VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phanxicô Tế,
linh mục
Ngày 22 tháng 01
Tin mừng Gioan 17,11b-19
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
11 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.
12 When I was with them I
protected them in your name that you gave me, and I guarded them, and none of
them was lost except the son of destruction, in order that the scripture might
be fulfilled.
13 But now I am coming to you. I
speak this in the world so that they may share my joy completely.
14 I gave them your word, and the
world hated them, because they do not belong to the world any more than I
belong to the world.
15 I do not ask that you take them
out of the world but that you keep them from the evil one.
16 They do not belong to the world
any more than I belong to the world.
17 Consecrate them in the truth.
Your word is truth.
18 As you sent me into the world,
so I sent them into the world.
19 And I consecrate myself for
them, so that they also may be consecrated in truth.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 17,15
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Ai đã ghét các môn đệ ?
(Ga 17,14)
a. Thế gian
b. Vua chúa
c. Ma quỷ
d. Cả a, b và c đúng
a2. Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai ? (Ga
17,15)
a. Ác thần
b. Vua Chúa
c. Giáo Hội
d. Tín hữu
a3. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ ? (Ga
17,17)
a. Nâng đỡ
b. Cầu bầu
c. Che chở
d. Thánh hiến
a4. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được
hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)
a. Bình an
b. Sung sướng
c. Niềm vui
d. Thoải mái
a5. Đức Giêsu cầu nguyện : Con không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha
gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
a. Quyền lực
b. Vua chúa
c. Thế gian
d. Ma quỷ
B.
Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich)
b1. Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich), Sinh năm 1702 tại
Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa
phận Ðông Ðàng Ngoài, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Doanh (1740-1767)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich) chịu tử đạo tại Thăng
Long vào năm nào ?
a. Năm 1745
b. Năm 1839
c. Năm 1858
d. Năm 1861
b4. Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich) được
Đức Giáo Hoàng nào tôn phong lên bậc chân phước (1906) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh
Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich) được mừng kính vào
ngày nào ?
a. Ngày 22 tháng 01
b. Ngày 08 tháng 11
c. Ngày 17 tháng 9
d. Ngày 26 tháng 5
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai ? (Ga 17,15)
02. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm
gì cho họ ? (Ga 17,17)
03. Đức Giêsu nói những điều này
khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga
17,13)
04. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1
ai hư mất trừ đứa con hư hỏng ? (Ga 17,12)
05. Đức Giêsu cầu nguyện : Con
không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga
17,15)
06. Đức
Giêsu xin Cha làm gì cho họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
07. Đức Giêsu nói : Con đã canh giữ, và
không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời gì ?
(Ga 17,12)
08. Đức Giêsu đã canh giữ và không
1 ai trong các môn đệ phải thế nào ? (Ga 17,12)
09. Đức Giêsu xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha
đã ban cho con, để họ làm gì như chúng ta ?
(Ga 17,11)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần”.
Tin Mừng thánh Gioan 17,15
++++++++++++++++++++++
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phanxicô Tế,
linh mục
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phanxicô Tế
* Tin mừng
thánh Gioan 17,15
“Con không xin Cha cất họ
khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ
khỏi ác thần”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. a. Thế gian (Ga 17,14)
a2. c. Ác
thần (Ga 17,15)
a3. d.
Thánh hiến (Ga 17,17)
a4. c. Niềm vui (Ga 17,13)
a5. c. Thế gian (Ga 17,15)
B.
Linh mục Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich)
b1. b. Chúa Trịnh Doanh (1740-1767)
b2. b. Bị xử trảm
b3. a. Năm 1745
b4. a. Đức Giáo hoàng Piô X
b5. a. Ngày 22 tháng 01
III.
Ô CHỮ
01. Ác thần (Ga 17,15)
02. Thánh
hiến (Ga 17,17)
03. Niềm vui (Ga
17,13)
04. Canh giữ (Ga
17,12)
05. Thế gian (Ga
17,15)
06. Gìn giữ (Ga 17,15)
07. Kinh
Thánh (Ga 17,12)
08. Hư mất (Ga
17,12)
09. Nên một (Ga
17,11)
Hàng dọc : Chứng Nhân
Gb. Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
+++++++++++++++++++++++
Phanxicô Tế (1702-1745)
Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich), Sinh 1702 tại
Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh mục thừa sai dòng Ða Minh, thuộc địa phận
Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh
Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
22/01.
Các lệnh cấm đạo năm 1750, 1754, và 1765
Cuối năm 1748, Trịnh Doanh đi thăm các trại lính thấy
khẩu đại bác có chữ Âu Châu muốn biết xem là chữ gì liền ra lệnh tìm người Âu
Châu. Cha Paleceuk Dòng Tên được đưa đến để giải thích các chữ viết, đồng thời
khuyến khích chúa Trịnh tin dùng người Âu Châu làm cố vấn. Ngay lúc đó Trịnh
Doanh ra lệnh phóng thích 7 người Công Giáo đang bị giam giữ ở Kinh Ðô và xin
Cha Paleceuk tìm các chuyên viên toán học và thiên văn. Bề trên Dòng Tên ở
Macao sai Cha Simonelli và 6 vị thừa sai với đầy đử dụng cụ thiên văn và toán học
đến. Trong thời gian này giáo dân bắt đầu tổ chức lễ lạy công khai, nhiều quan
trở lại đạo và lương dân thân thiện với Công Giáo như trước.
Nhưng không biết vì lẽ gì Trịnh Doanh lại đổi ý,
ngày 3-7-1750 lập lại các lệnh cấm đạo cũ. Năm 1751 khi đòan thừa sai từ Macao
đến để làm việc theo lời yêu cầu đã bị từ chối không cho phép xuống đất. Sau
cha Dòng Tên đã lẻn xuống được, còn cha trưởng đoàn phải trở về Macao.
Ngày 26-10-1754, Trịnh Doanh công bố một lệnh cấm đạo
mới. Nội dung như sau: "Hội đồng các quan truyền lệnh cho các huyện như
sau: Ðạo 'Hoa Lang' lầm lạc nghịch lại lý trí, mê hoặc lòng dân và còn truyền
bá lan rộng đạo lý sai lầm. Các năm trước hội đồng đã gửi các sắc lệnh ngăn cấm
để chặn sự xâm nhập của đạo này, nhưng vẫn còn có người tiếp tục làm hư hại người
khác. Vì vậy quan trấn các phủ huyện phải bí mật điều tra. Nếu bắt được đạo trưởng
thì phải giải họ về kinh, các tín hữu thì phải trừng phạt, hoặc lưu đầy, hoặc tạp
dịch trong các chuồng thú vật, hoặc đánh đòn. Nếu các quan chểnh mảng nhiệm vụ
này sẽ bị trừng phát, ai nhiệt thành sẽ được trọng thưởng".
Lệnh trên được bí mật gửi cho các quan, nhưng khi
các vị thừa sai biết được đã ra lệnh ngưng các buổi hội họp, sửa đổi nhà thờ
thành nhà ở, treo cờ, dựng cây nêu... Còn các vị thừa sai thì tạm thời trốn
tránh. Kết quả Cha Ðóa bị bắt với 4 người nhà. Cha Cai và 4 người nhà khác cũng
bị bắt tại Bố Chính, các chủng sinh tại Thanh Hóa một số bị bắt. Ðịa phận Ðông
Ký có một thầy giảng bị bắt tại Xứ Bắc và Cha Alonso dòng Ða Minh cũng bị bắt.
Ngày 15-9-1765, Trịnh Doanh kết án một nhà sư và ra
lệnh giải tán một số chùa chiền, nhưng vì sợ dân chúng phản loạn cho là bắt đạo
Phật nên Trịnh Doanh ra lệnh cấm luôn cả đạo Công Giáo. Các vị thừa sai chỉ nhắc
đến những vụ bắt bớ do quan lại muốn làm tiền, không có ghi lại sắc lệnh. Kết
quả là Cha Orta người Ý thuộc Dòng Tên và Cha Ðóa Dòng Ða Minh bị bắt tại Thanh
Hóa. Ngoài ra Cha Gioan Hiên và nhiều cha khác đi làm lễ Phục Sinh cũng bị bắt.
Khi Trịnh Doanh chết cuộc bắt bớ mới tạm yên.
Linh Mục Francis Gil de Federich Tế
Ðứng đầu sổ 117 Thánh Tử Vì Ðạo Việt Nam là Cha Tế
và Cha Ðậu, hai linh mục thừa sai người Tây Ban Nha thuộc Dòng Ða Minh. Cha Tế
có tên Tây Ban Nha là Gil De Federich, sinh năm 1702 tại Tortosa trong một gia
đình đạo đức. Khi được rửa tội, cha mẹ đặt cho nhiều tên thánh khác nhau, tên
trong sổ bộ là Francis. Năm 15 tuổi, cậu Gil gia nhập tu viện Ða-Minh tại
Tortosa và năm sau, 1718, được tuyên khấn. Thầy Gil tiếp tục học thần học và thụ
phong linh mục năm 1727, lúc 25 tuổi.
Hai năm trước khi làm linh mục, Cha Gil đã ghi tên
xin đi sang tu viện của dòng ở Phi Luật Tân nhưng bề trên không chấp nhận. Qua
năm 1729, Cha Gil lại xin một lần nữa, đơn của ngài được chuyển về Rôma để cứu
xét. Ý nguyện của cha được bề trên chấp thuận. Cha cùng với 24 người khác tới Manilla
tháng 11-1730. Mặc dù đang cơn bắt đạo, Cha Gil vẫn mong muốn được truyền giáo
tại Trung Hoa hay Việt Nam. Cha được bề trên gửi đi Bắc Kỳ và tới nơi ngày
28-8-1735.
Sau 4 tháng học tiếng Việt tại Lục Thủy, Cha Gil được
đặt cho một tên Việt Nam là Tế, với nhiệm vụ coi sóc 40 họ đạo trong ba huyện
Giao Thủy, Chân Ðinh và Vụ Tiên thuộc trấn Xứ Nam. Tên mà bề trên đặt cho ngài
đã trở thành điềm báo cuộc tử đạo, tế hiến chính mạng sống mình cho Thiên Chúa.
Trong thời gian làm việc truyền giáo Cha Tế tỏ ra rất nhiệt thành, đặc biệt về
lòng bác ái. Mỗi khi có người mời đi kẻ liệt, dù ốm đau hay nguy hiểm, ngài
cũng đi ngay.
Ngày 3-8-1737, Cha Tế làm lễ kính thánh Ða Minh tại
Lục Thủy Hạ, đang khi còn cám ơn thì có một toán người ập đến lục soát. Giáo
dân không kịp giúp cha chạy trốn. Cha bảo họ trốn đi, còn ngài thì ra nộp mình
với lòng tin tưởng là Thánh Giuse sẽ giúp. Ngài nói với bọn người đến bắt: -
"Các ông tìm ai? Chính tôi đây là người các ông muốn."
Sư Tình ra lệnh trói cha lại đem xuống thuyền. Tại bờ
sông họ còn thấy mấy giáo hữu liền bắt đem theo. Cha Tế nói với sư Tình:
"Các ông đã bắt tôi rồi, tại sao còn bắt giữ những người này? Xin hãy thả
họ ra".
Như một mệnh lệnh, bọn sư Tình liền cởi trói và trả
tự do cho mấy người giáo dân. Sư Tình đem Cha Tế về giam tại nhà mình ở Thủy
Nhai Thượng, chờ giáo dân mang món tiền kếch sù đến chuộc. Sư Tình hỏi Cha Tế:
"Ngươi có sợ không?"
Ngài bình thản trả lời: "Tôi không sợ mà chỉ lo
cho giáo dân".
Ðể có thể bóc lột số tiền của giáo dân, sư Tình làm
cho họ hoảng sợ bằng cách sai hai tên lính cầm giáo đi hai bên đến nhà giam
trói ngài vào cột và đặt bản án ngay bên cạnh như là tội nhân bị hành quyết. Một
lần khác ông cho điệu Cha Tế đi đến nhà hội của làng, cho nhiều người giả làm
triều đình xét xử. Cha Tế không chút sợ hãi, bình thản lợi dụng cơ hội để giảng
đạo cho lương dân. Con trai của sư Tình là Tri Bá đến nhạo cười: "Tôi là một
người Công Giáo xấu, tên là Dominic, vụ của cha sẽ ổn thỏa với giá 500 lượng bạc".
Giáo dân thấy vậy thì quyết định đi thẳng với quan
trên bằng món tiền lớn hơn. Quan tỉnh là người quỉ quyệt, muốn làm tiền cả đôi
bên. Ông nhận tiền của giáo dân, hứa sẽ thả Cha Tế trên đường đưa về phủ. Chính
quan đến nhà sư Tình để dẫn giải cha, đồng thời bắt cả cha con đầy tớ sư Tình
vì tội chứa chấp đạo trưởng. Quan phủ đã giải các tù nhân về kinh đô để lấy
công trạng.
Những ngày bị giam giữ khổ sở và cuộc hành trình đã
làm Cha Tế ốm nặng, quan phải kiếm thuốc và cho phép người nhà của cha săn sóc.
Ngày 23-8 họ tới kinh đô Hà Nội. Sau đây là cuộc thẩm vấn của các quan:
"Ông có biết đạo Kitô bị cấm trong nước không? Sao còn đến đây?"
- "Tôi đến để giải thoát các linh hồn khỏi hư mất".
- "Nếu vua ra lệnh chém đầu thì ông còn làm gì
được?"
- "Tôi sẵn sàng chịu sự khổ đó".
Sau đó cha bị giao cho lính canh, họ để cha nằm dưới
đất cả lúc trời mưa. Một người y tá Công Giáo từ Lục Thủy đến thăm cha, thấy vậy
đi mua cho cha một trái dưa để uống lấy sức. Các gia nhân tại phủ tỏ ra tử tế
và săn sóc cha. Ðể trả công, cha giảng đạo cho họ.
Tại đây cha viết vội mấy lời gửi bề trên: "Con
tin rằng Chúa đã để con bị sốt nặng để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa. Những
khốn khổ của nhà tù con coi là nhỏ mọn. Thay vì buồn, con cảm thấy vui và sẵn
sàng đón nhận những cực khổ như là hồng ơn Chúa gửi đến cho riêng con".
Ngày 30-8, cha được chuyển sang ngục Ðông. Trên đường
sang ngục Ðông, trẻ con lấy cành tre làm thánh giá, ném dưới chân ngài để chế
diễu. Cha Tế chỉ sốt sắng lượm lên hôn kính. Tại ngục Ðông cha cũng chịu nhiều
khốn khó. Các tù nhân cũng tàn bạo với ngài. Tưởng chừng ngài sắp chết, bà
Kinh, một người Công Giáo thường săn sóc cha, liền đi mời Cha Ngai, giả làm thầy
thuốc và đút tiền để được vào thăm cha. Mấy tên lính canh tù muốn làm tiền giáo
hữu nên đeo thêm gông và xích cho cha rồi bảo họ nếu muốn cha được miễn trừ thì
phải cho tiền. Khi cha khỏe lại đã cấm các giáo dân đừng làm thế nữa.
Lính coi ngục làm khó dễ, các giáo dân phải cậy nhờ
một bà người lương tên là Gạo, nhà ở gần đó, săn sóc cha. Sau này bà được ơn trở
lại và rửa tội, lấy tên thánh là Rosa. Trong lời khai trước ủy ban điều tra
phong chân phúc, bà đã nói: "Chị của tôi đã phải tha nợ cho mấy tên lính để
họ tử tế với cha và cho phép cha ra nhà. Lần khác khi mang thức ăn cho cha họ
đã không chịu cho tới khi tôi đưa cho họ món tiền".
Việc to tát bà Gạo có thể giúp cha là cung cấp giấy
tờ viết thư và chuyển thư của cha cho bề trên. Sau hai tháng bị giam cha được
phép ra nhà bà Gạo để dùng cơm, và tiếp xúc với giáo dân tại kinh đô. Suốt
trong 7 năm bị giam cầm, Cha Tế vẫn tiếp tục giúp các giáo dân.
Cuối tháng 10-1737, tòa án bắt đầu xét xử cha công
khai. Cha bị dẫn đi, tay mang xích, cổ đeo gông. Trên đường đi, trẻ con lại vất
những thánh giá bằng lá tre vào ngài và cười chế nhạo. Một đứa lớn hô to:
"Xem kìa, ông cha sẽ chối đạo để giữ cái đầu khỏi bị chém".
Cha Tế liền quay mặt lại nhìn nó và nói: "Không
đâu con, cha đã không và sẽ không bao giờ chối bỏ đức tin đâu. Chỉ có chúng con
mới làm những điều trái nghịch là đi hành hạ người tù nhân ốm yếu không bao giờ
làm hại ai. Hơn nữa chúng con còn chế diễu thánh giá là dấu chỉ ơn cứu rỗi cho
mọi người".
Cha Tế và ba người giáo dân cùng với sư Tình bị điệu
ra trước tòa án. Quan án bắt đầu thẩm vấn Cha Tế: "Ông bị bắt tại nhà của
ai trong 4 người này?"
- "Tại nhà sư Tình. Tôi không hề vào nhà ba người
kia".
- "Ông từ đâu đến?"
- "Từ Tây Ban Nha".
- "Ðã bao lâu ông ở tại Bắc Kỳ?"
- "Khoảng chừng hai năm".
- "Ai đã mang ông vào?"
- "Tôi không còn nhớ tên".
- "Vậy ông đã ở những đâu trong hai năm
qua?"
- "Tôi không có nơi ở nhất định. Tôi thường đi
từ nơi này sang nơi khác".
- "Ai đã nộp ông cho tòa án này?"
- "Ông quan".
- "Ông quan đã bắt ông tại nhà ai?"
- "Tại nhà sư Tình".
- "Ông đã ở nhà ấy bao nhiêu ngày?"
- "Mười hay mười một ngày gì đó".
- "Ông có dậy đạo cho người ấy không?"
- "Không".
- "Vậy ông đã làm những gì?"
- "Tôi làm những việc không liên quan gì tới
quan tòa cả".
Viên ký lục đã làm sai lạc lời khai của ngài mà nói
là cha đã ở nhà sư Tình hai năm. Sau đó cha được dẫn về nhà tù và hôm sau lại bị
dẫn đến nhưng quan án lại cho ngài về tù vì là ngày lễ nghỉ. Trên đường về, họ
dẫn cha qua đền thờ tổ tiên của quan và bắt cha lạy. Cha từ chối nên bị họ đánh
đập bất tỉnh. Cha lên cơn sốt 15 ngày vì những vết thương hành hạ. Sau đó giáo
dân cho lính canh nhiều tiền để cha được ở cả ngày đêm tại nhà bà Gạo. Khi khỏe
lại, cha liền bị dẫn đến tòa án.
Vào cuối năm theo niên lịch Bắc Việt, các quan có
thói quen giải quyết hết các vụ kiện, nhưng năm đó vì có sứ Trung Hoa sang nên
họ không xét vụ của cha. Ðến tháng 10, một cha Việt Nam đến nhà bà Gạo dâng lễ.
Sau đó chính ngài xin bề trên gửi các đồ lễ đến để dâng lễ. Năm ấy các quan viết
án cho ngài như sau: Cha Tế bị bắt tại Xứ Ðông và bị lên án chém đầu. Còn sư
Tình và con trai bị án phát lưu chăn voi cho chúa Trịnh 6 năm. Án được viết
ngày 10-7-1738, vua châu phê ngày 12 và ấn định ngày thi hành án lệnh là ngày
22-7. Sư Tình bỏ tiền mua chuộc các quan để xét xử lại. Nhưng án không thay đổi.
Sư Tình tiếp tục kháng cáo và tìm ra được lẽ để thanh minh.
Ngày 20-7-1739, cha lại bị đem ra tòa lần nữa:
"Dựa vào quyền gì mà ông đến nhà sư Tình? Trước đó ông ở đâu?"
- "Tôi đến nước này đã 4 năm, hai năm bị giam
tù, hai năm khác thì đi nơi này nơi nọ để rao giảng đạo Kitô. Còn nói đã đi những
đâu thì tôi không muốn nói".
- "Vậy những lời khai năm trước là đúng?"
- "Những gì tôi đã nói là đúng như vậy. Bây giờ
tôi không nói gì thêm".
- "Ông là một người phản bội, nói láo, bây giờ
không muốn nói lại?"
- "Không đúng như vậy, nhưng tôi không buộc phải
khai lại".
Ngay lúc ấy, sư Tình chụp cơ hội xin nói. Ông đã tóm
lược lại các việc xẩy ra nhưng bỏ hẳn phần cha Tế bị giam giữ tại nhà ông.
Ðể tránh rắc rối cho những người ở Lục Thủy Hạ, Cha
Tế nói: "Những gì tôi khai năm ngoái là thực và tôi không buộc phải khai
là sư Tình đã bắt tôi tại Lục Thủy Hạ. Bởi vì các ông chỉ muốn trừng phạt những
người đã tiếp tôi và thưởng công cho kẻ bắt tôi. Ðiều ấy bất công và vô
lý".
- "Như vậy chém đầu ông cũng là nghịch công
lý?"
- "Hiển nhiên là như vậy. Nhưng nếu quí quan ra
lệnh chém đầu tôi vì đức tin thì tôi rất hài lòng".
Quan án ra lệnh nếu Cha Tế không khai thêm sẽ cho
đánh 30 đòn. Cha Tế muốn chịu đòn hơn là nói gì thêm. Quan cho đặt thánh giá dưới
đất rồi ra lệnh cho mọi người đạp lên. Dù phản đối, họ cũng khiêng ngài qua.
Nhưng cha đã nhấc thánh giá lên và hôn kính. Sư Tình thì lợi dụng cơ hội này để
nhục mạ ảnh đạo, nhảy nhót trên tượng và đồng thời tố cáo ngài còn giữ nhiều đồ
đạo tại nhà tù. Trong phiên xử hai hôm sau, ngày 22-7, quan ép buộc cha Tế cung
khai mấy người giáo dân, nhưng cha nhất định không chịu. Sau đó quan liền hỏi về
các ảnh đạo.
Quan cầm tượng thánh giá lên hỏi: "Người trên
thánh giá này là ai?"
- "Ðó là hình ảnh của Chúa Kitô, Con Thiên
Chúa, đã làm người và chịu chết trên thánh giá để chuộc tội nhân loại".
- "Còn hình kia là gì?"
- "Ðó là ảnh Mẹ Thiên Chúa, đã cưu mang đấng chịu
đóng đinh".
- "Người ta đi đâu sau khi chết?"
- "Khi chết rồi, xác ở dưới phần mộ, còn hồn
thì hoặc lên trời hoặc phải xuống địa ngục tùy theo công trạng trong đời sống".
- "Ðiều ông nói về linh hồn chỉ là tưởng tượng.
Ai nói rằng sự vật qua đi như thế?"
- "Thiên Chúa đã nói vậy".
- "Thật vậy ư? Ông đã nghe thấy tiếng Chúa
chưa?"
- "Mặc dù không nghe chính Thiên Chúa nói,
nhưng chắc chắn là ngài đã dậy như vậy".
Một tên lính hầu mang tới một cái gậy, đặt ngay trước
mặt cha Tế, cha lại tưởng họ đánh mình nên đưa đầu gối ra, nhưng quan lại nói:
"Gậy không phải để tra tấn. Ta ra lệnh cho ông cầm lấy và đánh vào những
tượng ảnh này".
Cha Tế rùng mình vội cầm gậy vất đi thật xa. Tên hầu
lại lấy về và đặt trước mặt sư Tình. Ông liền cầm ngay lấy và giơ gậy đánh vào
bức ảnh Ðức Mẹ bằng ngà voi. Cha Tế chạy vội lại, dùng thân mình làm thuẫn cản
lại, lấy tay che lên đầu Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong ảnh rồi nói: "Sư
Tình, hãy đánh lên tay tôi".
Quan thấy vậy thì cười và nói: "Các người Kitô
bị lừa dối bởi những tượng ảnh này".
Thế là có cuộc giằng co giữa Cha Tế và sư Tình. Quan
cho lệnh ngừng cuộc giằng co lại và nói: "Thế thì tượng phải đau vì những
cái đánh này lắm nhỉ?"
- "Ðức Bà Maria và Con của Ngài ở một nơi không
còn đau đớn nữa. Nếu chúng tôi tôn kính ảnh tượng này cũng chỉ vì đó là hình ảnh
nhắc nhở chúng tôi đến các Ngài".
Phiên tòa chấm dứt. Tên lính canh ngục đòi tiền ngài
để đưa cho tóan lính áp giải. Một người giáo dân nói ngài chỉ nên đưa một phần
ba. Vì thế tên lính canh nghiệt ngã cấm mọi người đến thăm ngài trong ba ngày.
May nhờ có người lương mang gạo đến. Thấy sức khỏe ngài yếu liệt, bề trên sai
Cha Minh đến ban các bí tích cuối cho ngài. Tuy nhiên Cha Tế lại khỏe lại.
Các quan thấy khó giải quyết, không biết phải xử thế
nào đối với ba người giáo dân ở Lục Thủy Hạ. Vua cho một quan khác đến xử vụ kiện
dai dẳng này. Ngày 20-9, cha lại bị đưa ra trước tòa để tra hỏi: "Ông ở nước
này bao nhiêu năm rồi? Có phải ông bị bắt khi mới tới không? Ông có rao giảng đạo
Kitô không?"
- "Tôi đã ở đây bốn năm và giảng đạo hai
năm".
- "Có thật ông đã ở trong nhà sư Tình 10
ngày?"
- "Tôi đi đây đó để giảng đạo, nơi thì 10 ngày,
nơi khác 15 ngày. Tôi chỉ ở nhà sư Tình có 10 ngày".
- "Ðạo đã bị cấm, tại sao ông còn đến
đây?"
- "Vua chúa không có quyền cấm như thế, vì vua
chúa không có quyền tuyệt đối ra lệnh như ý thích".
- "Ông có học biết thiên văn không?"
- "Không".
Ngài bị đem ra đem vào nhiều lần và hỏi đi hỏi lại để
có bằng chứng là cha bị bắt tại nhà mấy giáo dân, và như thế có lý do để tha sư
Tình. Cha Tế từ chối không nói gì thêm mà chỉ xin trả tự do cho các giáo dân. Họ
yêu cầu cha ký vào biên bản. Ðọc trong bản án thấy viết là bị tố cáo vì rao giảng
tà đạo, cha không chịu ký. Họ cho sửa lại là đạo 'Hoa Lang' nghịch với luật,
cha mới ký vào.
Thế rồi nội chiến xẩy ra và người ta quên bẵng vụ án
của ngài. Lúc đó Cha Tế là người duy nhất có mặt ở Hà Nội để giúp giáo dân.
Trong thời gian bị giam tù, Cha Tế đã rửa tội được 122 người. Nội chiến kéo dài
ba năm. Một hôm chúa Trịnh chợt có ý muốn hỏi Cha Tế có cách nào chấm dứt được
loạn lạc, với ẩn ý muốn cha nói với người tây phương giúp. Cuối tháng 9, cậu của
vua cho lệnh đưa Cha Tế đến và hỏi: "Tôi thấy đạo của cha hợp lý, những điều
tôi nghe rất phù hợp với sách tôi đã đọc. Chỉ có điều là đạo không chấp nhận những
tôn giáo khác. Ngày mai cha mang đến cho tôi xem cuốn sách về đức tin Kitô để
tôi thấu đáo và có thể nói với chúa Trịnh cho cha. Cha cũng mang đến một học giả
người Việt để có thể giải nghĩa được các chữ Việt".
Trở lại nhà giam, cha được giáo dân cho biết là quan
chỉ muốn xem đạo có cách nào diệt được giặc không thôi. Ngày hôm sau, cha viết
thư cho ông hoàng: "Theo đức tin của chúng tôi, chỉ có một phương thế duy
nhất chữa trị các cái xấu đó là cầu xin Thiên Chúa cho hòa bình và hứa rằng
chính quyền sẽ không bao giờ bắt bớ đạo thật nữa. Nếu vua muốn chấm dứt chiến
tranh thì hãy thôi bắt bớ giáo dân và đạo thật, vì đấy chính là nguồn gốc của mọi
sự dữ trong nước". Ông hoàng có nói lại với ba quan và họ hứa sẽ nói với
chúa Trịnh để cho phép tự do hành đạo. Ngay lúc đó có tin đồn là giáo dân tỉnh
Nam đi theo giặc, dự tính trên lại rơi vào tình trạng cũ. Riêng giáo dân Hà Nội
nhất định chuộc cha ra bằng mọi cách. Họ đem tiền đến bà dì của chúa Trịnh để
xin trả tự do cho cha. Ðọc bản khiếu nại, Cha Tế không hài lòng về lời lẽ nói
cha chỉ là thương gia bị gán ghép tội theo đạo Kitô.... Suốt trong năm đó cha rửa
tội thêm được 31 người lớn và 23 trẻ em.
Năm 1744, hồ sơ của cha được xét lại và họ giam cha
ngặt hơn. Ngày 3-3-1744, cha và 4 giáo dân được đưa ra tòa án. Trên đường đi,
viên ký lục đòi lấy cỗ tràng hạt của cha. Tại tòa án, các quan xem xét cỗ tràng
hạt rất kỹ lưỡng. Quan hỏi hai ảnh mắc vào đó là gì. Cha thưa là hình hai vị tử
vì đạo. Quan bắt ép cha dầy đạp tràng hạt dưới chân. Cha đã mạnh mẽ nói là
không khi nào cha làm điều lầm lỗi ấy. Lúc ấy quan hỏi sư Tình có làm điều ấy
không? Sư Tình chỉ chờ có thế đã vội vã cầm lấy tràng hạt ném xuống đất, sửa soạn
đạp lên, tức thì Cha Tế lăn xả vào để lấy lại. Một tên lính hầu túm lấy tóc cha
lôi ra. Không làm gì được, Cha Tế hét lên: "Tại sao các ngươi bách hại đạo
Chúa Kitô? Chính các ngươi là căn cớ của bao nhiêu tai họa giáng xuống trên nước
này".
Các quan liền viết án xử trảm cha Tế, còn các giáo dân
được trả tự do, cha con sư Tình được tha bổng. Cha Tế được đưa về nhà tù, lòng
đầy niềm hy vọng giờ lãnh triều thiên tử đạo đã tới gần.
Ngày 30-5-1744, lính canh áp giải một tù nhân khác,
đó là Cha Ðậu, người cùng Dòng với Cha Tế. Hai người lính dũng cảm của đức tin
hân hoan được gặp nhau, nâng đỡ nhau bằng các bí tích và cầu nguyện. Trong hai
năm ấy cha rửa tội được 32 người lớn và 41 trẻ em.
Tháng 8 năm sau vì có hạn hán nên chúa Trịnh cho rước
Phật Bà Quan Âm, đồng thời ân xá cho nhiều tù nhân, nhưng vẫn giam giữ hai cha
trong tù. Lợi dụng thời gian này, hai cha biến nhà tù thành nơi giảng đạo. Giáo
dân lại nói với cha về đề nghị của quan cai ngục là sẽ trả tự do cho cha bằng
giá tiền mua chuộc. Cha Tế cương quyết không để cho giáo dân phải tốn một xu.
Một tín hữu báo tin là các quan đã làm án ngày
19-1-1745, ngày 21 sẽ công bố, và ngày hôm sau hành quyết. Giáo dân tính cử đại
diện đến gặp chúa Trịnh. Cha Tế rất buồn nói với các thầy giảng: "Chúng ta
phải khuyên bảo giáo dân trở lại và trung thành với đức tin, nếu trong hoàn cảnh
này chúng ta tỏ ra khiếp sợ để cho họ sửa án và mua chuộc mạng sống bằng tiền bạc
thì lương dân họ sẽ thêm tin vào đạo của họ hơn và giáo dân sẽ không còn muốn
chịu khổ vì đức tin nữa".
Vì vậy cha truyền lệnh cho họ hủy bỏ toan tính đó.
Dân chúng rất đau buồn, nhưng cha Tế lại vui mừng hớn hở. Ngài dùng những ngày
còn lại để cầu nguyện và sửa soạn tâm hồn. Sau khi lần hạt chung với họ lần cuối,
cha khuyên nhủ: "Anh chị em quí mến, cũng như Chúa Kitô trong bữa tiệc ly,
tôi muốn khuyên anh chị em theo lời của Chúa, anh chị em hãy yêu thương nhau
như ruột thịt, hãy vững mạnh trong đức tin mà anh chị em tuyên xưng và hãy sẵn
sàng chịu mọi sự khó và nhất là đặt niềm cậy trông vào một Chúa mà thôi. Hãy ước
ao những sự trên trời và hãy khinh chê những của cải vui sướng chóng qua đời
này".
Mọi người cúi mình hôn xiềng xích của ngài. Ngài lại
nói với họ: "Tử đạo là một ơn đặc biệt do Chúa ban nhưng không, chứ không
phải do công trạng hay xứng đáng gì".
Khoảng ba giờ sáng, hai cha dâng lễ, rồi đến chào
các lính coi tù cũng như các bạn tù. Giáo dân được phép vào rất đông để thăm
cha lần cuối. Cha Ðậu không được chung một vinh dự nhưng đã xin quan cho theo
ra tới pháp trường. Theo lẽ các tù nhân khi đi ra nơi hành quyết thường được dẫn
qua phủ chúa để có thể kháng cáo lần chót. Lợi dụng cơ hội này giáo dân làm một
bản kiến nghị nhờ Cha Ðậu mang theo đưa cho quan khi tới phủ chúa. Mặc dù Cha Tế
không đồng ý nhưng Cha Ðậu vẫn làm theo ý của giáo dân.
Cha Tế hân hoan đi đầu vì được giống Chúa Kitô.
Trong đám tù nhân có người xin cha tha tội. Ði ngang qua phủ chúa, Cha Ðậu liền
đưa bản kiến nghị. Chúa Trịnh thấy Cha Ðậu dám bạo gan như thế thì nổi giận ra
lệnh xử trảm ngài luôn một lúc với Cha Tế. Khoảng sau trưa, đoàn người đến Ðồng
Mơ, nơi hành quyết. Vừa tới nơi, hai cha quì xuống hôn mảnh đất. Cha Tế vì yếu
sức nên ngồi xuống đất chờ đợi, trong khi lính sửa soạn việc hành quyết. Hai
cha nói giáo dân cho mỗi người lính đao phủ một số tiền. Hằng ngàn người im lặng
đứng xung quanh. Quan giám sát lên tiếng: "Cụ Tế, tôi rất kính trọng cụ và
rất đau buồn phải làm việc này như quan án đã ra lệnh, xin cụ hiểu cho, tôi
không làm gì khác hơn được. Xin cụ quì thẳng lên để tôi trói vào cọc".
Giây và xích ở tay chân được cởi ra. Hai tên lính cầm
gươm đồng loạt chém đầu hai vị tử đạo. Hôm ấy là ngày thứ Sáu, 22-1-1745.
Thông thường mỗi khi có vụ xử tử, lúc chém đầu mọi
người chạy mất vì sợ hồn kẻ chết nhập vào, nhưng lần này trái lại họ đến gần
hơn và ngay sau đó tuốn vào thấm máu đào, lấy những vật dụng và xiềng xích của
hai vị làm kỉ niệm. Giáo dân phải canh chừng để không ai lấy trộm thi thể hai đấng
thánh. Tối hôm đó, Cha Phêrô Xavier tắm rửa xác các đấng và an táng tại Lục Thủy
Hạ, mặc dầu các xứ khác như xứ Kẻ Bùi, Trung Linh, và Trung Lễ đòi quyền được cất
xác các ngài. Một tuần sau, mộ của các ngài được mở ra để táng trong nhà thờ
theo lệnh của đức giám mục, nhưng lạ thay, xác các ngài không bốc mùi thối gì,
giáo dân còn ngửi thấy thoang thoảng một mùi thơm lạ lùng.
Ngày 20-05-1906, các Ngài được Đức Piô X suy tôn lên
bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng Hiển
Thánh.
(ST)
Trường thi tử Đạo.
Cuộc tử đạo linh mục Federich Tế
Tại Việt Nam phải kể đầu tiên
Mười lăm tuổi nhập tu liền
Thụ phong linh mục qua miền nước Phi
Thừa sai Pháp xin đi rao giảng
Nhưng bề trên ngăn cản không cho
Rôma thuyên chuyển thăm dò
Nơi đây cứu xét thuận cho lên đường
Cha được gởi quê hương miền Bắc
Nước Việt Nam dìu dắt đoàn chiên
Ngài lo tiếng Việt học liền
Ở làng Lục Thủy thuộc miền tỉnh Nam
Cùng Cha Tế cộng đoàn dâng lễ
Ðang cám ơn như thể chia tay
Toán người ập đến bao vây
Xông vào lục soát chốn này hung hăng
Cha liền bảo thưa rằng chạy trốn
Còn phần Cha khiêm tốn nạp mình
Giuse khẩn nguyện cầu kinh
Xin Ngài phù hộ an bình cho Cha
Nhìn bọn chúng Ngài đà liền hỏi
Ði tìm ai Người nói ta đây
Sư Tình ra lệnh lấy giây
Bắt Cha trói lại đưa ngay xuống thuyền
Mấy giáo hữu theo liền đứng ngó
Tại bờ sông chúng nó bắt luôn
Lòng Cha Tế rất u buồn
Bắt tôi là đủ tha luôn mấy người
Như mệnh lệnh chúng thời cởi trói
Trả tự do tiếng nói Sư Tình
Ðem Cha Tế giam một mình
Thủy Nhai Thượng để Sư Tình hỏi Cha
Ngươi bị bắt gặp ta có sợ
Ngài trả lời giúp đỡ giáo dân
Riêng ta vì Chúa đâu cần
Sư Tình sai lính tay cầm gươm đao
Cột nhà hội trói vào Cha Tế
Án tử hình chúng để ngay bên
Triều đình ban lệnh nói lên
Nhưng Cha đâu sợ ngày đêm rao truyền
Chúng móc nối đòi tiền để chuộc
Thả Cha ra bắt buộc khó khăn
Năm trăm lượng đổi Chủ chăn
Giáo dân thấy vậy thưa rằng quan trên
Cử đại diện thưa lên thượng đỉnh
Quỷ quyệt thay sẵn tính bạo tàn
Cấp cao lại quá tham lam
Thả câu nước đục liên can Sư Tình
Giữ đạo trưởng nhà mình trái phép
Phải lo tiền khỏi ghép tội oan
Quan trên lợi cả đôi đàng
Kinh đô đem nộp Thượng Hoàng thưởng công
Tội Cha Tế đeo gông khổ cực
Tại trại giam nóng nực khổ đau
Quan lo tìm thuốc chữa mau
Người nhà săn sóc ngõ hầu hỏi cung
Tại Phủ Chúa quyền dùng kháng cáo
Cơ hội này loan báo giáo dân
Cử Cha Ðậu đóng góp phần
Ði qua Phủ Chúa tới gần đưa Quan
Chúa Trịnh thấy Cha gan can đảm
Tại Ðồng Mơ xử trảm hai Cha
Pháp trường giáo hữu gần xa
Ðọc kinh tin kính tiễn Cha lên đường
Linh mục Tế sinh năm Nhâm Ngọ (1702)
Tại Tostosa nước họ (Tây) Ban Nha
Ất Sửu (1745) tử đạo nước ta
Bính Ngọ (1906) phong thánh hoan ca Nước Trời
Lời bất hủ: Cha trả lời quan
tra hỏi: "Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo
cho mọi dân mọi nước. Ai cấm, tức là cướp quyền của Thiên Chúa".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét