Trang

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 16)

Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 16)



THƯ THỨ NHẤT GỬI GIÁO ĐOÀN CÔRINTHÔ

Tóm lược


Với thánh Phaolô, Corinthô là miền đất rất tập trung, từng khiến thánh-nhân đưa vào hoạt động khá nhiều ngày. Côrinthô, còn là tổng-hành-dinh của thánh Phaolô ở Hy Lạp, nơi ông từng lưu lại để sống những tháng ngày dài đằng đẵng, lâu hơn nơi khác. Và cũng ở nơi này, thánh Phaolô đã làm rất nhiều thứ cho bà con trong cộng đoàn. Nơi đây, thánh-nhân đã ghi khá nhiều thư, để rồi sau này hội thánh gộp chung lại chỉ gồm hai thư mục vụ rất nổi cộm. Côrinthô, là thủ phủ địa đầu nổi sóng rất sôi động. Cộng đoàn ở đây, có lối sống loạn luân, mất căn bản đạo đức về mọi mặt, chí ít là mặt tình dục. Người dân ở nơi này, vẫn tự hào về bản chất tư riêng/độc đáo của họ, nên cứ đòi quyền sống tự do ngõ hầu khống chế hết mọi người.

Dân thành Côrinthô đã từng cười khẩy thẳng vào mặt thánh-nhân, khi ông nói nhiều về giá trị của yếu kém lẫn khổ đau cả về mặt chính trị lẫn mục vụ. Tức, những điều tương tự như trạng thái ngu si, dại khờ, mất uy tín. Qua đối thoại với người dân thường sống ở đó, thánh Phaolô lại biết về sự thể cũng rất thực chứng tỏ “yếu kém” chính là tên gọi của trò chơi sự sống rất không đạt. Rằng: cuộc sống bình thường ở đời cũng rất chán. Thứ chán ngán, thấy rõ ở những cãi tranh, giành giựt và lý luận. Và, thánh-nhân dù khởi sự hay kết thúc các tranh cãi đó, ông vẫn như người thua cuộc như từ thuở mới vừa sinh. Sự thể này, khiến thánh-nhân đã nhất quyết ngưng lại, không còn tìm cách trở thành quan thày hoặc đấng bảo trợ cho bất cứ ai nữa; nhưng đã biết tặng ban cho dân gian nhiều lợi lộc về linh đạo. Thánh-nhân đã khởi sự cuộc sống giống như họ và trong họ bằng cách tự trút sạch thành hư không, trống rỗng.

Thánh Phaolô lại đã chiến đấu phản chống lại thói quen rất “mất nết” của họ vẫn diễn ra ở Tiệc Thánh. Thánh Phaolô chống đối cả lề lối suy tư về giá trị đạo đức mỗi khi họ ăn các thứ thịt nào đã cúng bái thần linh. Thánh nhân phấn đấu, chống lại lập trường gồm những thắc mắc cứ hỏi rằng: có được phép thiết lập hôn nhân giữa những người cùng huyết tộc, hay không? vv.. Làm như thế, thánh-nhân lại đã để vụt mất đi một số khá đông những người có thái độ tồi tệ như thế. Mất mát này, tệ đến độ ông phải nhượng bộ cả đến cung cách phán đoán rất đúng đắn trong nhiều sự việc, bất chấp cả sự kiện ông được mặc khải/soi sáng từ trên, coi đó như kinh nghiệm mục vụ. Nhưng, ngang qua những người ở đây, thánh Phaolô lại khám phá ra một loại hình yêu thương rất khác biệt, mà ông chưa biết. Tức, loại hình mà thời đó, mọi người vẫn gọi là lòng mến/thân thương rất agapè. Hơn nữa, đó là loại hình mục vụ đích thực được thể-hiện với họ và cho họ.     
  
Thánh-nhân lại đã viết lên một thể loại ca vịnh dành cho những người có lòng mến/thân thương ở ngay giòng đầu trong thư gửi dân thành Côrinthô đoạn 13; và ông cũng gửi cho các thừa-tác-viên kể trên một thư khác, tức thư thứ hai Côrinthô đặc biệt là đoạn 5. Xem thế thì, cuộc sống đã trở thành tiến trình hoà giải không ngừng nghỉ, giữa những người chưa đạt ước nguyện, như vừa nói. Với Phaolô, là vị thánh từng khám phá ra rằng mình còn phải đi thêm một đoạn đường dài hơn nữa, mới “thành đạt” như dự kiến.

                                                           
“Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của thiên thần đi nữa, mà không có được đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ chụp choeng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin mạnh đến độ có thể chuyển núi dời non, mà nếu không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hoặc phát chẩn, hay nộp cả thân xác tôi hằng chịu thiêu đốt, mà tôi lại không có được đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến luôn nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy được điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ ta để mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ là nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Rồi ra, có ngày cũng sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Cuối cùng rồi cũng chẳng còn.”
(1 Cor 13: 1-8)


CÔRINTHÔ

                                    “Chẳng phải ai cũng có thể đến được với Côrinthô.
                                    Ôi chao là, Ô hô! Ô hô!”
                                    (Horace)

Qua cuộc sống đầy bức bách như thế, làm sao thánh Phaolô lại có thể thực hiện được nguyên tắc sống theo cung cách phục sinh, được? Theo tôi, đó là tính “nghịch thường” trong toàn cuộc đời của ông. Nói như thế có nghĩa: thánh-nhân đâu đã thành công trong việc cải-hoán toàn-bộ thế giới tận thâm căn. Sống ở đời, nói theo ý nghĩa chỉ về đế quốc do ngoại bang chủ xướng toàn những o ép, bức bách phải nói là: thánh-nhân đã hoàn toàn thất bại, thật thê thảm. Bản thân ông đã sống một cuộc sống yếu kém, ốm đau, nhục nhã, lúng túng đủ mọi điều, hết sầu buồn lại đến khổ đau, mất tiếng đến độ tinh giản xuống tầm mức dám yêu thương cả giới đối lập sừng xỏ nhất của chính mình. Rồi có lúc, ông cũng bị vị hoàng đế khùng điên tên Nêrô ở Rôma ra lệnh hành xác cho đến chết, nữa.

Thành thử, vấn đề đặt ra hôm nay, là: chủ nghĩa duy thực tiễn, là nguyên tắc phục sinh/trỗi dậy đã trở thành hiện thực với cuộc sống của thánh Phaolô. Chính tại Côrinthô này, người đọc thư thánh Phaolô, đã nhận rõ được điều đó, cũng rất sáng.

Thư thứ nhất Côrinthô, là thư nói về chuyện xác phàm/thể lý. Về vị thế xã hội, với những bất đồng và bất ổn trong công tác phục vụ của Hội thánh. Và, về diện mạo của tín hữu Đạo Chúa vẫn cứ phải trường mặt ra với công chúng trong môi trường sống, rất ngoại Đạo. Đây là thư mục vụ thấm nhuần cảm xúc thực tiễn hơn mọi thứ.

Năm 44 sau Công nguyên, Côrinthô được Xêda cho xây dựng lại thuộc địa của người La Mã và khi đó, nơi này được gọi bằng cái tên rất Latinh, như: Laus Julia Corinthiensis. Hoàng đế Augustus trước đây từng tuyên bố nơi này là tỉnh lỵ nằm bên trong thuộc địa La Mã. Tiếp đó, tức vào năm 49 sau Công nguyên, hoàng đế Clauđia lại đã quyết định tống xuất tất cả mọi người gốc Do thái phải rời khỏi Rôma, ngay lập tức. Bởi thế nên, Prisca và Aquila đã phải đi đường vòng ngang qua Rôma mới đến được Côrinthô để gặp thánh Phaolô, ở đây. Sở dĩ có chuyện như vậy, là vì nền kinh tế của Côrinthô lúc đó đã đến hồi tăng trưởng cũng khá mạnh. Nơi đây, vẫn thấy nhiều vách đá vôi, cả đến bức tường thành thẳng đứng cao 6 thước nằm giữa biển I-ô-a-nia và Êgê. Nó đi dần về với vùng Isthmus tiếp giáp Pêlêpônnêsus để đi thẳng vào đất liền lục địa của Hy Lạp. Nơi đây, là Acrôpôlis của Côrinthô, một trong các thủ phủ phong phú nhất Hy Lạp, với 4 hải cảng chính cũng rất lớn. Nơi này, còn có số dân đến từ khắp chốn. Họ đến rồi đi, như những người lữ hành ngoài biển cả và trên bộ. Thật ra, Côrinthô đã kiểm soát hầu như toàn bộ tàu bè từ các bến bờ cả ở phía Đông lẫn trời Tây của Địa Trung Hải. Ngay các thủy thủ khi ấy cũng chẳng bận tâm đến chuyện thuận buồm xuôi gió dọc duyên hải, lại chỉ thích băng ngang lộ trình Côrinthô và Isthmus mà thôi.

Người La Mã những muốn tìm cách thuần-hoá tất cả mọi tôn giáo địa phương mà họ gặp. Họ muốn tháp nhập tôn giáo đó vào với đền thờ sùng bái đủ mọi thứ thần linh đến từ nước ngoài hoặc của La Mã, rồi khống-chế các đạo ấy bằng việc sùng bái thần-nhân là hoàng đế của mình. Các tôn giáo ở địa phương quanh thành phố Côrinthô thời đó, là đạo giáo rất nực cười, chẳng có gì phải bàn cãi. Căn bản thì, đây là tôn giáo của thần Aphrôđite, tức nữ thần tình ái rất phổ biến. Nay, nếu dùng từ ngữ cho văn vẻ, có lẽ ta phải gọi toàn thành phố này là động điếm vĩ đại, mới đúng. Nói cách khác, có thể bảo đây là thủ phủ “đèn đỏ” tai tiếng nhất hạng trong toàn cõi Hy Lạp. Ngay như ngôn ngữ nước này còn có cụm từ Corinthiazein là từ ngữ được dùng để chỉ “lối hành xử giống như người Côrinthô”, tức: cứ ăn nằm chung chạ bừa bãi cả vào lúc và nơi không được phép, nhất thứ là khi có tàu bè vừa cập bến. Người Côrinthô là loại người rất tự hào và độc lập. Việc này có lẽ do tình hình kinh tế ở đây đang vào hồi sung mãn, phong phú. Côrinthô, còn có số dân cư gốc Do thái cũng khá đông, phần lớn trong số này đều là di dân đến từ La Mã.

Có thể nói Côrinthô thời đó là thành phố nhố nhăng của Hy Lạp. Nơi đây thường có các vận hội Isthmus độc đáo và phổ biến hơn thế vận hội Olympíc rất nhiều.

Côrinthô là tụ điểm tập-trung khá cá biệt trong toàn bộ đời sống và công cuộc thừa sai của thánh Phaolô. Có thể nói mà không sai lầm rằng: tại nơi đây, thánh-nhân từng hoạt động cho chốn miền này nhiều hơn và bền bỉ hơn bất cứ nơi nào khác, trước đó. Ông lưu lại nơi này một thời gian cũng khá dài; có lúc ông ở lâu đến 18 tháng trời liên tục, không buồn về. Ông ghi khá nhiều thư cho Côrinthô hơn bất cứ cộng đoàn nào khác. Đó là chỉ nói đến thư thứ nhất và thứ hai Côrinthô thôi, chứ chưa nói đến phương cách mà Hội thánh dùng để gộp các thư này lại với nhau. Trên thực tế, thánh Phaolô từng viết nửa tá thư để gửi cho cộng đoàn Côrinthô tổng cộng, bằng cách này cách khác, gom gộp các thư lắt nhắt, vụn vặt làm nhiều mảng. Tóm lại, có thể nói: Côrinthô hiện diện trong tâm can thánh Phaolô, cũng rất nhiều.

Nói đến đây, cũng nên nhớ rằng: hoàng đế Augustus vẫn có hệ thống quản cai và bảo trợ đền thờ cùng thần linh theo cách rất riêng của ông. Ông còn là quan thày của toàn đế quốc La Mã thời đó, tức thế giới. Ngược lại, thánh Phaolô cũng có hệ thống trút sạch/tự hạ của riêng mình. Ông là người từng biến mình thành hư không, trống rỗng vì lợi ích của toàn thế giới chứ không chỉ riêng cho cộng đoàn này khác. Khác biệt ở đây phản ánh lên đế quốc La Mã cũng rất mạnh bằng cung cách đối đầu với tôn giáo khác nhau, ở trong vùng.

Đến lúc này, thánh Phaolô lại đã đồng hành và nói với người dân thành Corinthô như sau: “Kỳ thực, tôi chẳng ưa gì thói tục loạn luân ở đây hết. Cũng thế, tôi cũng chẳng thích thú gì khi nhận ra những ảnh hình về tâm-lý tự-tạo mà bà con đây từng có. Vẫn biết rằng bà con ở đây rất tự hào về chính mình. Nhưng lập trường của tôi, là: ta phải làm sao để trở nên yếu kém hơn và khùng điên hơn khi tiếp xúc trực tiếp với Chúa. Đó là những gì mà động lực phục sinh/trỗi dậy đã và đang thực hiện cho quý vị. Và, sự việc mà động lực này diễn tả, là: ta càng ngày càng cận kề, không bằng uy lực của mình, cho bằng lòng ao ước muốn khuynh loát/không chế người khác, về tình dục và sự yếu kém của chính mình. Đây là sự đối đầu hoàn toàn có tính chống báng lối sùng bái nữ thần Aphrôdite.”

Đó là lời thánh-nhân nói với người dân thành Côrinthô, đại loại rất thẳng thừng và dứt khoát. Tuy nhiên, ta vẫn có thể bảo: dân-cư ở đây không mấy sốt sắng/hỷ hoan đón nhận ý kiến này, bởi họ là đám quần chúng luôn tự cao, tự mãn lại cũng chẳng ưa thích những người muốn chỉ bảo mình lối sống giống hệt người khác.     

Tác giả Tom Wright có lần cũng đề nghị, và theo tôi ông có quan điểm rất đúng, là: 4 chương đầu của thư thứ nhất Côrinthô, ta nên đọc và coi đó như một bình luận về những gì được viết ra ở chương hai trong thư gửi giáo đoàn Philípphê thôi. Bởi, qua đó, thánh Phaolô nhận ra được giá trị cũng đáng tin về những gì khiến ông phải chịu đựng về chính trị hơn các kinh nghiệm từng trải về tu đức/linh đạo -đó là nói mà không có thành kiến gì hết về thứ tự thời gian của các thư, như ta biết.

Từ lúc đó, thánh Phaolô tiếp tục đề cập đến giá trị của những yếu kém, khùng điên và bất phổ cập: đại loại cũng tựa hồ như hành xử bê bết về tình dục hoặc thái độ tự cao/tự đại của người dân thành Côrinthô. Thánh Phaolô lại đã khám phá ra điều đó và ông bắt đầu nhận thức rằng: đây chính là loại hình về động lực phục sinh/trỗi dậy đã đánh động ông biết chừng nào. Điều đó không là ý tưởng khiến ta có thể đưa ra thị trường tư tưởng được. Thật cũng khó mà nói với mọi người về chuyện đó; và khó tạo được bất cứ hồi đáp nào tốt đẹp, phi trừ do người “khùng điên” nào đó phản hồi. Và như thế, họ lại coi thánh Phaolô như người lẩm cẩm không còn tâm trí để chú ý đến những chuyện “thiên hạ sự” như ở đây. Theo suy nghĩ của người La Mã và người Hy Lạp, thì thực sự đây chỉ là chuyện khùng điên/rồ dại, thôi. Tiếng Hy Lạp có cụm từ “moria”, có nghĩa: phải là những tay khùng điên/dại khờ ghê lắm mới có những suy nghĩ như thế; và họ vẫn nghĩ: thánh Phaolô khi xưa chỉ là người đệ nhất dại khờ nên mới chấp nhận cung cách sống như thế; và không những thế, ông còn điên dại đến độ cứ tìm cách thông truyền chuyện ấy cho người khác nữa.

Đương nhiên, với người Do thái, thì: đó là tai tiếng. Là, thứ gì đó khiến họ không thể bỏ qua.  Thành thử, thánh Phaolô ngày càng thấy mình khổ đau, bi quan, yếu kém, tức: động thái dại khờ thật đúng nghĩa. Và, đó là: hành xử tai tiếng hiểu theo nghĩa của người gốc Do thái, lúc bấy giờ. Thành thử, càng ngày, thánh Phaolô càng đi đến kết cục bằng thổ lộ:”Lạy Thiên Chúa, đây là tên gọi của trò chơi rất chết tiệt.” Một trò chơi gây tỉnh thức rất đặc biệt. Chính ra, ta có thể hiểu rõ rằng lời ông nói như thể bảo: “Tôi vẫn nghĩ là tôi hiểu được động lực phục sinh/trỗi dậy này. Sự việc, quả thật là “quỉ tha ma bắt” không hay ho chút nào.”

Với thánh Phaolô, sự thể càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết. Ông gặp rắc rối ngay bên trong cộng đoàn Côrinthô do ông thành-lập. Thánh-nhân tìm được nơi tá túc và có công ăn việc làm ngay ở Côrinthô. Mỗi ngày, ông và những người trước đây tin vào phục sinh/trỗi dậy đã quần tụ trước tiệm bán cá mòi ở dưới phố, để nguyện cầu. Mỗi sáng Chúa nhật, tất cả đều đến đó suốt buổi, để cùng ăn và cùng tham dự Tiệc Thánh với nhau. Tất cả đem đến đây phân nửa lợi tức mình kiếm được trong tuần và họ còn đem của ăn/thức uống có sẵn ở nhà mình mang đến mà ăn chung. Xong đâu đấy, họ đem những thứ đó cho những người sống ở vùng chung quanh và phân phối cho những người đang có nhu cầu khẩn thiết nhất. Với thế giới phục sinh/trỗi dậy, thật ra ta không được phép để thành phần khó nghèo, thiếu thốn mãi cứ nghèo trong cộng đoàn mình sống. Họ là những người tin vào cuộc sống không kỳ thị. Họ lập thành những nhóm nhỏ cố ý lật đổ bỏ đi mẫu mã nào mang tính chất kỳ thị để được chấp nhận vào với thế giới rộng lớn hơn.

(xem Chrys C. Cragounis, A House Church in Corinth: an inquiry into the structure of early Corinthian Community.)

Ở Côrinthô, chẳng nhà nào có phòng ốc rộng đủ để có thể chứa hơn 40 người đến tham dự. Nhà cửa ở nơi đây, được xây dựng trên các khu vực như ốc đảo, luôn quay hướng vào phía trong rồi lại kéo về tận sân bãi nội-ô của thành phố. Mỗi lần hội họp, người yếu kém nghèo đói đành phải đứng đứng ngồi ngồi lố nhố ở trong sân, mà thôi.

Tuy nhiên, các nhóm nhỏ như thế –dù chỉ gồm khoảng 50 người là tối đa, vẫn trở thành những người kèn cựa, mâu thuẫn nhau rất nội bộ. Họ trở thành những người chuyên tranh chấp/đố kỵ lại cứ hay đưa ra đôi ba thắc mắc, hỏi rằng: làm sao để ta có thể tụ tập thoải mái mà dự Tiệc Thánh? Người giàu thì mang thức ăn của mình đến, nhưng lại không chịu sẻ san cho ai hết. Người nghèo cũng đến dự, nhưng chẳng có gì mang theo để gom góp mà ăn chung. Thánh Phaolô phản đối những chuyện như thế và ông thất bại rất nhiều lần: bởi, người ở đây quá cứng đầu cứng cổ, chẳng nghe ông. Họ tranh chấp nhau cả những chuyện ăn uống, tức: những thứ mà người nào cũng có thể mua ở cửa hàng thịt trong vùng; có điều là: thịt đó lại là thứ thịt mà dân ngoại đã đem cúng cho thần linh tại đền thờ ngoại giáo mà họ gọi là idolythata. Thánh Phaolô có lần từng thổ lộ: “Thịt nào cũng là thịt, bà con hãy mua về mà ăn, bởi dù có ăn đồ cúng cũng đâu có nghĩa là ta chấp nhận đạo của tà thần đâu chứ”. Nói là nói thế, nhưng rồi ông cũng quay ngược lại và nói khác đi: “Ừ! làm gì thì làm, ăn gì thì ăn, miễn đừng làm cho người đồng môn/đồng loại mình bị “cớ vấp phạm” do việc ta làm là được.”

Thật ra, ông cũng đã thua thêm một lần nữa, trong vụ này. Thua, là thua khi tranh chấp về quà tặng linh-đạo –tiếng Hy Lạp gọi là charismata tức: ơn huệ thu hút người nghe, như thể chỉ mỗi dùng miệng lưỡi thôi nhưng lại thu hút khá nhiều người đến với mình. Thánh Phaolô, có lần lại vẫn nói: “Bà con ta đừng ầm ỹ lên mà làm gì. Đừng coi những thứ đó như cái gì cao siêu mầu nhiệm cả đâu. Chỉ mỗi Tình yêu mới là chuyện chính yếu”. Nhưng, xem ra họ chẳng chịu nghe thánh-nhân khuyên bảo điều gì hết. Thành thử, ông lại thua trận một lần nữa. Thật ra, người ở đây họ tranh chấp/xung khắc với ông cả về chuyện thực thi tình dục (tiếng Hy Lạp là: porneia tức dâm đãng). Về, bản chất tự nhiên của cơ thể con người sau khi đã phục sinh/trỗi dậy. Về, tính cách hợp pháp của việc tỏ cho người khác biết mình xinh đẹp rồi cứ rối lên mà dụ dỗ/hấp dẫn người khác để họ biết mình xinh đẹp rồi quyến rũ xác thịt nguời khác đó. Thánh Phaolô cứ tranh luận mãi những chuyện như thế; và lần nào ông cũng thua. Muốn biết rõ chuyện tranh chấp giữa thánh-nhân và dân thành Côrinthô, ta cứ mở thư thứ nhất Côrinthô ra mà nghiên cứu, sẽ thấy liền.

Thánh Phaolô độ ấy, trông như nguời yếu ớt. Nói rõ hơn, trông ông giống hệt kẻ khùng điên/rồ dại chuyên nói về phục sinh/trỗi dậy để rồi lại kết thúc bằng tình tự chán nản/ngán ngẫm, đến buồn cười. Ông hy vọng rằng: rồi ra, dân Israel cũng sẽ thấy lập trường do ông chủ trương, nhưng thực tế vẫn không phải thế. Bởi, họ chẳng nhận ra được điều gì. Vì, bi kịch cuộc đời vẫn xảy đến, rất rõ rệt. Bi kịch, là ở chỗ: mặt trái cuộc đời vẫn cứ ngày này qua ngày khác, liên tục hiển hiện. Nó khiến ông phải bỏ nhiều thời gian ra để học một điều, là: uy lực Phục sinh rồi ra sẽ chuyển đổi cả thế giới nhân trần, nhưng có thể sẽ không ngang qua ông, ngay khi đó. Khi đó, là lúc ông chỉ tạo cho mình mỗi sự yếu kèm, nghèo hèn, bất lực và chỉ ngang qua uy lực phục sinh/trỗi dậy mới thực sự cải-hoán công việc của ông.   

Ông gọi đây là “kenosis”, tức trút sạch, và biến mình thành hư không/trống rỗng. Ông có được tư tưởng này, là rút tiả từ bài ca vịnh của tín hữu thời tiên khởi trong thư gửi giáo đoàn Philípphê, ở chương 2, như sau:

“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết uy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
(Ph 2: 6-11)

Thánh-nhân đã chấp-nhận một thứ hư không/trống rỗng trong đời mình. Thế nên, chương 3 của thư, còn nói rõ:

“Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức: sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin. Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Ph 3: 7-11)

Thánh Phaolô đi đến kết cục bằng cách nhất quyết không trở thành đấng quan thày/đỡ đầu cho thành viên cộng đoàn Côrinthô, hoặc quan thày/bảo trợ đầy thiên tính, cho họ. Cộng đoàn ở đây, đâu cần quan thày nào hết. Bởi, họ chỉ là và vẫn là cộng đoàn trống rỗng, rất hư không. Thánh Phaolô là người thua cuộc rất lớn trong số những người thua cuộc ở đó. Chính vì thế, ta mới thấy được rằng: động lực phục sinh/trỗi dậy cũng chỉ cải-hoán rất chầm chậm cung cách sống của thành phố, rất như thế.       

Đến đây, tưởng cũng nên xét kỹ hơn về văn hoá của dân con thành Côrinthô. Họ có là người gốc Do thái đâu. Và, ơn cứu độ mà người Do thái có được là nhờ Thiên Chúa can thiệp coi đó như chóp đỉnh lịch sử của mối tương quan giữa Ngài và dân con được chọn, thôi. Trong khi đó, Côrinthô lại là môi trường của dân con ngoại Đạo. Nên, ơn cứu độ chỉ đến với cá nhân mỗi người qua quan hệ mật thiết với ngẫu thần nào đó đã thuần phục và sẻ san thân phận bí nhiệm của họ. Điều này cắt nghĩa tại sao dân thành này lại có đến hai trạng thái tâm tình vừa phấn chấn vừa lãnh đạm do chủ nghĩa cá nhân tạo thành. Nói cho cùng, thần tính của họ đã được cứu rỗi, nhưng xác phàm lại không được chú tâm. Họ thực thi mọi mệnh lệnh để đưa vào với “bí nhiệm của phụng thờ sùng bái” sau khi được thánh Phaolô khai tâm mở trí. Họ cũng có đảng phái chính trị, vẫn thường kết nối với các lối giải thích khác nhau về những bí nhiệm của việc phụng thờ, sùng bái thần linh.       

Thánh Phaolô từng nói cho người dân ở đây biết về quá trình ngoại đạo của họ, nhưng ông vẫn giữ tâm trạng hạ xuống thấp niềm phấn chấn khi xưa vẫn có, để tỏ bày niềm ưu tư nối kết với Đức Kitô, Đấng chấp nhận đóng đinh vào thập giá để thánh-nhân đi vào con đường có thập tự bằng tinh thần vâng phục cao hơn, ngõ hầu lĩnh nhận ơn cứu độ trọn vẹn cho thân xác yếu hèn đã phục sinh.

Người dân ở đây thắc mắc nhiều về tính dâm đãng, cùng lối sùng bái ngẫu thần và ân huệ thu hút người nghe cũng như bản chất của thân xác ngang qua phục sinh/trỗi dậy. Họ gửi đến thánh Phaolô một danh sách có ghi đầy đủ những thắc mắc/vấn nạn về thế thái nhân tình ở Côrinthô vào lúc thánh-nhân lưu lại tại Êphêsô giữa thập niên ’50, sau Công nguyên. Thánh Phaolô, khi đó, đã có thư hồi đáp cho họ sau khi ông rời trại giam nơi đây –và việc này xảy đến sau thời gian ông viết bức thư nổi tiếng gửi giáo đoàn Philípphê.

Một trong các lập luận biện chứng mà ông đã có về cộng đoàn Côrinthô là để xem người dân ở đây sinh hoạt tụ tập ra sao, vào buổi Tiệc Thánh. Thoạt nhìn, nhiều người nhận ra rằng: thành-viên cộng đoàn này vẫn đang lẩn quẩn ở đâu đó, không nhất định. Chừng như, họ chỉ muốn tổ chức các buổi họp mặt theo thể thức chỉ thế thôi, tức: vẫn thực hiện cùng một kiểu, làm cùng một thời như mọi người. Trong khi đó, thánh Phaolô lại muốn họ tuân thủ lề lối có hơi khác. Nhưng, ở đây, có lẽ cũng nên đặt vấn đề hỏi rằng: cuối cùng thì ai là người giành được thắng lợi? Câu trả lời: dĩ nhiên, người đó không thể nào là Phaolô thánh-nhân được. Làm sao ông lại có thể vượt thắng được những người cứng đầu cứng cổ như dân con thành Côrinthô như thế.

Với thánh Phaolô, tham dự Tiệc Thánh là cốt để tín hữu mình đến với nhau mà tưởng nhớ và thực hiện buổi tiệc họp mặt cùng với Chúa và có Chúa hiện diện ở với mình. Một số chức sắc có thẩm quyền trong cộng đoàn, là những người đăng cai tổ chức các buổi tụ tập ở “căn-nhà-nguyện-đường” của ai đó, cho thích hợp. Cung cách họ thực hiện buổi Tiệc Thánh cũng hệt như mọi bữa tiệc khác, tức: do các đấng bảo trợ người Hy Lạp hoặc La Mã vời họ đến. Nghĩa là, vẫn thừa-mứa đủ mọi thứ từ của ăn cho đến thức uống, nhưng trên thực tế, họ lại làm theo hai cách thế rất khác biệt. Cách thứ nhất, giống hệt như mọi buổi tiệc khác là: mọi người mang đồ mình nấu nướng đến nơi họp, rồi kéo nhau ra một góc nào đó mà thưởng lãm theo nhóm của mình. Cách thứ hai, là thực hiện theo kiểu bữa Tiệc Ly có Chúa chủ trì, tức: sẻ san hết mọi thứ, cho mọi người. Cách này thích hợp với cung cách tạo dựng cũng rất mới. Thật cũng dễ đoán được tâm tình của thánh Phaolô vào các buổi như thế; nhưng, do tính “yếu kém” rất mới mẻ của mình, thánh-nhân lại không thể đưa ra lập trường tư riêng của ông, nên ông đành phải nhượng bộ. Vì thế nên, ông đã yêu cầu các vị nào có khả năng hoặc khá giả, nếu được, hãy ăn uống trước ở nhà rồi hẵng đến. Và cứ thế, thánh-nhân còn đề nghị với tất cả mọi người có mặt ở buổi Tiệc, hãy bẻ bánh vào lúc sớm và sau đó, trong lúc ăn, hãy chuyền thức uống cho các nhóm nhỏ hoặc cho mọi người, có mặt ở buổi Tiệc.  

Một lập-luận thường gây tranh chấp khác nữa, là về tình dục và quan-hệ dục-tính giữa nam/nữ. Bằng vào truyền thống của người Do thái và của riêng ông có thị kiến sống động, thánh Phaolô chủ trương nam nữ phụ-thuộc vào nhau chứ không chỉ sinh hoạt một chiều. Và lập trường này xuất phát từ việc nam nhân phối kết với nữ giới. Theo tôi, thánh Phaolô tiến xa/tiến mạnh hơn cả nền thần học phổ thông của người Do thái về vấn đề này, nữa. Ông đã nhận thức sự việc là nam-nhân cũng như nữ giới phải phụ thuộc lẫn nhau bằng hôn nhân phối kết tựa hồ động thái hiệp thông kết-hợp giữa các đối tác qua đó sự việc phục sinh/trỗi dậy rất mỏng mảnh là do ở người thuộc phía bên kia. Ông nhận thấy “đối tác” phía bên kia, không là ai khác nhưng cả hai đã “nên một” với Đấng đã trỗi dậy như họ, và trong họ. Có lẽ việc đó còn hơn cả chuyện trở thành người dân thành Côrinthô, cũng rất rõ. Thánh Phaolô không thể là người thắng cuộc được, dù ta có diễn giải sự việc theo cung cách của tín hữu Đức Kitô tốt đẹp đến thế nào đi nữa, ông vẫn là người thất bại ê chề do có hiểu lầm và sai sót trong nhận định từ phía người Côrinthô.  

Ở đây nữa, ý niệm về cộng đoàn nay đã đổi thay cũng rất nhiều. Nói nôm na, thì mẫu mã/hình thái của người La Mã là ý niệm chủ chốt về cộng đoàn từng kéo theo nhiều dị biệt cũng như sự bất bình đẳng và cạnh tranh giành phần thắng lợi về cho mình; trong khi đó, loại hình cộng-đoàn do thánh Phaolô thiết lập là cộng đoàn mang tính “trút sạch”/trống rỗng lại dẫn đến động thái công bằng và hợp tác. Đặc biệt hơn, đây là động-thái tạo sự đối thoại với người dân thành Côrinthô mà thánh nhân chủ trương phải đi xa hơn cả vào khi ông bị giam giữ tại trại tù ở Êphêsô lúc đó ông cũng suy tư theo cung cách đặc trưng có hiểu biết, rất lý lẽ về công việc của Chúa tác động lên thế giới gian trần.

Trong khi đó, người La Mã chỉ muốn tập trung tư-duy vào những gì thuộc về con người, của con người; hoặc nhiều lắm, họ cũng chỉ quan tâm/để ý đến những gì là con người với tư cách xác thịt mà thôi, tức: về sự việc thông thường của văn minh nhân loại, vào thời đó. Người La Mã chỉ đặt ưu tiên vào các suy tính khôn khéo và về con người khôn lanh/linh lợi, ưu tiên cho thực quyền và những kẻ ỷ rằng mình có quyền, ưu tiên cho sức mạnh và người cường tráng. Còn, thánh Phaolô lại khác, ông chỉ tập trung suy nghĩ vào sự khùng điên/rồ dại, vào chính sự yếu kém cũng như kẻ yếu hèn, trong đó có chính ông.

Bốn chương đầu của thư thứ nhất gửi con dân thành Côronthô cũng tựa hồ như một bài bình luận rất dài để bàn về những gì được ghi trong thư Philípphê ở đoạn 2 câu 6-11. Chính đó, là tiến trình “trút sạch” thành hư luống của Thiên Chúa là Cha Đức Kitô và là tiến trình phục sinh/trỗi dậy nói chung, từng kích bốc đặt nặng việc sử dụng sự yếu kém cho mục đích giống như thế. Dĩ nhiên, sự việc ấy dù sao cũng mang tính cách ít bi đát hơn là việc đóng đinh vào thập giá; bởi, đây là khả năng đã suy yếu khi phải đối đầu giải quyết những chuyện thường ngày. Và đây còn là “tiến trình” rất phục sinh. Lại nữa, ngay như thư thứ hai Côrinthô đoạn 11 câu 22-33, thánh Phaolô còn đi đến chuyện khuấy động sự yếu kém cả cho chính ông, tận bên trong con người mình.

“Họ là người phục vụ Đức Kitô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu kém mà tôi lại không cảm thấy mình yếu kém? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên sùng sục không?

Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu kém của tôi. Thiên Chúa, Đấng đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Đức Giêsu, biết rằng tôi không nói dối. Tại Đamát, tổng đốc của vua Arêta đã cho lính canh gác thành để bắt tôi. Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông.”
(2Cor 11: 23-33)

Thánh Phaolô nhất quyết kiến tạo sự sống rất phục sinh cho chính mình và ông vẫn tự coi mình là đồ đệ hăng say/nhiệt nồng của Đức Chúa, bởi ông biết rõ mình là như thế. Và, người Côrinthô không thể khuynh loát lợi dụng câu nào, chữ nào của ông hết. Ông bắt đầu nói lên sự thật, để bảo họ: “Kìa! Đã bao lần tôi loanh quanh luẩn quẩn bên cạnh các cạm bẫy đặt để cho tôi. Chỗ nào, tôi cũng làm thế, và bà con cũng nên làm theo kiểu của tôi đi là vừa – bởi đó chính là cung cách đích thực mà người con của Đức Chúa rất nên làm.” Thế nhưng, những người nghe ông nói, họ đâu có làm theo lời ông khuyên, bởi họ không thể chấp nhận những lời lẽ như thế được. Kịp lúc ấy, ông lại nói:“Tôi từng ghi thư cho bà con rất nhiều lần và gửi cho các nơi khác nữa; và này! bà con hãy cứ xem các thư do tôi viết, bà con sẽ thấy những điều tôi đề nghị với mọi người.”

Hệt như thế, dân con thành Côrinthô chẳng buồn tin vào những lời tựa hồ như thế, nữa. Kết cuộc, là thánh Phaolô phải thực hiện vai trò của người chuyên cảm kích/khích lệ chứ không là kiểm soát viên của ai, cho ai. Ông có thể khuất phục họ từ khoảng cách nào đó cũng khá xa, bởi ông viết thư này là viết từ Êphêsô rồi gửi về cho người dân thành Côrinthô, ngay tức thì. Cả vào lúc cãi vã/biện luận với họ cũng thế, khi đó ông đâu có lưu lại tại Côrinthô, đâu. Sau bao lần nhượng bộ đến độ như “xuống nước”, thế mà họ vẫn không tin vào điều ông trần tình đến độ cứ để mọi chuyện đổ lên trên người ông. Thành thử, khi đã nhượng bộ cả đường lối suy tư/xét đoán tốt đẹp là thế rồi, thông thường làm được chuyện này cũng là điều phải lẽ, nhưng ông chẳng thực hiện được đường lối do mình chủ trương như dạo trước. Đó chính là cách diễn tả động lực phục sinh/trỗi dậy ngay bên trong con người mình. Nay, thì ông không còn ưa thích những kiểu cách như thế nữa.                

Có thể, có người lại sẽ bảo: tôi đây, cũng chẳng ưa gì động lực phục sinh với trỗi dậy hết, nhưng chỉ muốn vứt bỏ những thứ đó vào một xó nếu như tôi buộc phải nghe/biết những điều đại loại như vậy. Thế đấy! Dân thành Côrinthô khi xưa cũng từng làm thế với thánh Phaolô, dù đó không là thói quen họ vẫn làm vào dạo trước. Họ chỉ muốn bàn luận điều gì mà họ cho là quan trọng, lớn lao hơn mà thôi. Và, Phaolô thánh-nhân vẫn cứ thua hết thua cuộc này, rồi lại thất thế cả chuyện khác. Quả nhiên, động lực phục sinh/trỗi dậy đã thực sự khiến thánh Phaolô trở thành người thua cuộc tự bẩm sinh. Và đó là bài học quý giá dành để cho ông cách đặc biệt.

Bài học đây, không chỉ là lối học bình thưòng, chín chắn của những người từng trải nghiệm qua nhiều năm tháng với ngày giờ. Đó không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng về mặt tâm lý, rất bình thường mà thôi; nhưng theo tôi, đó là cung cách để ông được học và học được những gì khác với điều mình nghĩ: có lẽ ông cũng chẳng bao giờ được học và cần học những điều như thế nữa. Và, điều đó khiến ông suy tư nhiều hơn, chẳng hạn như có lần ông từng nói: “Lâu nay, chẳng phải là tôi từng nói cho mọi người biết hết mọi sự sao? Và, chẳng phải là tôi đã kể cho mọi người nghe làm sao, biết thế nào, chứ?” Và từ đó, nó bắt đầu hiển hiện trước mắt ông ngày càng giống như lý thuyết rất tốt đẹp, nhưng không bao giờ là thực tại hiển hiện trước mắt ông. Thế rồi, ông lại đã loanh quanh nói nhiều hơn nữa về thực tại rất rõ ràng. Đồng thời, ông lại cũng đi đến trạng thái bớt đi việc áp đặt nó lên mọi người và nói cho họ biết thực tại ấy hiện thực đến thế nào đối với ông. Và chung cuộc, là ta cũng đã thấy đôi chút về con người của ông ngày càng tốt đẹp hơn.

Ở phần cuối thư thứ nhất Côrinthô, nhất là chương 13 và thư thứ hai Côrinthô, đặc biệt ở cuối thư, thánh Phaolô lại đã tìm cách nhè nhẹ đưa điều này vào khuôn khổ của công việc mà ông từng sử dụng. Ông có nói:

“Phục sinh nói chung ư? Vâng, đúng thế. Và đó chính là phần dạo đầu để đi đến một đổi thay cuối cùng về thế giới bạo tàn này, theo cung cách rất chính trị. Vâng. Cuối cùng rồi thì sự thay đổi toàn bộ thế giới gian trần cũng sẽ làm cho mọi người kết hợp hài hoà mà thương yêu nhau, để rồi sẽ có buổi tiệc cánh chung với đủ mọi thực khách cùng đến với nhau mà thưởng lãm. Quả thật rất đúng. Tôi có được điều đó là nhờ đã rút tỉa đôi điều từ học thuyết cánh-chung-luận của người Do thái và tôi đưa những chuyện của Đức Giêsu Kitô vào trong đó. Và, đó chính là chủ đích tôi nhắm đến.” Thế nhưng, nay ông lại nói: “Bà con biết đấy. Những gì sẽ xảy đến, khi toàn bộ việc chữa lành toàn thể vũ trụ nhân trần đã hiển hiện, thì tất cả sự việc xảy đến lúc đó sẽ chỉ duy nhất nói lên có một lời. Và, lời đó là: Tình yêu, thôi”

Ông còn đưa vào cụm từ “Tình yêu”, nhiều sắc thái và chiều sâu mà theo tôi nghĩ ông chưa từng thấy được vào lúc trước. Đó đích thực là Tình yêu theo cung cách rất mới. Thứ tình không chứa chấp bạo lực hoặc động thái khống chế. Tình yêu đây, không là lối yêu đương theo kiểu dục vọng như của người dân thành Côrinthô. Và, cũng không là lối thương yêu theo cảm-nghiệm thiêng liêng đầy tính xuất-thần của Artêmi. Đó là Tình yêu mà ông hướng đến; hướng một cách chậm rãi nhưng dồi dào/sung mãn, vuợt khỏi kinh nghiệm mà họ không chịu lắng nghe, và cũng phải nhượng bộ những thứ cần thiết, như những kẻ khờ dại từng có cảm xúc yếu kém, rồ dại khổ đau vì hư luống, “trút sạch”. Từ đó, ông gặp được tình yêu theo kiểu cách mà trước đó có lẽ ông đã không muốn thực hiện. Phải chăng đó là tình yêu thương con người? Đúng thế. Phải chăng đó là Tình yêu của Thiên Chúa? Vâng, tôi vẫn nghĩ như vậy. Thế nhưng, sau một thời gian ngắn, thánh Phaolô lại nghĩ Thiên Chúa cũng là Đấng dại khờ giống như ông. Và, Ngài cũng thực hiện tình yêu điên dại như ông đang thực hiện, ở đây. Ngay lúc này. Nhưng, dứt khoát đó là cuộc vận động nơi thánh Phaolô, và đó là tất cả sự nhỏ bé có ở nơi ông, nếu ta dùng lối nói như thế để tiến bước về phía trước hoặc mường tượng về thể loại yêu thương mình phải có ở mọi nơi, trước khi vũ trụ phàm trần vui lòng mặc lấy nó. Và thánh Phaolô cũng thừa biết là mọi sự sẽ không thể thành tựu được nếu tình thương yêu này chưa hiển hiện với mọi người. Tôi nghĩ: đó chính là tâm trạng rất khác biệt nay hiện rõ tận bên trong con người của ông.

Thế nhưng, ngay lúc đó, ông lại đã nhận ra rằng bước tiến mà ông thực hiện việc dấn thân và tầm kích của sự lặng êm ông đang sờ chạm là yếu điểm rất không ngờ, và cũng chẳng mời mọc dân con trong thành đi vào với tình thương yêu tối thượng là hiệu quả cho thấy Thiên Chúa đang hoạt động. Và tên gọi ông đặt cho hoạt động tối thượng này là Thần Khí. Thần Khí đây, không nên hiểu theo nghĩa Ngôi Ba ở Ba Ngôi Thiên Chúa. Và cũng chẳng là Thần khí do Chúa định liệu, chút nào hết. Cũng không hẳn là Thần Khí Chúa đến vào Lễ Ngũ Tuần theo ngôn từ được thánh Luca diễn tả. Ở đây, thánh Phaolô đã thực sự nối kết cụm từ “thần khí” vào với thứ gì đó để ông có thể đi dần vào sự thể thưa dần và ít dần đi. Và, ông coi đó như điều kiện tiên quyết để ta có thể sờ chạm được những gì là dồi dào, sung mãn. Chính đó là sự việc rất đẹp. Là, thay hình đổi dạng thành tình yêu qua sự “trút sạch” thành hư không, trống rỗng. Đó, còn là đặc tính rất biến thái của ý niệm Tình yêu. Là, sự thể rất dễ nể, đầy quyền thế. Từ hư không, ta sẽ kết thúc với sự thể là “cuối hết”, tức Ômêga. Và, chính nhờ Thần khí nối kết người này với người khác , lấy từ người này đem đến với người khác.

Theo tôi, thì đây rõ ràng là cung cách của thánh Phaolô đã đáp ứng lại cảnh tình của dân con thành Côrinthô trong hoàn cảnh rất dị biệt. Chính vì thế, mà nhiều người ở đó cũng chẳng muốn tạo cho mình, tình cảnh đó.

Thánh Phaolô cũng tìm cách quảng bá điều đó cho dân thành Athens trên đường đi Côrinthô vào lúc đầu; và, cũng chẳng thấy ai buồn hỏi han hoặc bén mảng gì chuyện này cả. Đó cũng là lý do khiến ông chào thua tại Athens và đã đi về với Côrinthô.

Thật sự thì, một số nhân vật cứng rắn tại Côrinthô từng chán ngấy lối cảm nghiệm về sự việc lớn lao chẳng tạo được gì cho mình, đã quyết định là họ có thể quan tâm tìm về với động thái như thế. Chính vì lý do đó, thánh-nhân mới thiết lập cộng đoàn Côrinthô theo kiểu cách của riêng ông. Lúc đó, có đong có đếm cho kỹ cũng chỉ thấy không hơn 50 người hiện diện ở cộng đoàn sở tại.

Tác giả Jerome Murphy-O’Connor đã làm một số công việc tuyệt vời rất nhiều năm, để dõi theo và tìm ra danh tánh của các vị được nêu tên trong các thư của thánh Phaolô; và cả đến các gia đình nối kết với các vị này, cuối cùng ông cũng chỉ tìm ra không đầy 50 vị. Và, có lẽ tầm kích cộng đoàn nơi đây cũng chỉ bấy nhiêu, thôi. Có thế, mới hiểu được làm sao cộng đoàn này lại có thể tụ tập ở sau vườn nhà hoặc tại “căn-nhà-nguyện-đường” rộng lớn hơn. Có lẽ vì thế mà cộng đoàn đó chẳng bao giờ cần đến chung cư hoặc biệt thự đặc biệt nào hầu tổ chức các buổi tụ tập nguyện cầu ngay tại chỗ. Có lẽ đó cũng là sự thể nhỏ bé rất đặc trưng từng biến cải con người của thánh Phaolô và cả cộng đoàn ở đây nữa, ngõ hầu có được sự cởi mở độc đáo, đúng yêu cầu. Và, có lẽ cũng chính ông từng định danh sự cởi mở độc đáo này là “tình thương yêu” và đặt tên cho việc vận động chuyển luân từ người này đến người khác là “Thần khí”. Xem thế, thì chính ông đã tạo mẫu mã rất khác biệt cho “cộng đoàn” mình.

Ngôn ngữ Hy Lạp có cụm từ “Koinonia” đồng nghĩa với tiếng “communio” tiếng La-tinh để nói lên tinh thần “chung phần hợp tác” dù chỉ một số nhỏ chứ không phải toàn bộ. Chính đó là sự “chung phần” tận bên trong và cũng là “hợp tác” rất sâu thẳm trong tiến trình trọn vẹn. Đó, còn là sự thể để ta đi vào tận bên trong và có được cảm nghiệm về những gì xuất từ phần sâu thẳm, rất “ở trong” ấy. Toàn thể cộng đoàn ở đó, nay bắt đầu nhận ra rằng có thể là họ không làm được gì về chuyện đó, nhưng họ lại đang làm được rất nhiều thứ về chính nó. Ở nơi đây, đã thấy sự triển nở rất lớn mạnh bên trong con người của thánh Phaolô. Nói khác đi, nghĩa là bảo: ta có thể hiểu được rằng: nếu lúc đó, mọi người hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của Đạo Chúa, thì có lẽ họ sẽ khuyên: “Hãy quên chuyện ấy đi. Chúng tôi đang có ở trong người những sự việc còn thích thú hơn nhiều.” Quả có thế. Cũng có thể, là thánh Phaolô đã chấp nhận sự thật từ sự việc ấy nhất là vào thời gian ông càng ngày càng thêm tuổi. Và theo tôi, thánh Phaolô đã sờ chạm vào thứ gì đó thực tiễn hơn cả những điều ông từng nói với dân con cộng đoàn và người khác, khi còn trẻ. Nói cách khác, đó là lúc ông có được thuật hùng biện vững chắc và lãng mạn hơn lúc đầu. Và, trong thuật-ngữ phục sinh/trỗi dậy nữa. Càng về già, ông càng thực tế chứ không chỉ lãng mạn, bàn toàn chuyện dưới đất nhiều hơn trên trời, rất lý thuyết.

Chính đó là lý do khiến tôi đã nói ở phần đầu, là: theo cung cách rất nghịch thường, thì “Roma” tức “Amor” đọc ngược lại, theo nghĩa rất “yêu đương” của tiếng La-tinh. Văn chương/văn hoá La Mã vẫn quan niệm tình thương yêu rất thiếu sót. Cái hay ở thánh Phaolô, là: ông đã đưa ra loại hình tình yêu tối hậu, không giống mảnh vụn riêng tư của thần tính mà đúng là hệ thống chính trị của riêng ông thay cho hệ thống của La Mã. Ông đề nghị như thế cho thành phố nào của đế quốc La Mã đã “sẵn sàng”. Đây là sự triển nở rất lớn rộng không chỉ với thánh Phaolô thôi, mà còn cho toàn bộ thần học mục vụ của “Hội thánh” theo đúng nghĩa. Xin mở thêm một dấu ngoặc ở đây để ta có thể nhắn với nhau rằng: hãy quên đi những bất đồng nho nhỏ ở Antiôkia giữa thánh Phaolô và thánh Phêrô và Giacôbê khi trước. Bởi, đó chỉ là buổi tập huấn ban đầu về sự sống sau này mà khi đó ông chưa mường tượng ra, thôi.

Một trong các chìa khoá chính của lập trường này, là ở chương 2 thư Philípphê mà tôi vừa đọc đoạn diễn giải từ thư thứ nhất Côrinthô chương 1-4, là như thế. Ở đây, tôi cũng xin nói thêm một điều này, là: ta có thể thêm những điểm như thế vào thư thứ nhất Côrinthô ở chương 13 cũng là chương đề cao tình yêu, và lòng mến agapènhư ca vịnh để tuyên dương/đề xuất. Và, nếu muốn đi sâu hơn vào thư thứ 2 Côrinthô ở đoạn 5, ta sẽ thấy được tất cả đã bao hàm cách tuyệt vời mọi công tác ở đó. Đấy là lý do khiến tôi bắt đầu bằng thư Philípphê trước đã, sau đó mới xét đến thư Côrinthô. Theo dõi chuyện này, ta còn thấy nhiều điều hơn thế. Và đây nữa, vẫn là cung cách diễn tả cách tốt nhất về cảm nghiệm gọi là con đường Đamát, là như thế.

Cũng trong khuôn khổ triển khai tình tự ấy, quan điểm của thánh Phaolô về phục sinh còn ghi đậm chiều sâu hơn thế nữa. Nói cách khác, dân con thành Côrinthô của thánh-nhân, nói theo triết lý, thì họ đều là những người theo triết thuyết Plato cũng sâu sắc. Có thể, những người như thế đều đã chấp nhận sự bất tử của thần tính rất linh hồn. Thế nên, khi thánh Phaolô đề cập đến việc phục sinh/trỗi dậy của thân xác, họ lại cho đó chỉ là chuyện tầm phào, vớ vẩn. “Bề ngoài” của Đức Kitô Phục sinh có thể cũng không thích hợp với họ cho lắm. Vì thế nên, thánh Phaolô mới tạo thêm sắc thái cho tư tưởng của ông. Ông bắt đầu bằng việc nói rất rộng về tiến trình phục sinh rất chung chung như một bản dạo đầu cho công cuộc biến đổi chung cuộc của toàn thế giới, đi vào tình trạng gọi là Omega, rất “cuối hết”.

Xem thế thì, đã có sự công bằng chính trực cho tất cả mọi người, ở dưới thế cũng như ở nơi cao vời vợi ấy. Và thánh nhân cứ thế nhấn mạnh điều này, là tiến trình phục sinh rất chung nay đã khởi sự lớn mạnh rộng khắp. Và Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu Kitô rất sống động ở trong ta, và cả nơi đặc tính yếu kém của ta nữa, cuối cùng cũng đã rửa sạch được chuyện bê tha/ tồi tệ, của thế giới. Đức Giêsu và cả chúng ta nữa, là thân mình của Thiên Chúa, đều ở trong thân mình có Thần khí Chúa tác tạo ra uy lực ở đây, ngay bây giờ. Bằng vào tư tưởng này, thánh Phaolô muốn nói đến thân mình thực tế rất “yếu kém” của ta được Thần khí biến đổi để trở thành sự thể đích thực trong thân mình rất chính trị, thời hiện tại, nhất là khi ta sống hiệp thông san sẻ Tiệc Thánh đích thực. Và, thánh Phaolô còn đi xa hơn nữa bằng cách đề ra lập trường tư tưởng bảo rằng: không phải cái chết thể xác hoặc sinh lý cuối cùng sẽ thắng thế, mà là bạo lực, chí ít là cái chết rất bạo tàn để cuối cùng các vị tử đạo đều được xác nhận qua sự công bằng của Thiên Chúa. Và, đó mới là sự yếu kém của chúng ta.

Ở đây, nhiều người vẫn cố gắng đi tìm diện mạo tâm lý của thánh Phaolô. Trái lại, tác giả Murphy O’Connor lại đã có một số nhận xét về điều đó. Ông từng nói: ngôn từ mỉa mai/châm biếm của thánh Phaolô về Côrinthô và cả chuyện thánh nhân từng giận hờn/cau có này khác đều là chuyện bên lề, mà thôi. Sự thể về ông lại cứ hành xử theo cung cách của chính trị gia vui tính hoặc ngay cả đến tâm tính phẫn nộ/thiếu kềm chế đã khiến ông sai trệch một đôi lúc. Tác giả đây, không nghĩ rằng thánh-nhân đã bỏ phí thì giờ để cứ phải đề cập đến tư tưởng của mình về các ý niệm triết học, và ông đã để chuyện ấy chuyển sang cho Apôllô, người đệ tử rất mẫn cán của chính ông.                                                             


THƯ THỨ HAI GỬI GIÁO ĐOÀN CÔRINTHÔ

Cộng đoàn Côrinthô chưa bao giờ là cộng đoàn dễ ưa hoặc dễ chịu cả. Tất cả mọi rẽ chia, đối nghịch đều phát xuất từ sự thể là mọi người quá đặt nặng tin tưởng vào tính chất cởi mở và ‘cho đi’ của Thần Khí rồi đã quyết chí tìm đến đổi thay và xử trí. Kết quả, như các thư từ/giao dịch với thánh Phao lô cho thấy, có những mẩu vụn thư nhắn gửi đến đã chứng minh là: vẫn còn đó nhiều ưu tư cũng như bức bách, thao thức, trăn trở,.

Thư Corinthô số 1 không giúp ích được nhiều người. Bởi, sau đó vẫn có nhiều thư khác đã được viết xem như thể:

  1. Thánh Phaolô đã phải vội vã ghé thăm Corinthô, xứ miền đầy khổ đau;
  2. Thánh Phaolô vẫn cử đại diện đến thăm thủ phủ này;
  3. Thánh Phaolô đành phải ghi một thư khác khá nghiêm trọng gửi về cộng đoàn. Thư đó được viết trong tình trạng đầu óc suy sụp đến độ ‘hôn mê’ như được kể ở 2 Cor 2:3-9
  4. Titô đến đến báo tin cho Thánh Phaolô biết bức thư nghiêm trọng ấy, đã đạt được kết cuộc khá khả quan.

Và rồi sau đó ta lại có thư Côrinthô số 2. Tuy thế, thư này là sự kết hiệp của ít nhất hai bức thư. Hai thư chính yếu này là:

Lá thư đầu, là để cử hành việc giải hoà giữa thánh Phaolô và dân con thành Corinthô : chương 1-9.
Thư sau gồm các chương từ 10 đến 13…

Toàn bộ thư đầu có 2 đoạn nhỏ không ăn khớp với nhau cho lắm. Cũng có thể đó chỉ là trích đoạn được rút từ các thư nào khác chứ không từ thư Corinthô đầu, thôi.

            Đoạn 6, câu 14 đến đoạn 7 câu 1 bàn về trạng thái lo sợ người ngoài.
            Đoạn 9 từ câu 1 đến 15 là để gửi cho hội thánh ở Galát bàn về tiền thu thập nói chung.

Sức mạnh thù địch từ bên ngoài cộng đoàn lâu nay lại đã phá rối Cộng đoàn ở đây. Họ đến với cộng đoàn đem theo mẫu mã về những điều mà tiếng Hylạp gọi là ‘theios aner’, tức nhân vật thần thánh hiểu theo nghĩa: chính họ đã được thấy Đức Giêsu, và đã hồi hướng trở về. Điều này dẫn đến nhiều xung khắc phản kích lập trường đặc biệt của Thánh Phaolô, nên vẫn cần đến hoà giải/hoà hợp cả dân nước. Thánh Phaolô vẫn nhấn mạnh về sự kiện “Đức Kitô chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá”, thế nên việc hoà giải hoà hợp chỉ có nghĩa giới hạn như vậy, thôi.

Lại có sự thể là người Côrinthô vẫn cứ loay hoay giữa các lập trường cố hữu liên quan đến việc “tự dung tha” cho đến quan điểm chủ thuyết khắc kỷ đặt sai mục đích. Thánh Phaolô nhân thấy thấm mệt nhưng cũng đã tìm cách giải quyết mọi sự bằng một đường lối khá chính đáng để họ sống cho thích hợp.

Thư Côrinthô số 2 ở đoạn 11 câu 21-33, thánh Phaolô liệt kê ra một danh sách kể về các nỗi khổ mình từng chịu. Ông nói đến sự yếu kém, ốm đau, âu sầu, khổ ải –tức những điều hoặc các sự việc mà thế giới Hy Lạp từng bỏ phế,- chỉ cốt nhắm vào thân xác toàn hảo của con người. Thánh Phaolô chấp nhận sự bất toàn và gánh chịu mọi nhục nhã lẫn đớn hèn xảy đến với ông. Điều này từng khiến cho Hội thánh ở Côrinthô lấy làm bất mãn, cự tuyệt. Thánh Phaolô cũng đã đề cập đến các sự kiện quá quắt khiến ông ưu tư nhiều về những hành xử từng khiến ông ưu phiền/nhọc nhằn trong cuộc đời. Ưu và nhọc đến độ thánh nhân đã phải nghĩ đến việc tự làm khổ mình xuống mức độ hạ thấp, rất trút sạch. Ông không còn tin tưởng vào một ai. Đây chính là  trạng thái ông định-vị chính mình vào với Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Và, ông cũng đã tìm ra lý lẽ để thấy được rằng Đức Chúa Phục Sinh đã hoạt động tích cực ngang qua ông.

Cuối cùng, ông lại đã đi đến giai đoạn coi mọi sự chỉ như một thất bại và cỏ rác; tức, thứ mà người Do Thái tốt lành vẫn luôn trân trọng. Ông đã tụt hạ xuống trạng thái rất thấp đến độ tự biến thái thành hư không, trống rỗng (xem Siguard Grindheim, The Crux of Election, 2003).

Nay, là lúc thánh Phaolô sống đích thực ý nghĩa của tình yêu thương con người đến độ không có gì làm mình tự hào, hoặc cao cả. Và tình thương yêu ấy là thứ chính trị rất mới mẻ đáng được thay thế để đối mặt với loại chính trị đầy khuynh loát/khống chế của đế quốc. Ông đã để cho 2 lập trường sống ấy đối đầu giáp mặt với nhau, không kiêng nể.

“Kể từ nay, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa.”
( 2 Cor 5:16)

“Già lão/cổ xưa” đây, chính là biểu tượng nói về sự rẽ chia, phân cách. Đây là thế giới của những xu hướng kỳ thị sắc tộc. Một thế giới đầy những cách ly, bạo tàn. Thứ thế giới của cạnh tranh/giành giựt chỉ nhằm lợi dụng người khác. Một thế giới cứ chăm chăm chú chú nhằm loại bỏ những người mình không mấy thích thú. Là, thế giới chẳng biết cách tập họp nhau lại mà hoà hợp. Một thế giới chỉ biết sống với ưu tư/lo lắng vẫn quyết rằng Đức Chúa của mình bị chia năm xẻ bảy, xa lánh/tách rời, chỉ chăm chút giữ lối sống bê tha, tiêu cực. Thế giới ấy đầy dẫy những lỗi lầm và sai sót khiến họ cứ lo ngại mình không thể nào hoà giải/hoà hợp được với Thiên Chúa do bởi những điều mình đã làm đáng cho mình hủ hoá thành hư không, trống rỗng; đồng thời tự mình tạo lấy cho mình tình huống không có giá trị gì ở bên trong; hoặc chẳng có gì để tự mình tự hào với Đức Chúa, hết.

Lập trường già nua/xưa cũ ở mọi việc, nay quá lỗi thời nên đã bị cất bỏ đi và lập trường mới mẻ khác đã xuất hiện. Lập trường mới mẻ là thế, nay xảy đến một thế giới trong đó có Thiên Chúa vẫn từng nói: “Nay Ta về với các ngươi. Ta vực các người trỗi dậy từ cõi chết. Ta đòi các người đến để sở hữu mà lo lắng chăm sóc yêu thương, bao bọc các người và đặt các người vào với cuộc sống của Ta. Ta sống cuộc sống của các ngươi cùng với các ngươi. Ta vui hưởng cuộc sống với ngươi và Ta đưa các ngươi tháp nhập vào ở trong Ta”. Đây là thế giới biết tôn kính/trân trọng và yêu thương nhau. Tức, thế giới của sự hiệp thông/nối kết rất quan hệ. Một thế giới trong đó không còn chỗ cho tranh chấp/lũng đoạn giữa con người và Thiên Chúa; và cũng chẳng còn phân ly cách biệt nào giữa con người với con người. Bởi lẽ, thế giới này đã thay đổi, một lần là tất cả’.

“Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.19 Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Ngài. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài.” (2 Cor 5: 17-21)
           
Tác giả Michael Gorman (x. Reading Paul, Eugene, Cascade Books 2008 tr. 8.) đã tìm cách viết về chuyện “Thánh Phaolô bị lên án” rất như sau:

Thánh Phaolô đã diễn giảng rất nhiều điều và sau đó lại lý giải mọi sự bằng vào thư mục vụ kết hợp cộng đoàn khác biệt, sau đó ông còn cắt nghĩa thêm bằng Tin Mừng đầy những truyện kể có tính cánh chung và có cả nền thần học chính trị theo kiểu cách rất khác biệt quyết đề cập đến các luận đề như:

  1. Nối tiếp vào với câu chuyện của Isarael; và

  1. Khác biệt hẳn lời lẽ kể về đế quốc La Mã và các quyền bính từng tập trung vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá và Ngài đã sống lại.

Chuyện Ngài mặc lấy thân xác làm người, rồi lại sống như con người và bị đóng đinh vào thập giá cho đến chết. Một cái chết được Thiên-Chúa-là-Cha chứng giám và tuyên dương Ngài bằng sự sống lại và nâng nhấc/thánh-hoá Ngài trở thành Đức Chúa. Ngài khai mạc kỷ nguyên mới bằng vào tạo dựng vũ trụ gồm mọi thành viên, trong đó loài người đã thiết lập giao ước rất trung kiên và họ đã đáp trả bằng một niềm tin rất hãnh tiến, quyết từ bỏ chính mình bằng cam kết tham gia vào với cái chết và sự sống lại của Đức Chúa; và

  1. Mọi thành viên đều được xác chứng và tái tạo tương quan giao ước phải lẽ/đúng đắn với Thiên Chúa và với người đồng loại;

  1. Tất cả được tháp nhập chung vào Và lại cứ chan hoà  thân mình đặc biệt của Đức Kitô ở trần thế là Hội thánh, tức cộng đoàn thay thế các nhóm người đã có đó, vẫn cương quyết để Xêda và vua chúa ở thế trần quản cai bằng các đặc trưng đi ngược lại Lời Chúa ở Tin Mừng.

  1. Và rồi lại hoà trộn theo tư cách cá nhân riêng lẻ vào với Thần Khí của Con Thiên Chúa đến độ bao gồm cả cuộc sống lưỡng nguyên vốn dĩ tập trung vào cuộc sống giáng trần và hướng vào công cuộc tái lâm của Chúa, để bắt chước Đức Kitô mà chấp nhận thập giá, tức luôn tin tưởng và hy vọng vào Chúa cũng như thương yêu người đồng loại và kẻ thù của mình nữa. Tình yêu như thế được đánh dấu bằng sự an hoà hội nhập bằng vào vị thế vui vẻ thực hiện trước những điều như sau:

1.) Trở về lại với Đức Kitô

2.) Người chết trỗi dậy để rồi sẽ đi vào cuộc sống vĩnh hằng

3.) Hoàn toàn đổi mới công cuộc tạo dựng vẫn liên tục.
Mai Tá lược dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét