VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phaolô Nguyễn Văn Mỹ,
thầy giảng
Ngày 18 tháng 12
Tin mừng Mátthêu 10,17-22
17
"Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh
đập anh em trong các hội đường của họ.18 Và anh em sẽ bị điệu ra
trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được
biết.19 Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao
hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì:20
thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong
anh em.
21
"Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái
sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.22 Vì danh
Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ
được cứu thoát.
17 But beware of people, for they will hand you over to courts and scourge you in their synagogues,18 and you will be led before governors and kings for my sake as a witness before them and the pagans.
19 When they hand you
over, do not worry about how you are to speak or what you are to say. You will
be given at that moment what you are to say.
20 For it will not be
you who speak but the Spirit of your Father speaking through you.
21 Brother will hand
over brother to death, and the father his child; children will rise up against
parents and have them put to death.
22 You will be hated by
all because of my name, but whoever endures to the end will be saved.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Mátthêu 10,22
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Đức Giêsu cảnh báo anh em hãy coi chừng ai ?
(Mt 10,27)
a. Người đời
b. Thế gian
c. Kẻ thù
d. Phái Pharisêu
a2. Người ta sẽ nộp anh em cho ai, và sẽ bị đánh
đập trong các hội đường của họ ? (Mt 10,17)
a. Thượng tế
b. Các hội đường
c. Vua chúa
d. Quân La mã
a3. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người làm gì
? (Mt 10,21)
a. Khinh bỉ
b. Thù ghét
c. Chế nhạo
d. Loại trừ
a4. Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được gì ?
(Mt 10,22)
a. Thiên Chúa chúc phúc
b. Hưởng Nước Trời
c. Cứu thoát
d. Gọi là con Thiên Chúa
a5. Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp
anh em cho các hội đồng, và sẽ làm gì anh em trong các hội đường của họ ? (Mt 10,17)
a. Bỏ tù
b. Giết chết
c. Đánh đập
d. Xét xử
B.
Thầy
giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ
b1. Thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà
Nam, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chịu tử đạo tại Sơn Tây vào
năm nào ?
a. Năm 1773
b. Năm 1838
c. Năm 1858
d. Năm 1861
b4. Thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ được Đức Giáo Hoàng nào tôn
phong lên bậc chân phước (1900) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Phaolô
Nguyễn Văn Mỹ được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 6
b. Ngày 06 tháng 10
c. Ngày 17 tháng 9
d. Ngày 18 tháng 12
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Vì
điều gì, anh em sẽ bị mọi người thù ghét ? (Mt 10,22)
02.
Nhưng kẻ nào làm gì đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát ? (Mt 10,22)
03. Kẻ
nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được gì ? (Mt 10,22)
04. Khi
người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì
trong giờ đó, ai sẽ cho anh em biết phải nói gì ? (Mt 10,19)
05. Khi
người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì
trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải
chính anh em nói, mà là ai của Cha anh em nói trong anh em ? (Mt 10,19-20)
06. Vì
danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người làm gì ? (Mt 10,21)
07. Hãy coi
chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ làm gì anh em trong
các hội đường của họ ? (Mt 10,17)
Hàng dọc : Chủ đề của ô
chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Vì danh Thầy,
anh em sẽ bị mọi người thù ghét”.
Tin Mừng thánh Mátthêu 10,22
++++++++++++++++++++++
VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phaolô Nguyễn Văn Mỹ,
thầy giảng
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phaolô Nguyễn
Văn Mỹ
* Tin mừng thánh Mátthêu 10,22
“Vì
danh Thầy,
anh
em sẽ bị mọi người thù ghét”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. a.
Người đời (Mt 10,27)
a2. b.
Các hội đường (Mt 10,17)
a3. b.
Thù ghét (Mt 10,21)
a4. c. Cứu thoát (Mt 10,22)
a5. c. Đánh đập (Mt
10,17)
B.
Thầy
giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. a. Bị xử giảo
b3. b. Năm 1838
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. d. Ngày 18 tháng 12
III. Ô CHỮ
01. Danh
Thầy (Mt 10,22)
02. Bền
chí (Mt 10,22)
03. Cứu thoát (Mt 10,22)
04. Thiên
Chúa (Mt 10,19)
05. Thần Khí (Mt 10,20)
06. Thù
ghét (Mt 10,21)
07. Đánh đập (Mt 10,17)
Hàng
dọc : Yêu Chúa
Gb.
Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
++++++++++++++++++++++
Phaolô
Nguyễn Văn Mỹ (1798 – 1838)
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh
năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại
Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn
Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày
27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển
thánh. Lễ kính vào ngày 18/12
Ba thày giảng cùng bị bắt
một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước
và Hiển Thánh một lượt là các thày: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương
Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
- Thày giảng - (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất,
thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam
chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ
ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư
cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào
đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo
giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến
năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thày giảng thực thụ,
thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám
quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu
Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho
vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn
hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến
khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông
đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống
đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô
giáo.
Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG
- Thày giảng - (1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi
không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn
xác".
Lời nói trên cho ta thấy
tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa,
để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở,
xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo
nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ
Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã
nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi
đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh
chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của
anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào
bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ
Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành,
thày được mọi người trong xứ mến chuộng.
Thánh Phêrô VŨ TRUẬT -
Thày giảng - (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi,
đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại
dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến
mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Vũ Truật sinh năm
1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất
nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt
ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có
lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ
chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc
lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm
luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên
đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam
trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để
lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời
nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn
nhiều.
Ba tấm lòng vàng
Ở Bầu Nọ có người ngoại
giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến
vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học
đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ
khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20-6-1837, quan Sơn
Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường
cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng.
Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày
cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ
để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện
được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị
phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây.
Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn,
và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông
móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ
quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ
vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ
thân ái và vui vẻ"
Các cuộc thẩm vấn thường
đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột
áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo
căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế
rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả
bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên
nhiều vết thương đẫm máu…"
Riêng thày Truật vì ốm yếu
nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người
đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha
Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng
tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thày Mỹ ghi
lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu
lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành,
trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."
Tháng 10 bản án tỉnh Sơn
Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án
quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài
có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình
ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù
không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau,
quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định.
Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị
giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn
bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi
tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức
uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được
khuyên nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng
nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng
tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước
trời"
Cha Triệu giả làm thường
dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc
tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng
đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm
vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh
phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"
Cùng Chiến Thắng Vinh
Quang
Năm 1838, triều đình duyệt
lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân
anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người
mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận,
truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng
làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người
lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng
chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba thày nằm
dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng.
Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng
sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm
chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau
đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha
Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài
dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba
thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc
chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Thầy giảng Phaolô Nguyễn
Văn Mỹ
Sinh Mậu Ngọ (1798) tỉnh lỵ
Hà Nam
Giúp cha chu đáo thầy làm
Giảng rao lời Chúa toạ đàm
tuyên xưng
Phaolô Mỹ Tin mừng rao giảng
Dám cả gan bội phản lệnh
vua
Thừa sai Tây đến vào hùa
Trên đường lẩn trốn lính
lùa bắt giam
Thầy được chọn lên làm
Linh mục
Chúa quan phòng lãnh phúc
hy sinh
Lệnh vua kết án tử hình
Thầy là Kẻ giảng gia đình
trưởng nam
Khi quân lính vây làng Bầu
Nọ
Báo cho nhà Cố trọ trốn đi
Mang đồ đạo giấu cấp kỳ
Các Thầy Kẻ giảng cùng đi
đình làng
Xét lý lịch nghi can lục
soát
Ðã tưởng chừng như thoát
lưới thưa
Có bà tên Yến đứng thưa
Chỉ mặt Thầy Mỹ, dây dưa
Truật, Ðường
Ba Thầy bị đả thương dở chết
Dù đòn roi bê bết không
khai
Ðến chiều lính bắt Cố Ngài
Thầy trao đồ đạo một vài
món thôi
Các Thầy phải liên hồi
phơi nắng
Suốt ba ngày mang nặng
gông xiềng
Sơn Tây đi bộ triền miên
Trên đường đói khát tối liền
cùm chân
Nhốt ngục tối nhiều lần
tra hỏi
Cả ba Thầy chẳng nói điều
chi
Giảng rao lời Chúa thực
thi
Chúng tôi cương quyết
không gì đổi thay
Quan tức giận lột ngay quần
áo
Trói giang tay nằm ráo dưới
nhà
Ðánh đòn dọa nạt khảo tra
Bằng roi có móc thật là dã
man
Sau trận đánh thịt tan
xương nát
Nát như tương chẳng khác tổ
ong
Ngón tay co rút cong cong
Lính khiêng bỏ lại nhốt
trong nhà tù
Không tiếng nói êm ru ngục
thất
Mở miệng ra chẳng nấc nên
lời
Khò khè thở chẳng ra hơi
Quan quân ép buộc nhận lời
trái sai
Chúng dụ dỗ nói hoài không
đạt
Ðã đổi chiều bài bác Thánh
Kinh
Hỏi han thế giới vô hình
Mai sau hỏa ngục luyện
hình thấy chưa
Ðang khốn khổ sớm trưa
liên tục
Có phải đây hỏa ngục trần
gian
Chốn nào là nước Thiên
Ðàng
Vua quan đang ngự huy
hoàng phải không
Ðâu có thưởng kẻ gông đeo
cổ
Chết nát thây chôn chỗ
pháp trường
Theo tả đạo chốn viễn
phương
Cải tà quy chánh pháp trường
quan tha
Ba Thầy nói quan đà vô
phúc
Phá đạo trời hỏa ngục trầm
luân
Vua quan xuống đấy lãnh phần
Lý hình cứ xử chẳng cần thứ
tha
Giữa pháp trường ta là
lính Chúa
Người Tông đồ chan chứa ơn
lành
Sẵn sàng vì Chúa vinh danh
Lệnh vua xử giảo nguyên
lành xác thân
Lễ an táng thuộc phần giáo
xứ
Tại Cao Mại nghĩa cử hương
trầm
Các Cha tham dự âm thầm
Chôn gian nhà cuối thành
tâm gia đình
Một bà góa nghĩa tình tên
Tín
Bảy tháng sau thầm kín về
Non
Như lời trăn trối lúc còn
Hồng ân tử đạo là con dân
làng
Năm Mậu Tuất (1838) vẻ
vang tử đạo
Ba chứng nhân giữ đạo đến
cùng
Linh hồn về chốn thiên
cung
Suy tôn Canh Tý (1900) vui
chung Nước Trời
Lời bất hủ: Thầy Mỹ luôn
hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo, từ dạy giáo lý cho các tân tòng và
trẻ em, đến khuyên bảo các tội nhân ăn năn hối cải.Nói về Thầy Mỹ, thầy Ðường
viết: "Từ khi được diễm phúc chịu khó vì Ðức Tin, thầy Mỹ vẫn thay chúng
con viết thư cho Cha (thừa sai Marette). Vì chúng con coi thầy Mỹ như thay mặt
Cha ở giữa chúng con". Lần khác, quan tra hỏi và vu khống cho đạo, thầy Mỹ
trả lời: "Không lẽ quan tin những lời đồn đại vô lý đó sao? Bởi vì chúng
tôi làm như thế, cha mẹ, vợ con họ đâu để chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn
ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét