Trang

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

Tìm hiểu cách đọc Kinh Thánh (18)

Tìm hiểu cách đọc Kinh Thánh (18)

NGƯỜI CÔNG GIÁO TIẾP CẬN KINH THÁNH NHƯ THẾ NÀO?
Một câu truyện vui kể rằng có một nữ tu kia kỷ niệm 50 năm Khấn Dòng, khi được hỏi soeur mơ ước điều gì nhất thì soeur trả lời: mơ ước được làm quyển Kinh Thánh trong thánh lễ để được các cha hôn mỗi ngày. Dĩ nhiên, đây chỉ là câu truyện vui. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy một thực tế là Hội Thánh Công giáo kính trọng Sách Thánh cách đặc biệt vì tin rằng đó là Lời Chúa, là khuôn vàng thước ngọc (canon = sự đo lường) cho đời sống đức tin và luân lý của Hội Thánh. Chúng ta cùng tìm hiểu cách Hội Thánh tiếp cận bộ Kinh Thánh.[1]
Cách tiếp cận truyền thống
Kinh Thánh là một bộ sách kỳ diệu. Đối với nhiều người, Kinh Thánh là nguồn nghiên cứu về văn hóa, lịch sử và văn chương một thời. Nhưng đối với người Công giáo, Kinh Thánh còn hơn thế nhiều, đó là Lời Chúa trong ngôn ngữ loài người, nghĩa là vừa có khía cạnh loài người vừa có khía cạnh siêu việt thiêng liêng. Khía cạnh loài người được diễn tả qua nét chữ, văn phong, việc biên soạn các nguồn tài liệu của các tác giả,… Khía cạnh thiêng liêng được diễn tả qua ba hạn từ chính đó là mạc khải, linh hứng và không sai lầm. Ba hạn từ này nhìn chung nói lên nguồn gốc thần linh của Sách Thánh, bộ sách ghi lại sự kiện Thiên Chúa tự bày tỏ chính mình ra cho con người, hầu dẫn đưa con người đi trên nẻo đường dẫn đến ơn cứu độ đời đời là sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Cách tiếp cận mới: Kinh nghiệm Công giáo
Một câu truyện kể rằng có một cô gái kia đang tham dự lớp giáo lý dự tòng, khi nghe giảng Thiên Chúa là một người cha thì cô gái bỏ ra về. Khi được hỏi lý do tại sao bỏ lớp học, cô gái đáp: Tôi đã có một ông bố quá tồi tệ, xấu xa và độc ác với vợ con, bây giờ tôi không thể chấp nhận thêm một ông bố nào nữa. Điều này cho thấy những kinh nghiệm của con người ảnh hưởng không nhỏ đến việc họ hiểu Kinh Thánh hoặc tìm hiểu Thiên Chúa.
Gần đây, một số nhà chú giải Kinh Thánh đã nhấn mạnh đến vai trò của kinh nghiệm con người trong việc đọc hiểu Kinh Thánh. Đó thật sự là một trong những khám phá giá trị của ngành nghiên cứu Kinh Thánh. Các nhà chú giải này chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh và vai trò của người đọc cũng như những gì họ mang vào bản văn Kinh Thánh. Nhiều yếu tố cá nhân thật sự có ảnh hưởng đến việc đọc hiểu Kinh Thánh. Câu truyện cô gái trên đây chẳng hạn. Tương tự, một phụ nữ nông thôn sẽ đọc Kinh Thánh với những cái nhìn khác với một linh mục chuyên về Kinh Thánh. Vị linh mục này cũng sẽ đọc Kinh Thánh với cái nhìn khác với một Tổng giám đốc của một công ty kinh doanh. Hiện tượng này được áp dụng trong “những cộng đoàn cơ bản” tại châu Mỹ La-tinh. Các Kitô hữu bình dị quy tụ lại và cùng nhau đọc Kinh Thánh. Họ áp dụng một tiến trình khởi đi từ chính những kinh nghiệm chính trị xã hội của họ, rồi sau đó họ đọc và suy tư về bản văn Kinh Thánh và cố gắng khám phá những điểm chung hoặc tương tự / loại suy (analogy = analogia gốc tiếng Hy-lạp có nghĩa là “so sánh” = ana + logos = tương đương)[2] giữa kinh nghiệm của họ và Kinh Thánh. Những người tham gia tin rằng thật sự có những nét tương đồng sâu xa giữa bản văn Kinh Thánh và cuộc sống của họ hôm nay. Mục tiêu họ nhắm đến là biện phân dưới ánh sáng của Kinh Thánh điều Thiên Chúa đang muốn nói với họ và những gì họ cần làm để cải thiện cuộc sống của họ cũng như những người khác. Chính từ các cộng đoàn cơ bản này đã khai sinh nền thần học giải phóng. Tương tự, những nhóm Công giáo ủng hộ quyền phụ nữ cũng áp dụng cấu trúc này một cách thành công.
Lối học Kinh Thánh chung với nhau và tìm kiếm sự tương đồng trong Kinh Thánh trên đây được hàm ẩn trong cái gọi là “sự tưởng tượng Công giáo” do thần học gia David Tracy và nhà xã hội học Andrew Greeley đề xuất. Greeley định nghĩa “sự tưởng tượng Công giáo” là một cái nhìn về thế giới, “trong đó Thiên Chúa hiện diện khắp nơi và người ta ứng đáp lại Người trong tính cách một cộng đoàn.”
Sự tưởng tượng Công giáo tìm cách khám phá Thiên Chúa trong mọi sự. Nó tìm kiếm mạc khải của Thiên Chúa trong thế giới tự nhiên cũng như những công trình nghệ thuật của con người, hạn như các kiệt tác hội họa và Vương Cung Thánh Đường vĩ đại ở châu Âu. Nó nhấn mạnh đến sự tương đồng (analogy) và phép ám dụ (metaphor) như những cách giúp nắm bắt phần nào hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới. Trong khi sự tưởng tượng biện chứng (dialectical) của Tin Lành nhấn mạnh nét “khác” và siêu việt của Thiên Chúa, thì sự tưởng tượng loại suy (analogical) của Công giáo nhấn mạnh sự gần gũi và cận kề của Thiên Chúa. Ví dụ: trong khi sự tưởng tượng loại suy thích nói về Thiên Chúa bằng hình ảnh “mục tử”, “đá tảng”, thì sự tưởng tượng biện chứng lại thích nói rằng đây là những hình ảnh “duy nhất” dành cho các thuộc tính của Thiên Chúa và rằng thật ra Thiên Chúa không phải là một mục tử hoặc một tảng đá. Sự tưởng tượng biện chứng mang tính “hoặc cái này hoặc cái kia” (either/or), còn sự tưởng tượng loại suy thì mang tính “cả cái này lẫn cái kia” (both/and).
Sự tưởng tượng Công giáo nhấn mạnh đặc biệt đến không gian và thời gian cũng như khám phá bàn tay Thiên Chúa trong tình yêu của con người, trong gia đình cũng như đời sống cộng đồng, trong cấu trúc xã hội cũng như phẩm trật, và thậm chí cả trong những đau khổ và mất mát. Những cái nhìn này đã được chuyển trao từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu ngang qua các câu truyện và tường thuật (hoặc trình thuật = narrative) được kể lại trong gia đình hoặc cộng đồng địa phương.
Dù không phủ nhận tưởng tượng biện chứng có nguồn gốc từ Kinh Thánh, nhưng chúng ta có thể nói rằng phần lớn Kinh Thánh mang nét tưởng tượng loại suy. Kinh Thánh đầy ắp những hình ảnh và ám dụ muốn diễn đạt những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm Thiên Chúa. Những tưởng tượng loại suy ấy thông tri mầu nhiệm Thiên Chúa chủ yếu ngang qua các câu truyện và những tường thuật lớn, cũng như đặc biệt đề cao những nơi thánh (hạn như Đền thờ Giêrusalem), lịch các ngày lễ hội của người Do-thái. Nó tìm kiếm Thiên Chúa trong tình yêu của con người (sách Diễm ca), trong đời sống cộng đồng (dân Thiên Chúa), và thậm chí cả trong đau khổ (các Thánh vịnh than vãn, sách Gióp).
Sự tưởng tượng loại suy trong truyền thống Công giáo trên đây rất hữu ích cho việc đọc và giải thích Kinh Thánh hôm nay. Greeley gọi sự tưởng tượng loại suy của đạo Công giáo là một “truyền thống thấp” (đây là một hạn từ của ngành xã hội học nhắm ám chỉ một truyền thống xuất phát “từ bên dưới”, hoặc từ đời sống chung cộng đồng của con người, khác với “truyền thống cao” xuất phát “từ trên cao”, nghĩa là từ các phẩm trật Hội Thánh hoặc các thần học gia). Tuy nhiên, với tinh thần “cả cái này lẫn cái kia” của đạo Công giáo, có lẽ nên nhớ rằng “truyền thống cao” cũng có những đóng góp quan trọng vào cách người Công giáo đọc Kinh Thánh. Theo đó, người Công giáo cần đọc và giải thích Kinh Thánh trong Hội Thánh và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để có thể đạt đến ơn cứu độ.
Như vậy, khi kết hợp hài hòa cả hai truyền thống, “cao” (truyền thống thần học) và “thấp” (truyền thống loại suy và ám dụ), người Công giáo có thể khám phá rất nhiều điều sâu xa diệu vợi của Kinh Thánh, có thể nói là không bao giờ hết, càng đọc càng mê, và nhờ sống theo đó mà có thể đạt đến hạnh phúc đích thực.
LM. JM. Mười Một, CSsR



[1] Bài viết chủ yếu là bài lược dịch Chương 3 “How Do Catholics Approach the Bible?” trong quyển How Do Catholics Read the Bible của cha Daniel J. Harrington, SJ., 33-41.
[2] Phan Tấn Thành, OP., Nhập Môn Thần Học, 35. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét