Trang

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 9)

Phao-lô, vị thánh của mọi thời (kỳ 9)



DO-THÁI-GIÁO THEO NHÃN-GIỚI KIỀU-BÀO
 Lâu nay, nhiều người vẫn có khuynh hướng cứ coi Đạo Chúa và Do-thái-giáo như sự kiện nổi bật trong đạo, thời lịch sử chỉ mới chớm. Tình thực mà nói, khuynh hướng do các vị tạo cho mình chỉ đại diện cho một số rất nhỏ trong tổng thể là đế quốc. Các vị đại diện Đạo Chúa và Do-thái-giáo thường gọi những người sống đạo khác với mình, là dân ngoại. Quả có thế. Nhưng, “chủ thuyết dân ngoại” lâu nay đâu tồn tại. Bởi, nền văn hoá rất cao của họ chỉ tồn tại với nền thần học do các vị theo Đạo Chúa chủ trương. Còn, văn hoá thông thường của họ lại tồn tại ở ngành chiêm tinh, y học dân gian, ảo thuật kỷ xảo, khoa bói toán, phép trừ tà và nói theo kiểu biện luận/cãi tranh, thì vẫn còn đó thói sùng bái đấng bậc lành thánh, rất trên cao. Các vị nói ở trên, hầu hết là đấng quan thày chốn trên cao, nơi cõi trời mây cao vút ấy.

Ngôn ngữ Hy Lạp có cụm từ “paideia” được mọi người dùng để nói về chính sách giáo dục đặt định cho đế quốc lớn rộng cốt làm nền cho đường lối/chính sách họ đề ra. Chính sách đó toàn bộ dựa trên ngôn ngữ chứ không như truyền thống của Do-thái-giáo hoặc thánh truyền của Đạo Chúa. Về văn hoá, luôn có sự khác biệt về thị kiến trí thức giữa Hy Lạp và La Mã.

Thời Marcion, nhiều người lại giả thiết: Đức Giêsu và thánh Phaolô đều kình chống Do-thái-giáo do cung cách họ nhận thức và thực hiện những gì Sách thánh ghi. Đôi lúc Đức Giêsu và Đạo Chúa cùng diễn tả nhận thức này theo mô hình kiểu mẫu làm nền cho văn hoá đế quốc. Chuyện này được thấy khá rõ ở sách Công Vụ. 

Thật ra thì, người Do thái lâu nay vẫn có thái độ lạ kỳ về Đế quốc La Mã. Nói thế là bởi, với đế quốc này, chủ thuyết đa tôn-giáo đã từ lâu được thâu nạp và duy trì. Thành thử, vào thời trước, càng ngày người ta càng thấy nhiều thần linh xuất hiện ở Panthêôn bao lâu mọi người vẫn sẵn lòng thờ cúng bậc hoàng đế như vị thần cùng các thần linh sáng giá. Đàng khác, nguời Do thái lại không sẵn sàng hành xử như thế. Họ được tặng ban qui chế “ngoại lệ” mà  truyền thống cha ông họ từng châm chước. Họ phụng thờ chỉ một Thiên Chúa Độc Nhất, rất đích thật. Bởi thế nên, với họ, tất cả chẳng thành vấn đề.

Thánh Phaolô thực sự là nhà tư tưởng của Do thái.

Ở đây, điều quan trọng là ở chỗ ta nhận ra rằng: thời đó, Israel cũng nhỏ bé, vừa tầm. Với thế giới bên ngoài, nhóm người này không được phép xuất ra bên ngoài, ngoại trừ bằng con đường bé nhỏ do kiều bào Do thái thiết lập. Quả thật, thánh Phaolô đúng là người phổ biến chủ trương đó cho thế giới rất La Mã.

Thánh Phaolô thực sự đã sống và chết như một người Do thái chính cống. Ông không chỉ là người Do thái biết suy tư thôi, nhưng ông còn biết tư-duy theo qui cách của người Do thái nữa. Ở đây, cũng nên dừng lại vài giây để xem đường lối tư duy kiểu Do thái ra như thế nào. Có thể nói, tư duy kiểu Do thái vẫn dựa vào truyện kể. Thánh Phaolô lại đã sử dụng truyện kể theo kiểu Do thái, chẳng hạn như truyện Tạo dựng, đã được thánh nhân sử dụng vào mọi lúc và cả lúc này. Vốn dĩ tạo dựng nền trật tự chính trị rất mới, thánh Phaolô đã sử dụng truyện kể của Do thái về Giao ước trong đó Thiên Chúa có kế hoạch thành lập nền trật-tự chính trị từng bị các đám người trỗi dậy biến nó trở thành nhỏ bé. Và chính nhờ vào điểm bé nhỏ ấy nó đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu vớt những kẻ trỗi dậy qua việc xuất hành đi vào trật tự chính trị mới. Thánh nhân cũng đã sử dụng truyện kể theo kiểu Do thái khi nói về Cánh chung. Bởi, vào thời của ông, chuyện này được triển khai cũng rất rộng. Ở đây, là truyện cuối đi vào với nền chính trị theo loại hình được Chúa thiết lập.

CÁNH CHUNG KIỂU DO THÁI

(xem J.D. Crossan, The Resurrection of Jesus in its Jewish context, Neotestamentica, 2003, tr. 29-67)

Sống lại, là ý niệm chủ lực của tư duy Do thái, vào thế kỷ đầu.

(xem thêm Alan F. Segal, Life after Death: a history of the afterlife in Western religion, Doubleday, 2004)               

Đây là chìa khoá mở ra cho thị kiến mà người Do thái từng có về nền trật tự mới vốn dĩ qui về điều gì đó xảy ra khi ấy và cũng hoàn tất ngay lúc đó.

Ở thế giới có ánh sáng soi dọi, những người có khuynh hướng cãi tranh/biện luận, lại cứ bảo: “Sự sống lại” không thể xảy ra được, hoặc cùng lắm chỉ là đặc quyền của Thiên Chúa, mà thôi. Thế kỷ đầu, lúc thế giới người Do thái chưa được ánh sáng soi dọi, thì vấn đề này thật ra không là sự sống lại, cũng chẳng là ý nghĩa mà sự kiện ấy diễn tả, nhưng tính chất “trỗi dậy/sống lại” vẫn thích hợp với khuôn khổ chính trị rất có thực, vào thời đó. Có người vẫn hỏi: bận tâm với những chuyện như thế để làm gì? Tại sao lại gọi những việc xảy đến với Chúa, là “Sống lại”? Sao không đề cao/nâng nhấc với thế giới khác? Có gì khác biệt với chính trị hiện tại, không?

Trước khi đi vào thế kỷ đầu, có những chuyện cũng rất chung cho thấy hầu hết mọi người Do thái đều không tin vào sự sống đời sau. Họ cũng nghe nói về chuyện này. Nhưng, lại cho đó là ý tưởng của người ở ngoài muốn đoạt quyền của Chúa. Họ dứt khoát chối bỏ những chuyện như thế. Cụm từ Sheol bên tiếng Do thái có nghĩa là “chẳng bao giờ như thế”. Sự sống ở đời này cũng đủ cho mọi người rồi. Chuyện tốt/xấu ở đời này, đều xảy đến ở đây. Bây giờ. Chứ đâu cần gì chuyện đời sau. Và về sau, cũng chẳng có gì khiến mọi người phải bận tâm.

Lịch sử Do thái lại rất thực tế, vẫn có những việc xảy đến với họ cách thường tình, nhưng khó chịu. Người Do thái lại cứ nghĩ: chắc họ đã lỗi phạm điều gì tày trời ghê lắm nên mới bị Chúa phạt ngay ở đời này, trong vòng quay lịch sử của chính họ. Bởi thế nên, lúc nào họ cũng xin Chúa thứ tha cho họ mọi điều. Nền thần học rút từ sách Đệ Nhị Luật chứa đựng mọi khía cạnh tích cực ở trong đó, cũng đã luận ra được học thuyết nói về việc Chúa trừng phạt họ, cách nhãn tiền. Chỉ giao ước, mới có thể cứu vãn dân Israel khỏi hoạ tuyệt chủng, thôi.

Giữa thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, sự việc đã đổi thay nhờ các vị tử đạo kiểu Macabê đã đem lại niềm tin cho người Do thái. Đến lúc đó, các vị anh hùng người Do thái đã được Chúa cứu khỏi thảm hoạ đi đến diệt vong. Thế nhưng, những nguời đã chết rồi thì sao? Những người như thế có được cứu không? Và như thế, thì cụm từ “Sống lại/trỗi dậy” đã xuất hiện với mọi người. Lúc đó, có thể đã có sự “sống lại” từ cõi chết, bởi nó đến ngay “sau khi sống, ngay sau cái chết. Nhưng, điều đóo hết mọi người, mà chỉ cho các vị tử đạo, mà thôi. “Sống lại/trỗi dậy”, là theo nghĩa thân xác. “Sống lại/trỗi dậy” đối không có nghĩa là sự sót hoặc tồn tại. Mà là,sự Công chính của Thiên Chúa, Đấng Chí Công vẫn cần sự công chính hầu đem đến cho họ một chứng thực tìm được ở thân xác, rất công bằng. Nếu không, thì Đức Chúa của người Do thái cũng không có vẻ gì là công bằng và Ngài sẽ không còn tôn trọng Giao ước Ngài đã thiết lập với con người. Ở đây nữa, cũng nên mở dấu ngoặc, để chứng tỏ, là: trong đoạn nọ ở chương 4 sách Macabê, được viết vào năm 100 trước Công nguyên, sự việc “tử vì Đạo” không được coi là mẫu mực của cái chết cao sang được Socrates đề cập, nhưng là mẫu mã của sự chết thay cho người tôi tớ vốn dĩ rất đau khổ được kể ở sách tiên tri Ysaya quyển 2. Từ giai đoạn còn mới chớm, đã thấy xuất hiện một số ý tưởng đầy tưởng tượng về sự sống đời sau, nhằm điểm tô cho tư-duy của người Do thái, khác với văn hoá của nước khác. Người Do thái không thừa hưởng tư tưởng mẫu mực nào do mình tạo ra.                    

Các ý tưởng lờ mờ ban đầu về sự “sống lại/trỗi dậy” chỉ đạt giai đoạn phát triển rộng lớn mà, theo sự công minh của Chúa, ắt phải có biến cố cánh chung xảy đến vào thời chung cục, có thế mới dẫn đến ý niệm “hư vô/không tưởng” của địa cầu. Thiên Chúa cũng làm thế. Chúa không nghĩ đến chuyện cải biến địa cầu thành chốn hư vô. Thành thử, tình trạng cuối của mọi sự trong vũ trụ sẽ không là: trời sẽ thay thế đất, nhưng trời đang dần dà biến đổi trái đất, để trở thành thứ hành tinh như thế này. Đây, không mang ý nghĩa của việc tàn phá không gian và thời gian. Mà là, sự phá bỏ mọi tính cách bạo động và bất công, nơi trái đất. Như thế, là biến đổi. Là, những gì mà công cuộc tạo dựng và giao ước cũng như xuất hành về đất hứa, mang ý nghĩa, ngay từ đầu.

Lại có vấn đề về Dân ngoại. Vấn đề ở đây coi như “tạm được” đối với người Do thái, bởi họ đã lập Giao ước với Thiên Chúa. Thế nhưng, dân ngoại là gì? Đây, có hai học thuyết về dân ngoại. Một là, Thiên Chúa sẽ phá bỏ tất cả những gì thuộc về họ, trong cuộc chiến cuối cùng trên núi Meggido. Hai là, Thiên Chúa sẽ cải hoá hết tất cả để mọi người trở về với Ngài, chứ không về với Israel. Và khi ấy, lịch sử sẽ không còn đi vào buổi tiệc cuối trên núi Sion nữa. Hiểu như thế, mới cảm thông cho thánh Giacôbê khi thánh-nhân còn ở Giêrusalem đã chủ trương chọn lập trường thứ hai, tức lập trường đưa thánh-nhân vào với chủ trương buộc các nam nhân Do thái phải trải qua tục “cắt bì” mới được trở thành người anh em cho trọn nghĩa. Và có như thế, mới cho anh em vừa hồi hướng trở về, được ngồi chung bàn với cộng đoàn Do thái cũng như tín hữu đạo Chúa. Và đây là ý tưởng mà tác giả Paula Fredriksen, từng chủ trương.

Lập trường về “sống lại” được triển khai để thích nghi với các học thuyết về dân ngoại. Quan niệm thứ hai, sự“sống lại” có xảy ra thì người trỗi dậy mới được san sẻ và chung vui buổi tiệc cuối với Chúa.   

Ở đây, cũng cần nói thêm rằng: về sự “sống lại” không nên hiểu theo cung cách giống hệt như sự hồi sinh nơi thể xác. Bởi, một khi thể xác đã chết, là đã chết thực và đã ra đi nội nhật ba ngày là hết. Ở đây một lần nữa, cũng nên định rõ ý nghĩa của sự việc “sống lại” nơi Đạo Chúa không giống những thứ đã được chứng thực như xuất hiện trở lại, sau khi chết, của đấng bậc nào đã qua đời: đó là hiện tượng ai cũng rõ. Hiện tượng này, không mang tính bệnh lý, cũng không chứng thực điều gì về sự trỗi dậy. Và cũng nên thêm một điều nữa, rằng: việc tán dương/nâng nhắc cả vào khi được bốc nhắc lên “trời” hoặc “về với Chúa”, “ở cùng Chúa” vẫn không là sự “sống lại”, như Enoch từng được nâng nhấc/tán dương về chốn thiên cung. “Sống lại” là ăn vận cho đúng cách để dự tiệc. Đúng hơn, để tham dự “Buổi Tiệc” Chúa vẫn chờ.

Có điều thú vị, là: người Do thái ở thế kỷ đầu chẳng thắc mắc hoặc tự hỏi xem người Châu Âu thời Trung cổ hoặc thời Cận đại có thắc mắc gì về sự “sống lại”, hết. Họ không mấy quan tâm đến hình hài thân xác đã trỗi dậy hoặc những gì tựa như thế. Đúng hơn, họ tư duy về một phương án có dính dự nhiều đến những thứ mang tính năng động, thúc giục. Các thắc mắc này cũng có lý, nhưng không ảnh hưởng gì đến điều dẫn đến câu hỏi, bảo rằng: người Do thái xưa/nay nghĩ thế nào về sự “sống lại”?     

                                               
ĐẠO CHÚA THỜI MỚI PHÁT: NHỮNG KẺ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU

Đức Giêsu là nhà giáo người Do thái có lịch trình giảng dạy rất khác biệt. Lời dạy của Ngài chuyên về thông điệp mang cung cách rất tư riêng. Ngài là nhà đạo đức có biệt tài lôi cuốn người Galilê đi theo Ngài bằng việc chữa lành người đau yếu, tật bệnh và Ngài ôm vào lòng những người ở cấp thấp rất khó/nghèo trong xã hội. Ngài tôn trọng và giữ luật Torah của Do thái, rất nhiệm nhặt.

Ở đây, cũng nên chua thêm một điều, là: theo lịch sử, cũng đừng nên gọi Đức Giêsu hoặc thánh Phaolô là “Thày”. “Thày”, theo tiếng Do thái, chỉ có nghĩa là “giáo viên/thày dạy”, mà thôi. Danh xưng này, để chỉ người nào đó được chỉ định làm công việc học hỏi hoặc văn phòng như người quản nhiệm và phổ biến luật halakhah về Đạo. Từ ngữ này chỉ bắt đầu được sử dụng vào thời trước khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá. Ngay đến Gamaliel là thày dạy của thánh Phaolô cũng không được gọi là thày Gamaliel, mà chỉ là vị niên trưởng tên Gamaliel thôi.

Không như thánh Phaolô là tông đồ của Chúa hơn 30 năm, Đức Giêsu chỉ hoạt động có ít năm thôi. Ngài chưa bao giờ đặt chân đến các thị trấn lớn ở Hy Lạp hoặc La Mã, ngay đến hai thủ phủ lớn ở Galilê, như Sêphôris và Tibêrias, Ngài còn muốn lánh mặt nữa là.

Theo tầm nhìn của người Do thái, Đức Giêsu không hề dạy dỗ về tôn giáo hoặc luân lý/đạo đức có hệ thống và không định kỳ. Ngay đến thông điệp về con người được Chúa cứu rỗi thế nào và về với Chúa ra làm sao. Cả đến thánh Phaolô cũng không như thế. Ngài nghĩ Ngài chỉ là một người diễn trong bi kịch do Thiên Chúa của Do thái dàn dựng để thực thi những điều Ngài đã hứa trong lịch sử. Đây là “Cánh chung Do thái”. Đức Giêsu biết chắc chắn là Ngài có sứ mệnh riêng biệt trong bi kịch ấy. Ngài tin rằng Ngàl là Đấng qua Ngài ý định đặc biệt của Thiên Chúa đã thực hiện cho Israel và thế giới, đã đạt tầm kích lên đến chóp đỉnh. Ngài tuyên bố Nước của Ngài đã kịp đến. Nước của Ngài không giống như các vương quốc nào khác mà người đồng thời từng nghĩ ra. Tất cả thứ đó đều không có trong lịch trình họ đã định. Đặc biệt hơn cả, là ước ao có cuộc chiến giải phóng khỏi thành La Mã và đánh cho La Mã ngã gục như ngôn từ của chính người La Mã từng diễn tả. Đức Giêsu suy tính rất đúng rất như thế sẽ là một tai nạn không lường trước. Như thế chỉ là thêm bạo động vào với bạo lực. Kịp đến khi Ngài đi vào với Giêrusalem và đền thờ ở đây, Đức Giêsu đã biết chuyện ấy, và một cách thầm lặng, Ngài đã chấp nhận khổ đau tựa hồ đấng tử vì Đạo, bởi niềm tin rằng Nước của Ngài đã đến rồi. Ngài hành xử như một biểu tượng lớn lao cho cuộc xuất hành rất mới về đất hứa, một giải phóng cả thể được định bằng tiệc Vượt qua cuối cùng với đồ đệ Ngài. Ngài có ơn gọi thâm sâu hơn ơn gọi làm Đấng Mêsia. Ngài tượng trưng và hành xử như Thiên Chúa trở về lại với Israel bằng xương bằng thịy. để hoàn thành kế hoạch thánh thiêng của Thiên Chúa.

Theo ngôn từ của người La Mã, thì đây là bản cáo trạng cho tất cả những gì mà Đế quốc và Hoàng đế muốn thực hiện.

Ở đây, cũng nên xem thêm Tom Wright: BBC April/2004, and What Saint Paul Really Said,  Eerdmans. 

Việc đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá cho đến chết, là án chết trên thập tự không của ai hết. Người thi hành án lại là người La Mã. Tội của Chúa chỉ là tội xúi giục dân nổi dậy, chứ không phải việc khuyếnb khích dân chúng tin vào Đế quốc. Ngài là nạn nhân của nền Hoà bình kiểu La Mã. Ngài chính là nhân vật bất đồng chính kiến, bị loại bỏ.

Ý tưởng về một vị thần chết treo trên thập tự không đem lại ý nghĩa nào cho thế giới ở thế kỷ đầu đời, hết. Với họ, là thần linh mà lại chấp nhận để cho người phàm xử chết trên thập tự có khác gì chuyện khùng điên, không?

Không có thánh Phaolô diễn thuật lại, chắc cũng chẳng ai nghe biết đến Đức Giêsu bao giờ, hết. Thánh Phaolô từng nói không do dự rằng: ông biết Đức Giêsu rõ hơn nhiều người người từng biết Ngài qua lịch sử. Hơn cả những người chỉ biết Ngài có vài năm và theo chân Ngài đi khắp đó đây, nhưng lại không thông hiểu sứ điệp của Ngài tốt hơn ai và có lập trường đưa vào hành động, chẳng bằng ai.               

Bởi thế nên, nhiều người vẫn cứ nghĩ rằng thánh-nhân làm cho mọi người kinh ngạc như tay khùng điên/tưng tưng nào đó vẫn cứ đi loanh quanh cho đời mỏi mệt, nói thì toàn nói về một vị nào đó chẳng ai biết nhưng lại tự hào là vị thần từng  trỗi dậy từ cõi chết, thế mới lạ.” 


PHAOLÔ, LÀ DO THÁI RẤT CHÁNH HIỆU

Thánh Phaolô là người Do thái do bẩm sinh và nuôi dưỡng rất đúng cách. Ông được thụ giáo từ trường lớp-hội đường của người Do thái trong đó có cả kỷ năng đọc và viết ra nguyên bộ luật Torah của Do thái. Nhờ vào việc này, mà thánh-nhân được chấp nhận cho hấp thụ nền giáo dục rất Do thái hạng cao nhất tại hội đường ở Tarsus. Tiếng Hy Lạp vào thời đó, có lẽ là ngôn ngữ chính được mọi người sử dụng, ở khắp nơi. Đó, cũng là ngôn ngữ của Kinh thánh, mà ông được học thời bấy giờ. Cũng có thể, là ông được huấn luyện về khoa Minh giáo hỗ trợ cho Do-thái-giáo và ông cũng được học về thuật luận chiến để chống lại chủ thuyết ngoại giáo, tức tôn giáo của đế quốc La Mã. Cũng có thể, là ông còn được hấp thụ nền giáo dục La-Hy, ngang qua chính sách giáo dục chính thức của đế quốc, là paideia. Ông không chỉ nói được mỗi tiếng Hy Lạm rất trôi chảy mà thôi, nhưng còn đọc thông suốt cả văn chương Hy Lạp nữa. Có lẽ ông cũng chẳng là người Biệt phái, theo đúng nghĩa. cũng không là học trò của Gamaliel ở Giêrusalem, cũng không phải là công dân của Tarsus, lại càng không phải là công dân La Mã chính hiệu, bao giờ.

Về ngày sinh của thánh nhân, không ai rõ. Nhiều tác giả vẫn quả quyết: có thể vào năm thứ 6 trước Công nguyên.
Nhưng về nơi sinh, chẳng ai thắc mắc hoặc cãi tranh về thôn làng nào đó ở Tarsus. Tác giả Murphy-O’Connor lại chấp nhận một đề xuất rất lờ mờ từ thánh Giêrônimô cho rằng Phaolô thánh-nhân sinh ở thôn làng có tên là Gischala, vùng Galilê. Sở dĩ có chuyện đó, là bởi gia đình của thánh nhân bị dẫn độ về nơi này do làm thân nô lệ từ năm thứ 4 trước Công nguyên; rồi sau đó, mới phục hồi được tự do, và cùng lúc có được quyền công dân trở thành La Mã. Chính thánh-nhân cũng chẳng đề cập gì ở nơi nào về quốc tịch La Mã của ông hết. Riêng thánh Luca lại đã làm ảo thuật lôi được con thỏ ra khỏi hộp về gốc gác La Mã của Phaolô. Thế nhưng vấn đề là chuyện này có phù hợp với qui chế của Pharisêu Biệt Phái?

Vào thời đó, Tarsus là thị trấn có trường lớp giáo dục với học lực tương đương đại học thời bây giờ. Tarsus, nằm ngay trên biên giới giáp ranh Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Nơi đây, là trung tâm của nền triết học thuộc trường phái khắc kỷ do Êpictetus thành lập. Ngôn ngữ của thánh Phaolô thường rất giống thứ triết lý đường phố thuộc loại này.    

Gia đình thánh Phaolô thuộc phe cực kỳ bảo thủ, tức Do thái chính thống. Về giáo dục La-Hy, thánh nhân thưòng được tham gia các trò chơi thế vận, thể dục như chạy việt dã, đô vật và ném dĩa. Các thể tháo gia khi đó đều phải ở truồng khi thi đấu , đó là điều mà phần đông người Do thái sùng đạo không mặn mà cho phép dân con mình tham già chuyện này, trước công chúng. Nếu ta bị buộc phải gọi thánh Phaolô là “thày” hoặc cả đến danh xưng “đệ nhất bậc thày” cũng không thành. Giả như thánh-nhân là người như thế, thì cũng sẽ không ai lấy làm lạ nếu thánh-nhân cũng có doanh hiệu và thực hiện kinh doanh với vợ mình.  Phần đông các tác giả đều thẩm định thánh nhân là người độc thân. Tác giả Murphy O’Connor lại nghĩ rằng ông có vợ, và vợ ông người con có thể đã chết trong một trận động đất nào đó ở Giêrusalem. Tra cứu kỹ, cũng không có chứng cứ nào nói rõ về chuyện này.  
     
Thánh Phaolô luôn quan niệm rằng Israel được Chúa tuyển chọn làm dân con dẫn đầu thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa với gian trần. Thánh-nhân tin vào ơn gọi của Israel được Chúa tặng ban cho quyền làm dân con của Ngài đối với thế giới. Thánh nhân tin rằng Abraham ở vào vị trí nhiều đặc quyền/đặc lợi hơn Ađam hoặc các nhà sáng lập nên Rôma. Thánh-nhân coi Israel là dân con rất tin vào Chúa và là niềm hy vọng cho tính nhân loại tốt hơn Ađam hoặc người La Mã từng tự hào.

Thánh Phaolô biết rõ rằng cộng đodàn Do thái rất mới vẫn tin vào Đức Giêsu hơn ai hết. Thánh-nhân cũng coi các tín hữu Do thái theo Đạo Chúa cũng là Do thái vốn dĩ có được niềm tin rất đặc biệt đặt nơi Chúa. Thoạt vào thời trưởng thành, thánh-nhân đã cực lực phản đối những nhóm nguời như thế. Thực ra, ta cũng chẳng biết rõ tại sao thánh-nhân lại làm thế. Một số nhà chú giải lại nghĩ rằng: tương quan giữa các nhóm này vẫn Đức Giêsu thật quá khác biệt với Do-thái-giáo rất bình thường. Nhiều vị lại cũng nghĩ rằng vi phạm luật Torah mmột cách trắng trợn như thế, đối với thánh Phaolô, cũng hơi quá đáng. Có vị lại hiểu rằng cách hành xử như thế có thể đã đe doạ và làm hại cho sự thông thoáng mà nguời Do thái có thể hưởng được từ đám người La Mã. Có vị lại nghĩ rằng sự việc như thế chỉ như đối tượng thay thế cho tính nóng giận của ông mà không thể dằn lòng được. Thiết tưởng, việc cho người ngoại giáo gia nhập cộng đoàn Kitô-hữu là Do thái còn son trẻ có thể cũng quá mức đối với sự chịu đựng của thánh PhaolôThánh nhân hành hạ cộng đoàn đó vì đã quá cởi mở. Kỳ thực người Do thái cũng chẳng nên quá cởi mở như thế, cả sau khi ông hồi hướng trở lại, đây vẫn là chuyện rất mực mà ông từng tán thành. Bởi, thánh-nhân biết rất rõ các tín hữu như thế, cũng đủ để trở nên điên khùng trong đối xử với họ. Đ8iều làm cho thánh nhân nổi sùng hơn cả là việc những người như thế lại nói rằng các người ngoại giáo nay có thể trở nên thành viên trọn vẹn trong nhóm dân con của Đức Chúa.

Việc hành hạ các người tin vào Đức Giêsuở Giêrusalem đã kéo nhiều vị ra khỏi đó để về với các thì thành và vùng đất của Đế quốc La Mã. Một số vị ra đi về các vùng duyên hải của Phênixia. Một số vị phân tán về Đảo Sýp. Một số đi Antiôkia. Thời đó, nội vùng đồng bằng sông Orôntes thôi, cũng đã có khoảng 500,000 người sống ở đây rồi. Vùng này cách xa bờ biển khoảng chừng 18 dặm. Nơi này có hải cảng riêng, là Sêlêuxia. Hêrôđê cả, là người dựng xây đền hthờ Giêrusalem, đã ra lệnh lát đá và đặt cột trên con đường chính dẫn đến Antiôkia. Ở nới đó, cũng có một số các hội đường. Cũng tại nơi này, người tìm đến cũng đã gặp kiều bào người Do thái nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Hy Lạp; cả các vị tân tòng mới hồi hướng, các dân ngoại từng theo Do-thái-giáo, các vị kính sợ Chúa, các vị dân ngoại đặc sệt ngoại đạo từng thần phục Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa Chúa Độc Nhất rất thực không chịu quay về trở thành người Do thái và các dân ngoại vì tò mò nên ở đó, cũng tập trung.              

Cũng có thể, là thánh Phaolô không có thẩm quyền từ các tư tế ở Giêrusalem để hành hạ các người Do thái như thế, ở Damát. Thánh nhân đi Đamát vào thời Israel thuộc quyền kiểm soát của Nabatêan, dưới quyền vua Aretas. Vị trưởng tế ở Giêrusalemcó lẽ cũng ít ảnh hưởng ở đó và các nhóm người Do thái tin vào Đức Kitô bị ông bách hại không hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của hàng tư tế.

Thánh Phaolô có thể cũng không là nhà thần bí, xuất thần hoặc khổ hạnh từng có thị kiến rất nhiều lần trước khi lên đường đi Đamát. Và theo tình thần nội dung của thư thứ 2 Côrinthô, thì sau đó ông cũng có vài thị kiến giống như thế.

Nhiều lần, ta cũng tự hỏi không biết thánh nhân có thực hành nhiều nghi tiết kiểu Do thái, lúc đó hay không. Ông có thực hiện nguyện cầu theo kiểu Do-thái-giáo mỗi buổi sáng, hay không? Và những nghi thức tựa như thế.


QUÁ TRÌNH LÝ LỊCH CỦA THÁNH PHAOLÔ NƠI ĐẠO CHÚA

Quá trình lý lịch của thánh Phaolô, là quá trình của một người Do thái từng coi luật Torah rất nghiêm túc. Đó là lý do khiến ông chống lại bất cứ nhóm nào xem ra muốn tấn công vào đường lối sống theo luật Torah bằng vào việc phổ biến cung cách giảng giải dựa trên hiểu biết khác biệt, nhưng đáng kể. Vấn đề như luật tinh khiết, thuế thập phân và các ranh giới có tính máy móc nào khác nhằm duy trì tính trọn vẹn của dân Chúa. Thánh Phaolôgiữ luật như mọi người vẫn phải giữ và ông đạt sự chín chắn có từ luật đúng qui cách. Ông sống cuộc đời tốt lành theo luật định. Ông là người có thể chấp nhận được theo qui định thông thường của người Do thái để có được các hành xử chính đáng trước mặt Chúa và các người Do thái khác.

Thánh Phaolô ít có liên hệ hoặc ít thích quan hệ hoặc tuỳ thuộc vào Đức Giêsu lịch sử cũng như các vị đồng hành với Ngài. Thánh-nhân chẳng bao giờ đề cập đến Galilê hoặc Hêrôđê hoặc các người con của ông ta. Ông cũng chẳng bao giờ nói về vị Thượng Tế vào thời đó, hoặc Pôntiô Philatô. Thánh nhân cũng chưa từng nói về Ba mẹ của Đức Giêsu hoặc thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh-nhân lại nói đến thánh Giacôbê là anh em đồ đệ của Chúa những hai lần, nhưng trong bối cảnh cuộc sống rất sớm sủa của vị ấy. Thánh Phaolô chỉ đề cập trong bối cảnh thánh Giacôbê là lãnh đạo cộng đoàn ở Giêrusalem, lúc sau này. Còn lại, là các tông đồ khác được thánh Phaolô nhắc đến, trong đó có Kêpha, Giacôbê và Gioan.

Ngược lại, thánh nhân lại công khai nêu đích danh các học trò cùng những vị đã giúp đỡ mình. Trong đó, thấy có Banaba, Timôthê, Titô, Luca thày thuốc, Silvanô, Sostênes, Apôlô thành Alexandria, Aquila, Priscilla thành Rôma, Máccô, Aristarcus, Đêma. Điều này cho thấy có lẽ ông cũng không rõ ngọn ngành về thời Đức Giêsu mới ra hoạt động hoặc cũng chẳng muốn đề cập đến các điều đó.

Phần lớn “tin vui” do thánh nhân viết, chỉ là viết theo người khác. Tuy nhiên, trong các tài liệu do ông viết bao gồm nhiều thông tin về cung cách chết, chôn cất và Chúa sống lại. Trong đó, cũng có kỳ vọng vào việc Chúa quang lâm, Ngài lại đến. Nhiều tác giả nghĩ rằng điều đó cũng bao gồm cả giáo huấn của thánh-nhân về Tiệc Thánh Thể , nhưng tác giả Vermes chẳng hạn, lại bất đồng quan điểm về việc này, cho rằng việc ấy đến từ một mặc khải trực tiếp có từ thánh Phaolô. Tức, bao gồm cả giáo huấn của Đức Giêsu về việc không được ly dị là điều mà thánh-nhân cảm thấy thoải mái mà thêm bớt và về quyền của bậc thuyết giảng phải được duy trì trong cộng đoàn, chính đó lại là điều mà thánh Phaolôcực lực phản đối!

Các lãnh vực chính mà thánh Phaolô vẫn giảng rao, thường là:
*Đức Giêsu chết và sống lại hầu trở thành Con Thiên Chúa, nhờ uy lực của sống lại 
*Nét tương phản giữa Ađam đầu đời và Đức Giêsu
*Kết hiệp thần bí với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá và sống lại
*Sự diễn cảm đặc trưng rất bí tích về điều trên qua Thanh tẩy và Tiệc Thánh Thể 
*Giải toả mọi khác biệt trong hiệp thông cởi mở, đặc biệt hướng tới người nghèo.
*Trông ngóng Chúa quang lâm sẽ lại đến mau qua sự kiện Chúa trở lại
*Lập trường đạo đức đặt căn bản trên sự trông ngóng này:

            -thời gian chóng vánh, rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới rất nhanh;
            -Ở nguyên vị trí (tức có cắt bì hay không, có gia đình hay không, tự do hay nô     lệ);
            -dừng quá kích bốc;
            -tạm thời chỉ định lãnh đạo để thay thế;
            -thiết lập một quản trị vững chắc để an toàn (không bạo động, cũng không lôi     cuốn)
            -sống tích cực đối với người theo đạo Do thái và ngoại đạo.

Việc Chúa đến lần thứ hai, vẫn không thấy. Người theo Do thái giáo và Đạo Chúa Kitô vẫn chia rẽ. Nhưng hội thánh Chúa vẫn tiếp tục tồn tại, nhờ có thị kiến đầy uy lực về thần học  và kỹ năng tổ chức cũng như sự khôn ngoan của nhửng người Do thái gốc Thổ Nhĩ Kỳ, là sáng lập viên thực thụ của thế giới đạo giáo gọi là Đạo Chúa Kitô.


CHÚ THÍCH

Anh em tín hữu thời tiên khởi, kéo dài đến giữa thế kỷ thứ 3, đã thực hiện một hệ thống lại cũng có được đặc lợi tương tự như người theo Do thái giáo thời đó, tức những người không chịu khuất phục thờ kính Hoàng đế. Dù sao nữa, các anh em này bị coi như đã tách rời hhỏi Do thái giáo. Dù các ngài không có được truyền thống của tiên tổ, như người theo Do-thái-giáo đã từng làm. Cuối cùng thì vào giữa thế kỷ thứ 3, theo luật Dexius, tức những luật toàn cầu buộc mọi người tham gia thờ kính Hoàng đế đều đã thủ diễn. Các tín hữu nào không chịu theo, đều đã bị vứt xác cho sư tử nuốt. Cho đến lúc đó, nếu vị nào chịu thuần phục làm theo luật dạy, vẫn có thể thi hành chức năng của tín hữu Chúa. Việc bách hại tín hữu như thế cũng bớt dần cho đến khi Diocletian quay trở lại chống phá tín hữu của Chúa vào năm 303. Việc này kéo theo hậu quả là đã nảy sinh dư luận quần chúng nay hgỗ trợ cho các tín hữu Đạo Chúa. Khi ấy, Constantine đọc thấy điều này bằng đầu óc của chính-trị-gia, nên ông đã trở thành tín hữu rất đạo hạnh bằng tâm tình kiên trì, phổ biến.

Ông công nhận quyền chủ quản của các giám mục cũng như lãnh đạo cộng đoàn Đạo Chúa. Vốn có tài cai quản đồng thời là người từng thiết lập hệ thống pháp lý nhằm thay thế những gì có sẵn. Tuy thế, các giám mục lại không chịu trở thành quân cờ để Constantine lèo lái trong trò chơi do mình đặt ra. Cuối cùng các ngài cũng đã sử dụng ông vào mục đích các ngài nhắm đến. Ý huớng của các ngài là áp đặt kỷ luật của đảng phái chính trị dưới quyền của Hội thánh. Điều này có nghĩa: các ngài muốn ép buộc những người đi chệch đường phải trở về để sống phù hợp với hệ cấp quyền hành của Hội thánh. Điều này còn có nghĩa là các ngài sẽ bức bách đám dị giáo, tức các kẻ tin không theo đi đúng theo mạch chính. Các giám mục có thẩm quyền lúc đó đã yêu cầu Constantine triệu tập một Công đồng Đại kết ở Nicea để định ranh giới đúng/sai… Điều này còn có nghĩa: các ngài đòi có quyền chứng thực tính hợp pháp cho bất cứ mọi hoàng đế hoặc từ chối việc đó cho bất cứ vua quan lãnh chúa nào cũng thế. Từ đó, Hội thánh từng bị bách hại, lại trở thành Hội thánh bức bách con dân… Có nhiều giám mục nổi tiếng dùng bạo lực để tỏ uy quyền. Các ngài còn đi đến biện pháp ra chỉ thị cho chúng dân phá huỷ đền thờ ngoại giáo cũng như hội đường của người khác đạo. Cho đến thời của Đức Justinian kéo dài từ năm 527 đến 565, người ngoại giáo cố chấp còn bị nhà nước theo Đạo Chúa đe nẹt sẽ treo họ lên thập tự nữa.

Điều quan trọng ở đây, là: cũng đừng nên tra cứu tình huống xem nó có rơi vào thời đại của thánh Phaolô hay không, mới chính đáng.


Thư tịch đọc thêm

-John Dominic Crossan and Jonathan L. Reed, The Normalcy of Imperial Divinity, in In Search of Paul, tr. 284-288, with Overview, ibid. tr. 74-75
-Norton Wright , What Paul Really Said, 1997 tr. 63-75.
Mai Tá lược dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét