Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 5)
Chương II
Phaolô và Công Vụ, một so chiếu
“Chúa phán với ông:
“Hãy cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn
để mang danh Ta đến trước mặt dân ngoại,
các vua chúa và con cái Israel.
Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy
tất cả những đau khổ người ấy phải chịu,
vì danh Ta.”
(Cv 9; 15-16)
THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH CÔNG VỤ
Xét Tin Mừng do thánh Luca viết, xem ra thánh sử đã viết hồi cuối thập niên 80 hoặc 90 sau Công nguyên. Đây là Tin Mừng cuối trong bộ Tin Mừng Nhất Lãm được Hội thánh chính thức đưa vào Tân Ước (Boismard). Tin Mừng do thánh sử viết, được viết tại thị trấn Ê-giê, cũng có thể là Philíphê hoặc Antiôkia, Côrinthô, Êphêsô hay ở đâu đó, nhưng có điều chắc là tư tưởng ghi ở Tin Mừng có xuất xứ từ nền văn hoá Hy Lạp. Tin Mừng được viết, là viết cho người Hy Lạp nay hồi hướng trở lại và cho cả người Do thái, là hai dân tộc từng sống trong môi trường văn hoá rất Hy Lạp. Tin Mừng được viết, còn để viết cho những người trí thức có khả năng suy tư về văn hoá cơ bản của họ. Văn phong/thể loại của Tin Mừng, lại thuộc dạng thư Thêôphilô, tức nhóm người tin vào Đức Chúa Duy Nhất của Do thái, tức: những người chỉ muốn biết về Chúa của mình, thôi. Và, Tin Mừng được viết, là còn viết cho thế hệ thứ hai; hoặc nói đúng hơn, cho thế hệ thứ ba gồm các Kitô-hữu chuyên chăm vẫn kỳ vọng vào chuyện ấy. Các vị này, nay quan tâm nhiều về tháng ngày qua trong quá khứ của họ, tức những kinh nghiệm từng trải, rất phát triển. Phát triển, là kinh nghiệm các ngài vẫn có về những ngày tháng sống ở vào trạng huống đặt nặng tính chất Do thái cũng như khung cảnh sống theo văn hoá Hy Lạp -như thư Rôma từng cho biết. Họ là những người muốn chứng tỏ niềm tin xuyên suốt, trước sau như một, dù đã trải qua những chuỗi ngày dài biến thái về một văn hoá đứt đoạn, dồn cục.
Nếu hỏi rằng: Luca là ai? Ông thuộc trường phái nào? Thật ra, cũng khó mà trả lời cho chính xác. Tuy nhiên, điều ta có thể quả quyết một cách xác đáng để nói được rằng: ông không là bạn đồng hành của Phaolô thánh nhân, cũng chẳng là nghệ sĩ hay nghệ nhân, hoặc thày thuốc chữa bệnh cho nhiều người. Có thể nói một cách khá chắc, rằng: ông là người Hy Lạp mang cung cách Do thái; hoặc, một người Do thái chịu nhiều ảnh hưởng của nền giáo dục Hy Lạp khá vững mạnh. Mức độ hiểu biết về Kinh thánh ông có được là nhờ vào Bản Bảy Mươi tiếng Hy Lạp. Thế nên, điều chắc hơn cả để ta có thể quả quyết như thế, là ở vế đầu, tức: ông là người Hy Lạp học cao hiểu rộng, và có cuộc sống rất Do thái.
Từ lâu, nhiều người vẫn có quan niệm bảo rằng: tác giả Sách Tin Mừng Luca và Công vụ nói trên, là bạn đồng hành với Phaolô thánh nhân, một điều không một ai chối cãi, hoặc phản bác. Trong số các đấng bậc chủ trương như thế, thấy rõ nhất là thánh Irênê. Nhưng, yêu cầu qui chiếu các thư mục vụ từng dùng các chủ-từ như “chúng tôi” ở sách Công Vụ và chính Phaolô thánh nhân cũng đã dùng chủ từ này ở cuối thư Philêmôn, là về thánh Luca đã hành trình với Phaolô. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ, ta thấy có nhiều điều khác lạ giữa luật Torah và chất Đạo của người Do-thái. Ở Công vụ, thánh Luca chả bao giờ nhắc nhở đến các thư-từ do thánh Phaolô viết. Thánh sử cũng không bao giờ gọi thánh Phaolô là tông đồ của Chúa hết. Các đoạn sách dùng chủ từ “chúng tôi” chỉ là văn phong/thể loại mang tính hùng biện, mà thôi. Vả lại, sách trên còn cho thấy rất nhiều nhân vật mang tên Luca chứ không chỉ một thánh sử như ta tưởng…
Khi viết Tin Mừng, thánh Luca sử dụng khá nhiều nhu-liệu rút từ Phúc Âm thánh Máccô cũng như sử liệu Qumran và chỉ đính kèm một số tài liệu là đặc trưng của riêng ông, thôi. Đây, là công trình hai tập: Tin Mừng và Công vụ. Đây, gồm cả truyện kể về bước đầu và sự việc triển khai công tác của Giêsu Đức Chúa. Và cũng là, anh-hùng-ca loại thiên-hùng-sử, một thể-loại “báo cáo/tường trình” được sắp xếp rất thứ tự. Nhưng, nói như thế không có nghĩa bảo rằng: đây là văn bản xác thực dành để nghiên cứu, mà là một thị kiến rất trùng hợp. Tựa hồ Thiên-Hùng-Sử của tín hữu Đức Kitô song song với Thiên-Hùng-Ca của Homer và/hoặc Virgil, như vẫn thấy. Đem so chiếu, ta có thể nói: qua lối viết khá độc đáo, thánh Luca vẫn có một chút gì đó như của Dante hoặc một thứ Milton, rất Đạo mình.
Xem thế thì, Sách Công Vụ là công trình tiếp nối Sách Tin Mừng rất độc đáo.
SÁCH CÔNG VỤ LÀ “TIỂU THUYẾT” RẤT CHẤT SỬ
Lâu nay, ta vẫn thấy nhiều tranh luận về thể-loại văn chương viết trong Công Vụ. Thời quá khứ, khi đọc sách này nhiều vị vẫn thấy đây là áng văn bất hủ mang tính sử-liệu gồm các truyện kể có thật, rất thú vị. Mới đây, lại thấy có trường phái coi Công Vụ là Sách của học giả nọ mang tên Luca nào khác đã hoàn tất hầu đưa ra quan điểm thần học và ý-thức-hệ nhắm vào nguồn gốc và sự phát triển của Đạo, thời tiên khởi. Xem ra, tác giả làm công việc ấy qua phong-cách tự-do hầu sử dụng và sáng tạo các hiện tượng nổi bật. Tựa hồ điều mà dân Pháp vẫn hay nói: “Đó là truyện kể! Và đó là huyền thoại.”
Có tác giả còn cho rằng thánh Luca từng trụ giữa hai luồng tư tưởng lâu nay gây ảnh hưởng lớn là cung cách chép sử của người Hy Lạp và La Mã, đồng thời là phong cách của người Do Thái vẫn muốn tìm hiểu những gì xảy ra trong quá khứ, về lịch sử. Vế đầu, qui về ảnh hưởng của Hy Lạp và La Mã trên Do thái. Ở đây, ông đặc biệt quan tâm đến chuyện tầm-nguyên riêng tư, tức nghệ thuật sáng tác văn chương vốn dĩ kết hợp hài hoà những gì có lợi và thích hợp với nhiều người. Ông có tự do của người viết những muốn tạo ra một thứ giả-tưởng nào đó vào những lúc không có tư tưởng nào đến với ông trong đầu. Nhưng ông lại cứ muốn bắt chụp mọi thứ, chí ít là những thứ có liên quan đến nhân vật chủ chốt, do mình viết. Vế thứ hai, cho thấy ông muốn bảo vệ thứ tự do tha hồ chọn chủ đề để viết, do tầm quan trọng của chủ đề và ý-thức-hệ thấy có ở sự việc quyết tạo ra những gì để ta hiểu là ông muốn đọc lại và dựng lại “lịch sử”.
Bởi thế nên, Công Vụ là tuyển tập gồm các thư được viết ra cốt để vinh danh/tán tụng sự cao sang vẫn có ở cộng đoàn tiên khởi. Và, cũng để đảm bảo căn-cước của các ngài khi cùng một lúc, tỏ bày nguồn gốc các ngài vẫn có trong kế hoạch Chúa mang đến, được ghi rõ trong Sách Thánh thời đặc trưng, qua đó họ được cài đặt vào với thế giới người Do thái đã được minh xác. Thánh Luca thể hiện văn phong/thể-loại mà người Hy Lạp xưa gọi là“Synkrisis” tức: chủ ý cài đặt song song với sự kiện xảy ra qua sự khác biệt liên tục giữa Israel và Đức Giêsu, cũng như giữa các tông đồ và thánh Phêrô, Phaolô, vv. Đây là tấm “thảm thêu” đầy sắc mầu nổi bật cốt minh hoạ cho điều mình muốn nói… Thánh Luca có hai con mắt: một mắt, thánh sử để vào Sách Tin Mừng do mình viết; còn mắt kia, thánh nhân lại để vào Bản Bảy Mươi, rất sáng ngời.” (xem P. Bony, Review of D. Marguerat, Les Actes des Apôtres (1-12), Genève, Labor et Fides, 2007)
Các nhà chú giải hôm nay đặt mốc thời gian cho sách Công Vụ coi như Sách này được viết vào đầu thế kỷ thứ 2. Tuy nhiên, tác giả Richard Pervo lại cho rằng: niên biểu mà Sách được viết phải là năm 115 sau công nguyên như thế mới chính xác và như thế, cũng đã gần nửa thế kỷ kể từ ngày thánh Phaolô qua đời.
Ở đây cũng thế, chuyện này chẳng có gì là chắc chắn hết. Thế nhưng, nhiều vị lại cứ cho rằng: Công Vụ được viết vào niên biểu từ 100 đến 150, sau Công nguyên. Còn, đối với tác giả Eusêbiô, thì Sách này do chính Justin và Papias viết ra, cũng rất lâu. Nếu thế, thì Phaolô thánh nhân chẳng bao giờ hiện hữu với thế giới Do thái, hết. Và có thể là: các vị đều có nhu cầu, vào lúc nào đó, phải khẳng định một lần nữa về thánh Phaolô, hầu đưa những chuyện viết trong Sách phù hợp với “thánh truyền” của Đạo bằng cách tạo ảnh-hình rất chính thống để rồi sau đó gán cho ông là tác giả, hơn là bảo rằng: chuyện của ông chỉ như thế. Điều này còn có nghĩa, là: các vị vẫn muốn coi Phaolô thánh-nhân như người tông đồ dễ bảo từng được Nhóm Mười Hai công nhận, để rồi ông sẽ làm chứng cho quyền bính của Nhóm này ngay lúc đó. Thế nghĩa là: thánh Phaolô vẫn ở vào vị thế “dưới trướng” tức vẫn ngoan ngoãn sinh hoạt đều đều, bao giờ cũng tuân theo sự điều hành của Nhóm. Nói tóm lại, các vị làm thế là để biến Phaolô thánh-nhân thành người của Nhóm, có thế thôi. Và, cũng theo các vị này, thì Sách Công Vụ được viết, là để viết về những chuyện đại loại như thế.
Thật ra, thánh Luca không hề có trong tay các thư do Phaolô thánh-nhân viết và cũng chẳng đặt chúng trước mặt để viết sách Công Vụ. Cũng chẳng có gì làm chắc để ta có thể đoan quyết rằng: thánh Luca từng thu thập các tài liệu và thư-từ do Phaolô thánh-nhân tạo ra, ngõ hầu giúp mình viết ra sách Công Vụ. Cũng tựa như các tiểu thuyết dã sử, trong đó có nhiều chi tiết được nghiên cứu kỹ và khá chính xác về địa dư, chính trị qua việc khai thác địa danh cũng như tên tuổi từ các chỗ khác. Cả đến sự kiện lịch sử, xem ra cũng đều như thế.
Điều quan trọng, là: để ta sử dụng Công Vụ như một nguồn tài liệu thứ yếu chứ không có gì là chính xác về Phaolô thánh nhân, hết. Tác giả Fitzmeyer lại cũng viết: thánh Phaolô đã sử dụng “thì” hiện tại để nói về chất liệu được lấy từ sách Công Vụ cho nó ra vẻ kịch-tính một chút; và, “thì” quá khứ là để các dữ kiện được lấy từ thư của Phaolô thánh-nhân, là để nhằm mục tiêu diễn bày tính cách lịch sử cho sách, thế thôi.
Giá trị của Công Vụ về Phaolô thánh-nhân là giá trị của một công trình nhằm để lại chút gì cho hậu thế, chứ không phải về một Phaolô đích thực lịch sử. Nói cách khác, các ngài làm thế là để tiếp tục xây dựng một “hồi ức” về Phaolô thánh-nhân, của thời tiên khởi. Điều đáng nói ở đây, là những chuyện như thế chỉ mang tính cách “làm giùm“ cho Phaolô tựa như thói quen mà người Pháp thường làm. Chuyện như thế, cũng tương tự như chuyện “ơn gọi” sử gia chuyên nghiệp hồi thời cổ. Vào lúc ấy, đã có nhu cầu khẩn thiết quyết bao gộp hiện tượng “Phaolô” vào với ký ức của Hội thánh, như một quà tặng rất hiện thực. (Xem Odile Flichy, Conference at École Biblique, Jerusalem, tháng 5 năm 2007)
NỘI DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CÔNG VỤ
Sách Công Vụ bắt đầu bằng một truyện kể về sự kiện Chúa Về Trời. Trong A.N.E., có sự thể bảo rằng: những ai trụ được thiên đàng thì sẽ quản trị trái đất và quản cai cả đến đế quốc ngoài Đạo nữa. Nhưng, Hoàng đế Augustus lại nghĩ khác. Ông suy tính thế này: do bởi ông đã diện kiến Julius Xêda, nên khi chết, chắc chắn ông sẽ được cất nhắc về Trời cao. Và như thế, ông sẽ được coi là thần thiêng thánh hoá, thật cũng đúng thôi. Riêng Titus lại áp dụng cùng một lập trường như thế cho riêng mình và ông tự định đoạt vị thế của mình nơi “vòm cung” trên cao ấy, tức hiện diện tại quảng trường La Mã, rất nổi tiếng. Giả như, tín hữu Đạo Chúa thời tiên khởi lại cứ bảo: Đức Giêsu đã “thăng thiên về Trời”, theo cung cách rất như thế. Như thế tức như thể các ngài từng thách thức chống đối vua quan lãnh chúa, ở thời đó. “Thăng Thiên Về Trời”, không là cuộc lữ hành ở không gian hoặc nơi trung khu thần linh rất thánh nào đó, tách lìa khỏi mặt đất. Mà, là một khẳng định mang tính chất rất chính trị khá to tát, tức một thách thức chống đối cả với quyền bính của La Mã nữa.
CÔNG VỤ, MỘT SỬ LIỆU GỒM HAI PHẦN:
Phần đầu, từ chương 1 đến chương 12, viết về việc tuyên dương “Đức Giêsu là Chúa”, rất sớm sủa. Ở đây nữa, Công Vụ lại đã khẳng định: Đức Giêsu là Đấng thay thế Hoàng đế Xêda, nghĩa là: Xêda chỉ là phàm nhân tục tử, thôi. Đức Giêsu mới là Đức Chúa Đấng ngự đến với gian trần là để giúp mọi người được gặp Đức-Giêsu-là-Chúa, chứ không phải để đến với hoàng đế La Mã, vốn dĩ chỉ là phàm nhân. Lời lẽ của Sách, là để tín hữu tiên khởi nói ra được điều đó, bất chấp mọi hậu quả có thể có. Phản ứng chống lại tuyên dương này, về phía La Mã, thật ra cũng rất nghiêm trọng. Và, phản ứng của các lãnh tụ Do thái cũng nghiêm túc không kém. Riêng Bè Xađuxê lại rất lo cho những chuyện như thế, không vì lý do tôn giáo mà vì nhiều lý do khác. Riêng Hêrôđê Agríppa, là người lẽ đáng phải làm vua Do thái dưới sự bảo trợ của quan quyền ở La Mã. Thế nên, ông đã hạ lệnh giết chết thánh Giacôbê và còn muốn giết cả thánh Phêrô là người mà ông từng ra lệnh tống vào ngục thất. Nhưng thánh Phêrô cuối cùng rồi cũng thoát chết, rất kịp thời. Kết cục, là: Hêrôđê Agrippa cũng chết thảm. Rất thê thảm, và cũng không kém những người mà ông ra lệnh giết chết, như tác giả Josephus lâu nay từng nhấn mạnh. Và, lời đồn đại ở trên cứ thế lan rộng ra khắp chốn. Lan rộng, cốt để tuyên dương Đức Giêsu đích thực là Đức Chúa, muôn dân đang ngóng chờ.
Phần hai sách Công vụ, từ chương 13 đến 28, tác giả viết về cung cách tuyên dương Đức Giêsu thực sự là Đức Chúa, một cung cách đang lan rộng khắp thế giới. Được thế, là nhờ có sự tiếp tay của thánh Phaolô. Thật ra thì: thánh Phaolô, cũng gặp nhiều rắc rối khi sinh hoạt mục vụ ở nhiều nơi. Sở dĩ có chuyện đó, là vì lý do chính trị nhiều hơn chứ không phải chỉ mỗi tôn giáo. Khi Phaolô thánh-nhân xua trừ ma quỉ xuất khỏi nữ phụ nọ từng là nô lệ ở Êphêsô, thật sự thì ông đã lấy đi nguồn lợi tức của những người thuận nghiêng về phía người La Mã. Đằng khác, những người tạo thần tượng ở Êphêsô lúc bấy giờ đã nổi nóng khi nhận ra sự việc này. Và, Xêda lúc đó, đáng lẽ phải bộc lộ ý kiến của ông về chuyện này mới đúng, nhưng ông lại không làm thế. Bởi lẽ đó, nên khi thánh Phaolô nói chuyện trước chúng dân ở Athens, thì người địa phương nơi đó đã có nhận xét cũng rất đúng là: ai hợp tác với ông rồi cũng sẽ bị rắc rối, chí ít là khi họ tin việc Chúa sống lại, rất đúng thật. Bởi thế nên, khi đó đã có nhiều phản ứng không thuận lợi cho thánh Phaolô. Cũng may là cuối cùng thì, Nêrô đã phải tự vẫn, ngay vào thời hoàng đế thứ tư trị vì. Và từ đó, rối loạn thực sự xảy đến khắp nơi liên tục. Chính vì thế, thánh Phaolô bèn quyết định ra đi về chốn tận cùng của trái đất, rất La Mã, để chính ông sẽ lại thách thức Xêda. Và, ông cũng đã công khai tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Chúa của muôn dân, ông ngang nhiên làm thế trước mũi bá quan thiên hạ, mà chẳng ai dám ra tay ngăn cản. Ngăn và cản, theo đúng nghĩa của cụm từ “akolytos” tiếng Hy Lạp. Và, đây là ý/từ cuối cùng cũng mang ý nghĩa và bối cảnh lịch sử mà Công Vụ muốn viết.
Cuộc đời thánh Phaolô, là thứ hành trình “trên đường Emmaus” đi về chốn miền cao sang, quyền quí nhưng trong đó sự xấu lại đã ở vào tình trạng tồi tệ nhất. Hễ nơi nào ông đặt chân đến, cũng đều xảy đến nhiều rắc rối đến náo loạn. Ở Êphêsô, lại cũng xảy ra nhiều cảnh náo loạn đến cùng cực khiến ông bị các ngôn sứ cảnh giác liên tục. Ông bị đánh đập nhiều lần, ở đền thờ. Rồi còn bị dẫn độ ra trước quan toà ở Sanhêdrin, nữa. Ở đâu, nơi nào, ông cũng thấy có người lập mưu hãm hại ông. Ông còn bị đưa ra công nghị trước mặt cả Felix nữa. Bị gông cùm suốt hai năm trời ròng rã, đến độ ông đã phải nghĩ đến chuyện ra đi về với Rôma, thôi. Xem ra, địa ngục trần gian thực sự đã đến hồi bùng nổ, tựa núi lửa. Chừng như, ai cũng nghĩ: Phaolô thánh-nhân rồi ra cũng sẽ bị cảnh chết treo trên thập giá như Đức Chúa.
Nhưng, may cho ông, hành trình trên biển lại là giải pháp tốt đẹp để ông có thể tiếp tục tiến bước, theo nguyện ước. Tuy nhiên, biển cả là biểu tượng của mọi hiểm nguy cũng như của ác thần/sự dữ thật khó mà chế ngự. Ngay như người Do thái lúc trước vẫn cứ tưởng tượng rằng: biển cả là chốn sóng dồn vùi dập, chuyên đem đến cho con người những là hỗn loạn cả vào lúc trời đất chưa được tạo dựng. Tựa như Biển Đỏ vào thời loạn ly, và như Giôna quái đản ở biển xanh như sách Đaniên từng diễn tả; và phong ba bão táp cứ thế dồn dập ùa vào Biển Hồ Galilê, nhất nhất đều là chứng từ còn nằm im trong đầu mọi người dân. Cả đến hành trình rong ruổi trên biển cả cũng đã khiến ông bị đắm tàu rất nhiều lần, chứ nào được chết treo trên thập tự, giống Đức Chúa. Thành thử, rồi ra cũng sẽ có người hỏi rằng: cuộc lữ hành đường biển có làm ông bị chết chìm, lần nào không? Hoặc, thuyền gỗ bé nhỏ lại cứ va vào hốc đá, cũng là những hiện tượng khó đoán. Hoặc, cũng bị đám lính tráng của vua quan lãnh chúa từng bách hại, cũng không chừng. Bị rắn độc Malta cắn cũng có thể làm ông chết dọc đường, chứ nào được chết trên thập giá, như Chúa của ông. Không phải thế. Tất cả chỉ là sự thể khả thi, nhưng không hẳn là như thế. Bởi, ông và các bạn đồng hành đều đã cập bến rất an toàn, và đã đặt chân lên đất miền La Mã, khá rộn ràng. Và khi đó, Phaolô thánh-nhân đã có thể đem thông điệp của Đức Chúa để gửi đến những nơi mà đế quốc phàm trần từng hành xử với dân con nhà Đạo một cách xấu xa tồi tệ bậc nhất, ngay lúc đó. Và, hành trình được gọi tên “trên đường Emmaus” đã là hành trình không sao ngăn cản được bước chân tông đồ của Phaolô. Và trong tình huống như thế, ông đã tới được Rôma, như lòng mong ước. Và, đó cũng là những bước thăng trầm, đời mục vụ của ông, Phaolô rất thánh-nhân.
Thông điệp của Đức Chúa mà thánh Phaolô muốn đem đến cho mọi người, là thế này: dù mọi sự xem ra như thể vũ trụ vạn vật đang nghiêng về phía Xêda đi chăng nữa, thì anh em cũng đừng ái ngại. Đừng để mất đi niềm tự tin đáng quý, rất khó kiếm. Và, anh em hãy cố gắng ra khỏi chốn miền đầy phong ba/bão táp để rao giảng Tin Vui/Tin Mừng của Đức Chúa, theo lòng mong ước mà không ai có thể cản ngăn. Và, như thế thì: truyện kể về Phaolô thánh-nhân với đầy đủ chi tiết và qui cách như đã kể về tâm trạng của tác giả sách Công Vụ, tuyệt nhiên không mang tầm kích quan trọng, hoặc có giá trị lịch sử rất đích thực tựa hồ như giòng chảy chính của thông điệp mang tính chính trị. Giới đọc sách ở Hy Lạp lúc ấy, lại cứ thích loại hình kể lể về cuộc lữ hành có cảnh quan đẹp như truyện tiểu thuyết. Đi vào cụ thể, tưởng cũng nên đọc thêm tác phẩm của Chariton’s mang đầu đề “Chaires and Kallirhoe”, và “Xenophon of Ephesus’ Habrokomas and Anthia”. Ở sách Công Vụ, thánh Phaolô đã thật sự đặt chân đến vùng xôi đậu tựa như các anh hùng trong truyện huyền thoại. (Xem L. Alexander, Acts in its ancient literary context: a classicist looks at the Acts of Apostles, New York, Continuum, 2007.
“Sau lần tỏ tình đến cao độ kèm theo cơn chấn động mang tính chất rất ghen tuông, Chaereas thành Syracuse đã đánh vợ là Callirhoe đến chết và ông đã để vợ nằm đó sõng xoài trên vũng máu tưởng chừng đã chết. Xác của bà tưởng chừng như đã thối rữa, nhưng may được đám trộm cướp ở nghĩa trang kịp thời phát hiện. Và, bà được chúng hồi sinh để rồi bị chúng bán cho làm nô lệ, nhiều ngày sau đó. Nhân chuyến phiêu lưu mạo hiểm cũng khá cực, Chaereas dẫn đoàn quân viễn chinh người Ai Cập đi khắp chốn cuối cùng cũng chiến thắng đánh bạt dân quân người Ba Tư. Bất chợt Chaereas gặp Callhirhoe vợ mình trong đám tù nhân/nô lệ lố nhố ấy, ông bèn đưa bà lên thuyền trở về nhà; và sau đó, cả hai lại đã trở về sống hạnh phúc lứa đôi, như khi trước.”
Nhiều cảnh trí được thêm thắt giống hệt truyện tiểu thuyết để rồi truyện kể ấy lại được đưa vào trình thuật, rất Công Vụ. Nhưng điều đó không có nghĩa bảo rằng: thánh Luca đã dựng truyện theo cổ tích dân gian rồi cài vào đó một giá trị lịch sử này khác, như: cảnh vượt ngục, hoặc cảnh con người được vinh danh/coi trọng như thần thánh, hoặc các trận cuồng phong, bão táp ào ào thổi đến, vv.. từng được diễn lại ở nhiều đoạn, trong các sách viết cùng thời. Trường hợp dễ thấy, ta có thể lấy đó làm ví dụ cụ thể để dẫn chứng cho các màn tấu hài trong đó người Laođixê đã giết bò tót/bò mộng làm của lễ để vinh danh mừng chúc thánh Phaolô và Barnabas khiến các ngài cứ ngỡ rằng mình đã thực sự trở thành ngẫu thần Hermes hoặc thần Zeus, từ lúc nào cũng không biết.
Phần hai sách Công Vụ hầu như chỉ nói về thánh Phaolô, mà thôi. Thánh nhân được coi là dân con La Mã, nhờ vào bẩm sinh. Dù có thế, nhiều người vẫn nghi ngờ quốc tịch La Mã của ông, không phải như thế. Sách Công Vụ, có đoạn nói: Phaolô thánh-nhân từng khiếu kiện đòi Xêda phải đích thân mở phiên toà do chính ông xét xử vụ việc của thánh nhân, một lần cho rõ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là hỏi rằng: phải chăng mỗi người và tất cả mọi người dân La Mã có quyền được Xêda xét lại các vụ xử trước đó không? Đã từ lâu, thắc mắc này được giải mã bằng một khẳng định lại bảo rằng: sự việc ở đây không hẳn là như vậy. Chẳng ai dám kháng cáo hoặc khiếu kiện kiểu như thế. Có kiện hay cáo cho lắm, thực tế cũng chẳng có gì xảy ra, tiếp theo sau. Tuy là thế, ở đây có người lại vẫn thắc mắc cứ hỏi rằng: sự việc liên quan đến chuyện Phaolô thánh-nhân khiếu kiện lên Xêda đòi xử lại vụ án của mình có là sự thực lịch sử hay không?
Thật sự mà nói, Phaolô thánh-nhân vẫn tự coi mình là người học được nhiều điều trong suốt thời gian ông gần gũi đấng bậc Gamaliel ở Giêrusalem. Vả lại, thánh nhân là người Biệt Phái rất nhiệt thành, điều này ai cũng biết. Nhưng, là diễn giả thông suốt tiếng Hy Lạp, ông lại có tài ăn nói lưu loát, ứng biến và hùng biện ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, với quần chúng. Tài ứng khẩu rất thu hút của ông, được diễn tả cả bằng tiếng Aram rất cổ, dù ngôn ngữ ấy không là tiếng mẹ đẻ mà ông từng thành thạo, vẫn là điểm son chỉ riêng Phaolô mới có.
Đi đến đâu, ông cũng muốn mọi người hiểu là ông dư biết cảnh tượng giới chức có thẩm quyền đã hành hạ, ức hiếp và ném đá Phó tế Stêphanô cho đến chết. Điều này có nghĩa là: sự việc xảy ra ở Giêrusalem vào thập niên 30, sau Công nguyên, dù đó là thời điểm chứng tỏ ông không có mặt ở đó, tại chỗ, nên chẳng có gì cần phải xét lại.
Vào lúc ấy, vị Thượng tế ở đây đã truyền cho Phaolô thánh-nhân phải có hành động chống đối bè rối từng trà trộn ở giữa cộng đoàn tín hữu Do thái sống ở Giuđêa. Vị Thượng Tế, còn cử người đến tận nơi cốt để loại bỏ cộng đoàn ở Đa mát, hầu tẩy trừ những người dám cấu kết với nhóm đạo rối, vừa mới nổi. Điều này, xét về mặt lịch sử, cũng chẳng có gì là chính xác, hết. Bởi khi đó, Đa-mát đã thuộc quyền cai trị không phải từ Giuđêa, mà là dưới quyền của vua Nabatêa. Một chi tiết khác nữa, là: ở Giêrusalem khi xưa, vai trò của Thượng tế cũng chẳng khi nào lại có được quyền bính lớn như thế.
Còn về thánh Phaolô, thì: trên đường đi Đa-mát, thánh nhân đã trải nghiệm sự kiện có tầm vóc rất lớn, khả dĩ đã biến đối toàn bộ cuộc sống rất năng động của ông.
Ở Công Vụ, cảnh tượng xảy đến với thánh-nhân trên đường Đamát xem ra chỉ là phó bản của truyện kể rút từ Tin Mừng thánh Máccô viết ở Chương 2. Cách riêng, ở đoạn 3 câu 24-25 trong đó tác giả kể về chuyện đổi đời của Hêliôđôrus. Chuyện kể nhân vật này bị hai thiên sứ nhà trời đánh cho gục mặt, đến độ nạn nhân bị tối tăm mặt mũi, toàn thân ông chìm ngập trong bóng tối lặng câm, nhưng sau đó ông lại cũng được khiêng đi nơi khác, đến mất dạng. Tiếp đó, lại có sự kiện một nhân vật khác mang tên Onias (còn gọi là Ananias) cũng từng ứng xuất động-tác hy sinh hết mình để ông được toại nguyện. Kể từ đó, ông quyết định hồi hướng trở về, ngõ hầu cải tà qui chánh, rất đúng lúc…
Tiếp đó, là sự kiện Phaolô tân-tòng hành xử một cách năng nổ khiến người Do thái lúc đó nổi cơn “điên tiết” vì ông dám cả gan luận bàn về lối sống rất mới của Đức Chúa. Chính vì lý do này, mà ông đã phải lặng lẽ bỏ đi Giêrusalem để mọi chuyện được êm đẹp. Cũng ở nơi này, thánh nhân được đồng môn Barnaba giới thiệu đến với tông đồ gần gũi Chúa. Sau sự kiện hồi hướng trở về rộn rã là thế, Phaolô lại đã thực hiện một số sự việc cụ thể khiến người Do thái một lần nữa, lại phẫn nộ khiến ông đành bỏ nơi đó mà về với Tarsus, chốn quê nhà bé nhỏ của ông. Thật ra thì, Phaolô thánh-nhân không bỏ được cái cố tật là đi đến đâu, sống ở nơi nào ông cũng đều dính dự vào các xung đột đủ mọi loại, rồi còn tranh chấp, đấu tranh với nhiều người khác, nữa. Thông thường, thánh nhân có thói quen hay đến chỗ đông người như hội đường Do thái để giảng giải về Đức-Chúa-Sống-Lại cách hăng say, nhiệt nồng đến độ kéo theo xung đột cả với giới có thẩm quyền ở hội đường. Rốt cuộc, thánh nhân bị các bậc thủ lãnh ở đó tống giam vào ngục thất, rồi truyền cho gia nhân dùng roi đánh cho 39 trượng, những 5 lần. Có lần, thánh nhân bị đám người này tìm đến định ném đá cho đến chết, nhưng cũng may là chuyện ấy không thành. Hồi còn ở Phillípphê, thánh nhân cũng bị một số quan chức người Hy Lạp truy lùng rất gắt đến khi bắt gặp đã tống giam ông vào ngục thất. Cũng may là, lúc ấy mọi người lại cứ nghĩ ông là công dân La Mã rất chánh hiệu, nên đã công khai xin lỗi, rồi phóng thích ông ngay lập tức, cho xong chuyện.
Rồi, Công nghị ở Giêrusalem cũng là biến cố có tầm vóc rất lớn khả dĩ phát triển tài năng riêng tư của thánh nhân. Tầm vóc, to lớn đến độ nhiều người còn coi đây là sự kiện nổi cộm khiến ta có thể nối kết sự việc này vào với công cuộc tông-đồ mục-vụ ông từng thực hiện ở Antiôkia có liên quan đến cộng đoàn tín hữu vốn ao ước sống theo đường lối Chúa định đặt ra cho mọi người. (Còn tiếp)
Mai Tá lược dịch
- Post to Facebook101010101010101010
- Post to Twitter
- Add to LinkedIn
- Post to Google+
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét