VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Giuse Du,
linh mục
Ngày 30 tháng 11
Tin mừng Gioan 17,11b-19
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
11 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.
12 When I was with them I protected them in your
name that you gave me, and I guarded them, and none of them was lost except the
son of destruction, in order that the scripture might be fulfilled.
13 But now I am coming to you. I speak this in the
world so that they may share my joy completely.
14 I gave them your word, and the world hated them,
because they do not belong to the world any more than I belong to the world.
15 I do not ask that you take them out of the world
but that you keep them from the evil one.
16 They do not belong to the world any more than I
belong to the world.
17 Consecrate them in the truth. Your word is
truth.
18 As you sent me into the world, so I sent them
into the world.
19 And I consecrate myself for them, so that they
also may be consecrated in truth.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 17,15
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1 ai hư mất trừ đứa con hư hỏng ? (Ga
17,12)
a. Dạy dỗ
b. Canh giữ
c. Cầu nguyện
d. Ban nhiều dấu lạ
a2. Trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu, Người đã truyền lại cho các môn đệ
lời của ai ? (Ga 17,14)
a. Cha
b. Giáo Hội
c. Các Ngôn sứ
d. Ông Môsê
a3. Ai đã ghét các môn đệ ? (Ga 17,14)
a. Thế gian
b. Vua chúa
c. Ma quỷ
d. Cả a, b và c đúng
a4. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ ? (Ga
17,17)
a. Nâng đỡ
b. Cầu bầu
c. Che chở
d. Thánh hiến
a5. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được
hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)
a. Bình an
b. Sung sướng
c. Niềm vui
d. Thoải mái
B.
Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand)
b1. Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại
Passavaut, Besancon, Pháp, Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, chịu tử đạo
dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị hình bá đao
c. Bị thiêu sống
d. Xử lăng trì
b3. Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand) chịu tử đạo tại Thợ Đúc vào năm nào ?
a. Năm 1835
b. Năm 1839
c. Năm 1858
d. Năm 1862
b4. Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand) được
Đức Giáo Hoàng nào tôn phong lên bậc chân phước (1900)?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Giuse
Du (Joseph Marchand) được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 8
b. Ngày 30 tháng 11
c. Ngày 17 tháng 9
d. Ngày 11 tháng 3
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai ? (Ga 17,15)
02. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm
gì cho họ ? (Ga 17,17)
03. Đức Giêsu nói những điều này
khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga
17,13)
04. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1
ai hư mất trừ đứa con hư hỏng ? (Ga 17,12)
5. Đức Giêsu cầu nguyện : Con
không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga
17,15)
06. Đức
Giêsu xin Cha làm gì cho họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
07. Đức Giêsu nói : Con đã canh giữ, và
không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời gì ?
(Ga 17,12)
08. Đức Giêsu đã canh giữ và không
1 ai trong các môn đệ phải thế nào ? (Ga 17,12)
09. Đức Giêsu xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha
đã ban cho con, để họ làm gì như chúng ta ?
(Ga 17,11)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần”.
Tin Mừng thánh Gioan 17,15
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Giuse Du,
linh mục
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Giuse Du
* Tin mừng thánh Gioan 17,15
“Con không xin Cha cất họ
khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ
khỏi ác thần”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Canh giữ (Ga 17,12)
a2. a. Cha (Ga 17,14)
a3. a. Thế gian (Ga 17,14)
a4. d. Thánh hiến (Ga 17,17)
a5. c. Niềm vui (Ga 17,13)
B.
Linh mục Giuse Du (Joseph Marchand)
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. b. Bị hình bá đao
b3. a. Năm 1835
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. b. Ngày 30 tháng 11
III.
Ô CHỮ
01. Ác thần (Ga 17,15)
02. Thánh
hiến (Ga 17,17)
03. Niềm vui (Ga
17,13)
04. Canh giữ (Ga
17,12)
05. Thế gian (Ga
17,15)
06. Gìn giữ (Ga 17,15)
07. Kinh
Thánh (Ga 17,12)
08. Hư mất (Ga
17,12)
09. Nên một (Ga
17,11)
Hàng dọc : Chứng Nhân
Gb. Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Giuse Du (1803-1835)
Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại
Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị
xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII
đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào
ngày 30/11.
Người tử hùng bá đao
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của
thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi
chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá
đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp
bị nghiền nát đổ xuống biển.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những
đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự
nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ
Tin Mừng.
Mong ước tuổi xuân
Đầu thế kỷ XIX, tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều
người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi :
sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn thờ,
trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử điệu như khi linh
mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse Marchand.
Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh
Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của
cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình làm nghề
nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm cách trì hoãn cho cậu
đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành
mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18
tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau khi lãnh chức
phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai Paris. Độ nửa năm, thày được
thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt
Nam giảng đạo.
Nhà du thuyết nhiệt tâm
Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới Việt Nam, và lấy
tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu,
cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó đất
Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha được gọi về Lái
Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín
hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết
: "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ
phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào
rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo đức riêng lo
cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ
tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp
lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi
nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc đường…".
Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này được hai lần thì
ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha
Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái
Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các
họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.
Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo
Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở
Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi
qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc
cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu đích tôn của vua
Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt. Đến
05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù
nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn
bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có
thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha Du về
Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói : "Nếu cha không
chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…".
Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở
nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn
không chịu vào trong thành.
Khi quân triều đình vây thành Gia Định, Khôi cho
quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu
cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà riêng để
dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh, nghe giảng và
lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ
nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không
rành".
Một hôm cha được mời vào dinh nguyên soái. Một xấp
thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi
xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình, liền
đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của Khôi không dám làm
gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.
Sau hơn hai năm vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều
đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị
bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc (0.7m),
cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày xử tử, căn
nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.
Số người bị tàn sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín
hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử
lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử
:
- Giặc đã đem thày vào thành, thày không làm gì để
chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thày có biết làm thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó
theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi
và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con
trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân ngày
15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.
Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các
quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ
lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi
thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến giúp ngụy
không ?
Cha Du trả lời : "Ông Khôi có yêu cầu tôi viết
thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy
và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đêm mấy bức
thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt đi trước mặt ông
ấy".
Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực
hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi
giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông lên khét lẹt,
chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức tin hai lần ngất xỉu,
nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian buộc tội cha, các quan dỗ con trai
Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em
khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn
toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các quan đành xoay qua "tội giảng đạo".
Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du
cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với
Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô đã trôi qua như
thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều thuật lại rằng :
"Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng được viết
như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy
Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp
ngụy thần. Lệnh xử bá đao".
Chết vì lý do tôn giáo
Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang
kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê
Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi người chỉ được
đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua năm lạy. Vua Minh
Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối,
năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa vào
tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra khảo này, chúng ta thấy
quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !
Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế
cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình không được phép
nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc
tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại phải đến các thày đạo
trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt
các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự
quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để
phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức không thể trả lời được nữa. Lính dọn
cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với
Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông
Hương, cách kinh thành một dặm đường.
Chết như một tội nhân
Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du
bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa
những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại
có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát cắt.
Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai có thể kêu
la được nữa.
Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán cha
Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá
đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu
xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của ngài, cởi dây, bổ thân
mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được
đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc
xuống biển.
Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các
thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước
chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ
mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha
Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng,
Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin. (2)
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc
Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Marchand Du thừa sai linh mục
Sinh Quý Hợi (1803) quê thực Paris
Từ nhỏ đã tỏ hướng đi
Thích làm linh mục cậu thì tỏ ra
Cùng các bạn bày ra dâng lễ
Giống như cha chủ tế hàng ngày
Thấy người lớn cậu dẹp ngay
Trò chơi của cậu những ngày còn thơ
Ðến khi lớn giấc mơ của cậu
Xin vào dòng học đậu làm cha
Kẹt vì lúc đó trong nhà
Bạc tiền túng thiếu cùng là nhân công
Cha mẹ cậu trước không đồng ý
Tưởng một hai thối chí cậu chăng
Ai ngờ ngày một gia tăng
Cuối cùng cha mẹ phải bằng lòng thôi
Vào Chủng viện tuổi đời mười tám
Mười năm trời theo bám chủng sinh
Phó tế lãnh chức quang vinh
Thầy xin sang nhập gia đình thừa sai
Nửa năm sau chức ngài linh mục
Xin Bề Trên tiếp tục hiến thân
Việt Nam truyền giáo đang cần
Cha xin tình nguyện lãnh phần ưu tiên
Ðường đi lại tàu thuyền cách trở
Chặng đi đầu tạm ở Macao
Việt Nam đợi dịp đi vào
Mùa xuân con cọp (1830) đẹp sao tới bờ
Việc cần nhất bây giờ học tiếng
Tại Lái Thiêu vốn liếng bổ sung
Ðọc thông nói thạo đủ dùng
Ðặt tên tiếng Việt kêu bằng cha Du
Ðến Campuchia mùa thu năm ấy
Ðể thăm quan và thấy giáo dân
Lái Thiêu Chủng viện đang cần
Xin cha về nhận cái phần giảng sư
Coi xứ đạo cũng từ ngày đó
Trong cả vùng cũng có hai lăm (25 xứ)
Hàng tuần cha phải đi thăm
Ban phép hoà giải hằng trăm tín đồ
Vua Minh Mạng lệnh vô lùng bắt
Giáo sĩ Âu cấm ngặt răn đe
Rủ nhau đi bộ đi ghe
Chạy sang nước Thái (Lan) chở che tạm thời
Chỉ cha Du ngài đòi ở lại
Coi giáo dân chẳng ngại hiểm nguy
Miền Nam trong lúc ấy thì
(Lê) Văn Khôi phản loạn muốn đi cầu ngài (cha Du)
Ý ông (Khôi) muốn góp tài chung sức
Phần giảng rao hết mực tự do
Ðạo đời hoà hợp khỏi lo
Nay đây mai đó trốn cho tội tình
Cha Du vẫn làm thinh không chịu
Ngài biết rằng chính hiệu của tôi
Ðến đây giảng đạo Chúa Trời
Ngoài ra không biết việc đời là chi
Lê Văn Khôi gặp khi túng thế
Ðem voi ra bồng bế cha vào
Tâm thư ngài được ban trao
Ðọc xong xin hãy ký vào giùm tôi
Cha Du đứng nghỉ ngơi một lúc
Rồi đem thư tiếp tục xé luôn
Ông Khôi lúc đó tuy buồn
Nhưng không phản ứng về luôn sảnh đường
Hơn hai năm bức tường vây hãm
Quân nhà vua can đảm phá thành
Nguỵ quân mấy bữa tan tành
Văn Khôi bị bắt đồng hành cha Du
Ðem về kinh căm thù kết tội
Buộc cho ngài kết nối nguỵ quân
Gởi thư cầu viện xa gần
Cùng Khôi cấu kết mật thân chống triều
Cha Du nói một điều giảng đạo
Kẹp kìm tra cố tạo tội thêm
Cuối cùng bản án như nêm
Tây dương tả đạo có kèm tên Du
Phò Khôi nguỵ hận thù đáng chết
Xử bá đao chưa hết tội mi
Cha Du chẳng nói năng gì
Ất Mùi (1835) tử đạo hồn đi lên Trời
Trong sử sách ấy thời ghi chép
Mình cha Du chịu chết bá đao
Canh Tý (1900) Toà Thánh ban trao
Suy tôn Chân phước bước vào Thiên cung
Lời bất hủ: Tướng Lê Văn Khôi
(nghịch với Triều Nguyễn) đã ép cha Du phải vào thành. Tướng Khôi có ý mua chuộc
cha để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói: "Tôi chỉ biết việc đạo,
còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành". Cha Du bị bắt và dẫn giải về
triều đình Huế, các quan hỏi cung: "Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi
thư cho quân Giatô ở Ðồng Nai, biểu nó đến giúp nguỵ không?". Cha Du đáp:
"Ông Khôi có biểu tôi viết thư song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy
hay: đạo tôi cấm làm như vậy, và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu
thế ông Khôi còn đem mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái
thư ấy, mà đốt đi trước mặt ông ấy". Bản án thừa lệnh vua Minh Mạng viết
như sau: "Tây Dương Ma Sang kêu là danh Du, Giatô đạo trưởng, phò nguỵ
Khôi, nhận tội có viết thư sang Hồng Mao (tức nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan)
sang giúp nguỵ thần, lệnh xử bá đao". Cha Du còn tra hỏi lần chót rồi mới
xử. Hỏi: "Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải
không?". Ðáp: "Không, chẳng hề có những điều quái gở". "Vậy
sao có thứ bánh làm bùa mê thuốc lú, để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm
nó mê đạo đến thế?". Cha Du kiệt sức không trả lời được nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét