọng nữa.

Trong một số sách tôi đọc được, có một số lý thuyết đòi phải đến với người Do thái trước nhất, tức: họ cũng chẳng muốn nghe thánh-nhân nói, nên mới đến với người ngoại giáo. Nhưng, tôi thì không nghĩ chuyện này đúng thật. Nói rõ hơn, cũng có một số người ngoài đạo cuối cùng cũng tin vào Thiên Chúa của Israel mà không cần phải mang thẻ “chứng minh nhân dân” gì hết. Nói khác đi, tức: bảo rằng họ chẳng cần phải ngang qua thủ tục “cắt bì”, một chút nào. Họ chỉ việc cứ quanh quẩn gần hội đường, như thể mình cũng tin tất cả những gì người Do thái tin, là được. Theo dữ liệu rút từ ngành khảo cổ, ta cũng có danh tánh của một số vị như thế.

Ở một số nơi, họ rất đông. Và, họ có địa vị vững chãi trong xã hội và cuộc sống dân sự. Họ thuộc nhóm người khá quan yếu. Đôi lúc người ta gọi họ là những người thờ Đức Chúa. Đôi khi họ cũng được gọi là những kẻ kính sợ Thiên Chúa, tức: nếu phiên dịch theo ngôn ngữ thi ca thời đại, thì họ là những người “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Trong khi người Do thái muốn họ trở thành Do thái thực thụ, chứ đừng “quẩn quanh” như thế mãi. Người La mã lại muốn những người này thôi đừng luẩn quẩn ở các hội đường Do thái nữa, nhưng hãy quay về mà sùng bái thần hoàng đế.

Trong khi đó, thánh Phaolô lại bảo họ: cũng chẳng cần gì phải theo cả hai đường lối ấy. Hãy cứ như những người đến tiệm cá mòi, là xong. Và theo tôi, thì họ chính là cử tọa đặc biệt của thánh Phaolô, cũng không chừng. Và tôi còn nghĩ rằng: họ là những người được thánh Phaolô đến gặp trước tiên, và những người khác cũng chẳng bị thánh-nhân “đuổi đi chỗ khác chơi.” Bởi, thánh nhân chẳng muốn loại trừ bất cứ ai. Và tôi cũng nghĩ: thánh nhân chẳng tội vạ gì mà đến các hội đường tìm xem có ai muốn hồi hướng trở về, hay không. Theo tôi, thì: sở dĩ thánh nhân có đến hội đường đi chăng nữa, cũng chỉ vì nhiều người cứ loanh quanh, luẩn quẩn ở đâu đó, chốn hội đường, mà thôi. Và thánh-nhân cũng chẳng đem các kinh nghiệm chính của mình khiến người Do thái hoặc người ngoại giáo trở về với Đạo Chúa. Nhưng, thánh-nhân đã nhận ra rằng: hay nhất là: cứ ra đi mà đến với người thờ kính Chúa. Bởi, họ là những người ở lưng chừng trong quan hệ đồng đều. Và, họ là những người hiểu rõ thánh-nhân và đã mua chuộc thánh-nhân. Và dĩ nhiên, còn có nhiều người khác thế nữa. Và theo tôi, thì đó là những người mà thánh Phaolô đặt mục tiêu vào họ, trước nhất.

Khi nói: thánh PhaolÔ ra đi, là bảo rằng: thánh-nhân đi với ý nghĩa của ơn gọi và sứ vụ. Vâng. Ơn gọi là từ ngữ rất đáng ngờ. Ngày hôm nay, ta dùng từ ngữ này trong nhiều bối cảnh khác nhau. Ta thường hỏi rằng: dân chúng có tỏ ra thích hợp và có ý hướng chính đáng về với “sứ vụ thừa sai” hay không. Vâng. Riêng thánh Phaolô dứt khoát chẳng thích hợp với công cuộc thừa-sai này chút nào hết, nếu xét lý lịch rất lạ của thánh-nhân. Tôi còn nghi cả về chuyện thánh-nhân có ý hướng tốt lành trước khi có cảm nghiệm về chuyện “Phục sinh”, nữa không. Thành thử, nói “ơn gọi” thật ra cũng không ích gì. Thật ra thì: chính động lực phục sinh của Thiên Chúa mới gửi thánh-nhân ra đi mà phục vụ. Chứ chẳng có ai, hoặc nhân vật nào sai phái thánh nhân đi làm công việc ấy hết. Cũng chẳng có nhóm hội/đoàn thể nào thuộc Đạo Chúa gửi ông đi. Cũng không phải thánh Phêrô hoặc Giacôbê sai phái.

Chẳng một tông đồ nào trong nhóm Mười Hai gửi ông cả, dù các ngài rất thích thú khi thấy thánh Phaolô trước đây chẳng mấy thích thú những chuyện như thế, vậy mà nay quyết tâm. Và, các ngài vẫn trông chừng thánh-nhân để xem thánh-nhân có sử dụng ngôn từ này, hay không. Nhưng tuyệt nhiên các ngài không là nguồn gốc sai phái thánh Phaolô thực hiện công cuộc thừa sai đặc biệt này, hết. Nói chữ “đặc biệt”, là bởi sứ vụ mà thánh-nhân đảm nhiệm là đi thẳng và lập tức ngang qua việc Chúa thực hiện sự “cánh chung” ngay ở việc Phục sinh của Đức Giêsu có trong thánh-nhân. Và, đó vẫn là điều mà thánh-nhân từng chủ trương. Và, đó cũng là lý do khiến thánh-nhân được miễn trừ không bị các ngài theo dõi hoặc khống chế. Và, các ngài cũng chẳng bao giờ chấp nhận mặc cho mình quan niệm ấy. Các tông đồ chỉ muốn tinh giản thánh Phaolô xuống thành một trong những người do các ngài thuê mướn, trong hệ thống mà các ngài thiết lập. Lời kêu gọi này nơi thánh Phaolô đích thật là“Christo estauromenous”, có nguồn gốc rất rõ ràng. Chính Thiên Chúa, là Đấng bao gồm và bao gộp trong sự chết và sống lại làm một, sau khi sự việc như thế đã xảy đến nơi Ngài.

Có một số vị tự hỏi: làm sao thánh Phaolô lại biết rõ Đức Giêsu lịch sử được? Tôi lại nghĩ, thánh Phaolô cũng chẳng có nhiều kiến thức về Đức Giêsu hết. Tôi không nghĩ là thánh-nhân lại có nhiều chi tiết về sự sống của Đức Giêsu lịch sử. Theo cung cách cũng khá lạ, dù lúc đó cũng chưa có gì là lạ cả, tôi không nghĩ là thánh-nhân lại ưu tư quan ngại nhiều để phát giác ra chuyện này, hết. Tôi cũng không nghĩ là thánh-nhân đã phải bỏ ra ba năm trời để học khoá đặc biệt về Đức Giêsu lịch sử, trước khi thánh-nhân ra đi thực hiện sứ vụ thừa sai của mình. Cho đến khi Đức Giêsu chịu nạn và chịu chết trên thập giá và trở lại với cuộc sống có trỗi dậy, thì thánh Phaolô cũng chẳng quan tâm nhiều đến Đức Giêsu hết. Đó là chuyện ưu tư hơi sớm đối với thánh-nhân. Điều đã “đánh vào người” thánh Phaolô trên đường Đamát, chỉ là sự việc loại trừ mọi khổ đau/âu sầu và khía cạnh chịu khổ hình trên thập tự của Đức Giêsu, để Chúa đi vào cuộc sống bao gồm và bao gộp hết mọi người, và rồi làm đẹp cũng như biến tất cả trở thành tử tế, hiền hoà.

Theo tôi nghĩ, việc này cũng khiến thánh Phaolô phải để hết phần còn lại của đời mình, dù lúc ấy có khi ông cũng chẳng thức tỉnh một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh để nghiệm ra điều gì mình cần phải sống cho đúng nghĩa. Tôi nghĩ, mầm mống của thị kiến và việc tóm bắt được nhận thức mới nảy sinh, từ đó thôi. Kể từ đó, tức vào khoảng thời gian thánh-nhân được ba mươi tuổi, vào lúc đó. Bởi, thánh Phaolô có lẽ sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Và có lẽ cũng phải 3 năm sau khi biết Chúa chịu đóng đinh vào thập giá, tức năm thứ 33 sau Công nguyên; hoặc, ít năm sau đó, cũng không chừng. Có lẽ, lúc ấy thánh-nhân cũng đang ở vào thời khủng khoảng giữa đời. Nhưng có lẽ cũng trễ hơn người khác.

Riêng tôi lại thấy có hơi tréo nghịch là trên đường đi Đamát, sự kiện ấy đã xảy đến. Đamát là thủ phủ cũ/xưa nhất trên thế giới, theo nghĩa tuổi đời thành phố. Có lẽ phải trở về với thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Thánh Phaolô là nhà lữ hành, luôn di chuyển do bản chất và bản năng nữa. Thánh-nhân khác hẳn Đức Giêsu vì Chúa ít khi đi đâu xa hơn 15 dặm cách nơi Chúa sinh ra. Đamát là tụ điểm con đường mậu dịch, từ Ấn Độ, ngang qua Yêmen đến Địa Trung Hải và Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả đều phải ngang qua Đamát. Vậy thì, theo nghĩa nào đó, thế giới đã tập trung ở nơi này và lúc này đây. Và đó cũng là điểm đặc trưng để thấy rằng thánh Phaolô có cái gì đó rất đặc biệt, khác thường. Và, thế giới sau thời của thánh-nhân rày cũng thế.

Thư mục đọc thêm:
John Dominic Crossan & Jonathan L. ReedBodily resurrection, in “In Search of Paul”, tr. 133-135; “We belong to the Day”, sđd tr. 172-174.       
Mai Tá lược dịch         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét