ĐẠO ĐỨC HỌC
Con người không chỉ sống để thỏa mãn các nhu cầu bản năng nhưng còn theo đuổi các giá trị mà chúng ta tin rằng sẽ giúp cuộc sống trở nên hạnh phúc hơn. Chúng ta đánh giá mọi hành vi và chọn lựa của mình dựa trên các giá trị này. Tồn tại với các yếu tố di truyền hay môi sinh thì chúng ta thật sự tự do chọn lựa các giá trị này không? Các giá trị này đến từ đâu và dựa trên những tiêu chuẩn phán đoán nào? Các tiêu chuẩn ấy là tương đối hay tuyệt đối? Chủ quan hay khách quan? Có phù hợp với viễn tượng nhân bản không? Cuối cùng, tại sao chúng ta “nên” sống đạo đức? Đạo đức học là môn nghiên cứu các chủ đề rộng lớn và quan trọng này.
Từ “ethics” (đạo đức học, luân lý học) bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “ethos”, có nghĩa là “phong tục” (số ít) và ở số nhiều “ethe” mang nghĩa “tính cách”. Từ “morality” cũng có nghĩa tương đương như trong tiếng Hy lạp, bắt nguồn từ tiếng La tinh “mos” (và mores ở số nhiều). Tuy nhiên, từ “ethics” thì thông dụng hơn trong phạm vi triết học, còn “morality” thì được dùng nhiều hơn khi nói về thần học luân lý. Từ các nghĩa gốc này cho thấy đạo đức học liên quan đến các “hành vi” (phong tục) chúng ta phải làm lẫn “tính cách” (loại người) chúng ta muốn trở thành. Hai chủ đề này liên quan mật thiết với nhau, vì tính cách của chúng ta được hình thành chủ yếu từ cách thức chúng ta quen hành động. Các nghĩa gốc này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta gọi đạo đức học là học về cách phải sống đời mình thế nào: Đạo đức học là môn học về cách cư xử và tính cách đúng đắn của con người.
Triết học không phải là môn học duy nhất xem xét cách cư xử và tính cách đúng đắn. Thần học cũng bàn về các vấn đề cơ bản này. Tuy nhiên, câu trả lời của thần học luân lý thì dựa trên các giả thuyết được chấp nhận bởi đức tin tôn giáo. Triết học đạo đức thì cố gắng cung cấp các câu trả lời hoàn toàn dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Trong khi cách giải thích về giáo lý tôn giáo có thể khác biệt nhưng nền tảng căn bản của thần học luân lý thì không thể bị tranh cãi. Trái lại, trong triết học đạo đức, mọi câu hỏi đều có thể được đem ra bàn luận—ngay cả câu: liệu có một đạo đức học đúng hay không? Tuy nhiên, có một số nhà tư tưởng vừa là triết gia, vừa là thần học gia nhận thấy có sự hòa hợp giữa thần học luân lý và triết học đạo đức, cho dù các điểm xuất phát của hai môn học này thì khác nhau. Nói chung, có ba vấn để nền tảng trong đạo đức học. đó là (1) mối tương quan giữa đạo đức học và bản tính con người, (2) khai triển các giá trị và tiêu chuẩn để phán đoán các hành vi đạo đức, và (3) và lý giải cho mục đích của đời sống đạo đức.
Đạo Đức học và Bản tính Con người.
Có nhiều cách trả lởi cho câu hỏi “chúng ta nên sống đời mình thế nào để đạt hạnh phúc?” nhưng có lẽ cách thông thường nhất là chúng ta nên sống thế nào để chúng ta thể hiện bản tính con người. Như thế, trước tiên chúng ta phải xác định một cách tổng quát về bản tính con người và rồi cắt nghĩa làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy. Nếu chúng ta chủ trương rằng bản tính con người là yêu thương thì đạo đức sẽ nhắm tới cách dùng lý trí để gia tăng hay củng cố sự yêu thương nơi con người. Nếu bản tính con người là tìm kiếm thỏa mãn hay hạnh phúc cho mọi người, thì tiêu chuẩn đạo đức phù hợp với mục đích ấy sẽ là vị lợi. Nếu bản tính chúng ta là thể hiện các khuynh hướng tự nhiên của con người, thì đạo đức học sẽ là việc khai thác cách áp dụng quy luật tự nhiên. Nếu con người là một thực thể mang tính xã hội, xem tha nhân như chính mình, thì các tiêu chuẩn đối xử công bằng và tôn trọng tự do của tha nhân sẽ là bổn phận thiết yếu của mọi thành viên trong xã hội.
Mặt khác, nếu chúng ta cho rằng bản tính con người không hoàn toàn là tốt, thì đạo đức là tìm cách thống trị, sửa sai các khuynh hướng tự nhiên của con người. Ví dụ, người ta có thể coi con người cơ bản là ích kỷ thì đạo đức học cần giúp khắc phục khuynh hướng vị kỷ hầu để đem lại lợi ích cho người khác. Khi triết gia phủ nhận về một bản tính chung thì giá trị đạo đức là thể hiện sự tự do tự sáng tạo qua các chọn lựa độc đáo của mình. Khó khăn ở đây là làm sao dung hòa sự mâu thuẫn giữa loại tự do tự tạo của mình với tự do của tha nhân. Cũng có những nhà nghiên cứu đạo đức học cho rằng yếu tố phái tính chi phối bản tính con người, do đó các nguyên tắc đạo đức tốt cho nam giới không thể giúp phụ nữ phát triển toàn diện và thể hiện bản tính chân thực của họ. Như thế thì “bản tính con người” vẫn còn là một vấn nạn lớn cho đạo đức học. Đó là khuynh hướng tự nhiên hay bản năng của con người, hay là những tập tục, thói quen xuất phát từ truyền thống tôn giáo, văn hóa? Trong khi chưa có sự thống nhất về định nghĩa của “bản tính con người” thì khó mà đạt đến một quan điểm chung về đạo đức học.
Các tiêu chuẩn đánh giá đạo đức
Đạo đức học nghiên cứu về cách chúng ta phán đoán một hành vi nhân bản là tốt hay xấu, đúng hay sai, căn cứ trên các tiêu chuẩn đạo đức được giả định. Từ thời Cổ Đại Hy Lạp, con người đã nhận biết có những qui luật chi phối lương tâm con người cao cả hơn là qui luật xã hội hay vua chúa. Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles, Antigone đã áp dụng qui luật này để biện minh cho hành vi chôn cất xác người anh ruột, cho dù đó là điều bị vua Creon cấm vì người anh đó đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Những qui luật đạo đức nền tảng đó qua thời gian đã kết hợp thành các tiêu chuẩn đạo đức.
Trong lịch sử có một số tiêu chuẩn đạo đức được khai triển và chấp nhận rộng rãi như: đạo đức học vị kỷ, đạo đức học vị lợi của Bentham & Mill, đạo đức học luật tự nhiên, đạo đức học bổn phận của Kant, đạo đức học nhân đức của Aristote. Cả bốn tiêu chuẩn đạo đức đầu tiên đều nhắm vào hành vi: làm thế nào chúng ta có thể quyết định hành vi hay chọn lựa nào thích hợp nhất cho hoàn cảnh của mình? Tuy nhiên, đạo đức học nhân đức nhắm vào sự thiện hảo của con người: cái gì tốt nhất cho con người như là một chủ thể luân lý? Làm thế nào để giúp con người thể hiện sự hoàn hảo luân lý của mình? Sự hiểu biết và ý định của chủ thể rất cần thiết trong công việc phán đoán đạo đức.
Cả hai đạo đức học vị lợi và vị kỷ đều phán đoán dựa trên các hậu quả mà hành động hay tính cách tạo ra (consequentialism). Ví dụ, chúng ta khen ngợi các hành động bảo vệ môi trường vì chúng giúp thế hệ chúng ta và các thế hệ tương lai sống khỏe mạnh hơn và tốt đẹp hơn. Chúng ta kết án hành động giết người vì sự thiệt hại nó gây ra cho gia đình và bạn bè của nạn nhân, cho cộng đồng nơi tội ác diễn ra, và cho xã hội nói chung. Chúng ta khen ngợi tính quảng đại vì nó giúp một người biết quan tâm tới người khác và thăng tiến hạnh phúc của họ. Chúng ta kết án sự căm ghét vì nó làm hại người bị căm ghét, giảm nhân tính của người có lòng căm ghét, và làm xã hội xấu đi.
Đạo đức học luật tự nhiên nhấn mạnh vào ý hướng của hành vi (intentionalism). Giả sử tôi giúp cứu chữa một đứa bé em bé bị xe tông, chắc chắn hành động của tôi sẽ được xem là tốt. Nhưng hành động này là tốt cho dù tôi không cứu được mạng sống đứa bé, vì tôi đã có ý hướng giúp người bị nạn và tôi đã làm hết sức của mình. Giả sử đứa bé lớn lên rồi trở thành một tên giết người hàng loạt, thì hành động của tôi vẫn được xem là tốt về mặt đạo đức vì ý hướng tốt đứng sau hành động ấy. Ngược lại, nếu tôi là một dược sĩ và giả tạo các dữ liệu nghiên cứu để công ty có thể được phê chuẩn một thứ thuốc mới, và tôi được thưởng nhiều tiền. Dữ liệu sai lạc của tôi làm cho thuốc này được phê chuẩn, và nó lại trở thành một thứ thuốc an toàn và chữa trị bệnh nhân rất tốt. Nhưng hành vi giả tạo của tôi là sai đạo đức, cho dù kết quả sau cùng là tốt.
Đạo đức học bổn phận lý luận rằng tiêu chuẩn dùng để đánh giá đạo đức của một hành động hay một tính cách hệ tại một số đặc tính hình thức nào đó mà hành động này có (formalism). Theo một lý thuyết như thế, một hành động chỉ là tốt về đạo đức nếu nó có tính chất là “có thể trở thành phổ quát”—mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện. Như thế, để xác định một hành động là đạo đức, chúng ta phải giả định là mọi người cùng thực hiện hành động ấy. Ví dụ, nếu một mình tôi trốn thuế thu nhập thì chính phủ sẽ vẫn hoạt động bình thường, nhưng hành động trốn thuế của tôi là sai trái vì chính phủ sẽ sụp đổ nếu không ai đóng thuế thu nhập.
Cuối cùng đạo đức học nhân đức (virtues ethics) quan niệm rằng một con ngưởi với cá tính tốt thì hành động hay phán đoán của họ sẽ thể hiện tính cách tốt của tác nhân. Do đó, qua thói quen dùng lý trí để chọn cái “trung dung” giữa bất cập và thái quá trong cuộc sống, chúng ta tạo nên một “cá tính thứ nhì” hầu mang lại hạnh phúc và thiện hảo cho cuộc sống. Nhân đức là sức mạnh giúp con người thể hiện tiềm năng cá nhân và trở thành loại người mà chúng ta muốn trở thành. Con người có nhân đức thì sẽ biết biện phân giữa các mục đích công cụ và nội tại, cùng với sự chọn lựa tốt nhất trong mọi hoàn cảnh. Các nhân đức bổ túc cho nhau, và cuộc sống là một tiến trình phát triển nhân đức không ngừng.
Tại sao phải sống đạo đức?
Một ví dụ cụ thể. Giả sử tôi đồng ý với xã hội rằng ăn cắp là sai, lấy tài sản của người khác là nghịch với đời sống chính trực. Rồi giả sử một hôm tôi đi trên con đường phố vắng vào ban đêm và nhặt được một cái ví với 10 triệu đồng, cùng với tên và địa chỉ của người mất cái ví ấy. Đạo đức học đòi hỏi tôi phải trả lại số tiền ấy cho người bị mất. Nhưng tôi suy nghĩ rằng, nếu tôi bỏ chiếc ví này vào túi mình thì cũng chẳng ai biết, và lấy số tiền ấy để mua một máy vi tính mới thật hấp dẫn biết bao. Tôi tự hỏi, liệu mình phải làm hành vi đạo đức là trả lại cái ví tiền, hay làm hành động hấp dẫn là có một cái máy vi tính mới toanh. Trong bóng tối không ai biết gì cả, thì tại sao tôi phải hành động đạo đức? Có lý do chính đáng nào để tôi chọn sống chính trực thay vì sống thú vị hơn hay không?
Đạo đức liên hệ đến mục đích cuối cùng mà lối sống (phong tục, tập quán, hạnh kiểm, của một người, quốc gia, thời đại) đã được tự ý công nhận. Nó bảo ta những việc phải làm, giúp ý chí nhận ra những quy luật cần thiết, và giúp con người biết sử dụng tự do theo cách đúng đắn để đạt tới cuộc sống hạnh phúc. Nó còn là cuộc sống hợp với nhân phẩm, được thúc bách bởi lý tưởng và hướng dẫn hành động về những mục đích tạo nguồn bình an cho con người. Ta biết những điều thiện ấy một cách khách quan, vì chúng là tốt cho cộng đoàn và cá nhân. Nhưng điều thiện là tốt vì lý do nào, có phải vì nó tốt hay ta muốn chọn nó? Một người làm việc tốt nhưng với mục đích xấu có phải là người tốt không? Hoặc một người có ý tốt nhưng lại làm điều không tốt do không biết, liệu người ấy có phải là người xấu không? Như thế, cách lập luận khách quan trên đây cần phải được bổ túc bởi sự tìm kiếm tri thức của chủ thể luân lý, tức là cách chủ thể hiểu và lý giải cho động lực và hảnh vi của mình.
Nhiệm vụ của đạo đức học là tìm các hướng dẫn để giúp chúng ta đạt được mục tiêu mà chúng ta giả thiết thì câu hỏi “Tại sao nên sống đạo đức?” nằm ở ngoài lãnh vực của triết học đạo đức. Chúng ta sống đạo đức có thể là vì những lý do thực tiễn, không thuộc phạm vi triết học: sợ bị luật pháp trừng phạt; tránh làm mất danh giá và bạn bè; muốn lương tâm khỏi bị cắn rứt, etc.. Cũng có những lý do mang tính thần học: làm hài lòng Thượng đế, vì đời sống mai sau, sợ bị trừng phạt, muốn lập công đức. Mặc khác, câu hỏi “Tại sao phải sống đạo đức?” cũng là một câu hỏi đạo đức học vì “sống chính trực” đồng nghĩa với “có một đời sống tốt.” Nếu sống đạo đức tức là đang tìm kiếm một đời sống “tốt hơn” những ham muốn tầm thường và cố gắng thăng tiến cuộc sống tới cùng một sự thiện “cao thượng” hơn. thì đó cũng chính là mục đích của đạo đức học vậy.
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐẠO ĐỨC HỌC
Siêu hình học nghiên cứu các vấn nạn về thực tại và hữu thể: Thế nào là tồn tại? Cơ cấu của hữu thể là gì? Đâu là bản chất hay hình thức của hiện hữu? Tri thức luận tra cứu về nền tảng cho tri thức: Dựa trên cơ sở gì để chúng ta đi đến kết luận là có tri thức hay hiểu biết về một điều gì đó? Kinh nghiệm? Lý trí? Ý niệm? Trực giác? Hay phối hợp các yếu tố này? Đạo đức học chú tâm vào các hành vi nhân vị. Nên sống như thế nào là tốt? Nên chọn lựa hay phán đoán như thế nào là đúng? Dùng tiêu chuẩn nào để xác định tốt/xấu hay đúng/sai? Đâu là những điều kiện để chúng ta khẳng định một phán đoán đạo đức, hay chọn một giá trị đạo đức?
I. THỜI CỔ HY LẠP: Tìm kiếm đức hạnh
A. Thời Tiền-Socrates:
Đạo đức là vấn đề tìm sự quân bình giữa hai bản năng “tinh thần” (spirit) và “dục vọng” (passion) của con người. Cũng giống như một kỵ mã phải điều khiển hai con ngựa chiến, mỗi con muốn kéo cỗ xe ngựa đi theo hướng riêng của nó, thì con người tìm hạnh phúc qua cách điều khiển cả hai đi theo hướng mình muốn. Tinh thần cao quá độ có thể trở thành hiếu thắng làm mất trí khôn, nhưng dục vọng quá nhiều cũng sẽ làm tê liệt khả năng phán đoán của con người.
- Phái Khoái lạc (Epicurus): Thước đo hành động của chúng ta là mức độ thỏa mãn mà hành động đó mang lại. Mỗi người cần tìm cuộc sống thoải mái với một sự thỏa mãn quân bình, cần loại trừ những nỗi lo lắng vô căn cứ như Thượng đế hay hình phạt đời sau.
- Phái khắc kỷ (Stoic): Muốn tìm hạnh phúc chúng ta cần kiểm soát những yếu tố nằm trong khả năng của mình (thái độ, phán đoán, niềm tin); và tránh tìm cách thay đổi những điều ngoài tầm tay của chúng ta (đau khổ, cái chết). Hạnh phúc con người chính là sự “khôn ngoan”, là biết cách sống cho phù hợp với những qui luật mà lý trí khám phá ra về vũ trụ và thế giới bên ngoài.
- Phái hoài nghi: Không có những chuẩn mực đúng hay sai tuyệt đối. Giác quan có thể đánh lừa chúng ta. Hạnh phúc tiềm tàng trong khả năng sống với sự tương đối và trong phạm vi những gì có thể đạt được. Đau khổ hay bất hạnh là những người đi tìm chuẩn mực đạo đức tuyệt đối.
- Phái ngụy biện: Chối bỏ mọi đạo đức truyền thống, con người là thước đo cho chính mình; dùng tài hùng biện để thắng trong những cuộc tranh luận và thuyết phục người khác nhìn nhận “chân lý” của mình. Chân lý thuộc về kẻ thắng. Tương đối và hoài nghi là hai chủ thuyết nền tảng của trường phái ngụy biện.
B. Socrates (469-399 BC):
Phản biện lại nhóm Ngụy Biện, Socrates chủ trương rằng tri thức phải gắng liền với khả năng nhận thức và thực hành điều thiện hảo hầu mang lại hạnh phúc cho chính mình và tha nhân. Khủng hoảng trong xã hội thảnh Athens đến từ sự bại chiến với Persia đặt lại vấn đề về cách sống, đưởng lối huấn luyện và giáo dục giới trẻ, tương quan giữa sự thiện và niềm tin tôn giáo hay thần thánh? Khủng hoảng là thời gian thích hợp để suy tư về nền tảng đạo đức, truy vấn về cách chúng ta suy tư, phán đoán và tìm kiếm chân lý để đạt đến một cuộc sống thiện hảo. Giữa hai quan điểm sự thiện là “bẩm sinh” và là kết quả của “tài tranh cãi” thì Socrates chọn con đường thứ ba. Đó là con người qua đối thoại, phản tỉnh, biện chứng pháp, tiến trình tiệm tiến của nổ lực tìm chân lý chung, sẽ giúp chúng ta gia tăng ý thức về những “giả định” chung về đức hạnh.
Qua hội thoại “Euthyphro”, Socrates cho thấy rằng các giá trị đạo đức thì không lệ thuộc vào thần thánh, tôn giáo, cảm tính, thói quen xã hội, quyền lực hay ý thức hệ. Nhận thức về sự vô tri của mình là khởi điểm của khôn ngoan. Socrates bị kết án là gây hoang mang trong giới thanh niên thành Athens, bị bỏ tù và bị ép uống thuốc độc mà chết. Ông từ chối đào tẩu vì lẽ nhà nước đại diện cho đạo đức tập thể vốn là nền tảng của chế độ dân chủ và kết quả của việc suy tư thuần lý và tôn trọng lý trí một cách tối đa. Socrates chấp nhận hình phạt của nhà nước dân chủ thì cũng như bất kỳ người lính nào cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết khi ra chiến trận.
Nhưng cái chết của Socrates cũng là một sự mỉa mai cho nền dân chủ dựa trên tranh cãi và hùng biện vốn đang che lấp một ý thức hệ ngụy biện của nhóm lợi ích nào đó. Socrates xác tín rằng lý trí có thể phát triển một số những nguyên tắc đạo đức vốn tiềm tàng trong trong cách chúng ta phán đoán về niềm tin, hành động và chọn lựa. Nhận ra sự vô tri của chính mình là khởi đầu của hành trình khôn ngoan. Khả năng phản tỉnh là “con đường vàng” dẫn đến tri thức thực sự. Con người, hãy tự biết mình! (Mortals, Know thyself!)
C. Plato (428-348 BC):
-Thực thể tối hậu tồn tại trong thế giới ý niệm. Plato dùng mô hình toán học để diễn đạt tri thức. Ông thiết lập một nền tảng siêu hình nhằm đưa ra giải pháp cho những vấn nạn của Socrates. Thiện hảo và công lý tồn tại độc lập với chúng ta. Chúng ta là những linh hồn bị cầm tù trong thể xác, chúng ta có thể hồi tưởng lại tri thức về các “ý niệm” đã được tạc ghi vào linh hồn chúng ta trong quá khứ. Giáo dục (e-ducare) là tiến trình hồi tưởng lại các thị kiến về điều Thiện. Vì thế, sự thiện hảo, công bằng, đức hạnh, etc., là những ý niệm tuyệt đối, tồn tại ở thế giới ý niệm. Cho dù trong thế giới khả giác chúng ta chưa hề bắt gặp sự thiện tuyệt đối nhưng ta có thể dùng lý trí để hồi tưởng lại tri thức về các thực tại tuyệt đối này.
Dụ ngôn “Cái Hang”: Trong tác phẩm Nền Cộng Hòa, Plato dùng dụ ngôn Cái Hang để phân biệt ra hai tầm mức thực tại: thế giới vĩnh cửu và thế giới tạm bợ. Tìm hiểu về Đạo Đức thì cũng như các nô lệ đang bị giam cầm nơi hang sâu, chỉ nhìn thấy hình bóng của những gì xảy ra chập chờn trên vách hang đá. Chỉ khi được giải thoát ra ngoài thì mới ý thức là sự tồn tại của mình trong thế giới khả giác trước đây chỉ là ảo ảnh của thực tại bất biến và vĩnh hằng bên ngoài hang tối. Ý nghĩa của dụ ngôn “Cái Hang”: Bị trói buộc: thân xác nặng nề vì vui thú nhục dục sẽ đè nặng xuống, ngăn cản suy tư đạo đức. Trong bóng tối: thế giới nhỏ bé, thiếu kinh nghiệm, không sẵn sàng đón nhận tri thức. Bóng in trên tường: mỗi người là thước đo cho chính mình, quan tâm đến mình, chấp nhận bất điều gì mà không biết phê phán. Ánh sáng bên ngoài và sự mù lòa ban đầu: nỗi đau đớn khi học biết những chân lý mới, cảm xúc khó chịu khi ý tưởng của ta bị thách đố.
Cần “từ bỏ bóng tối” thống trị bởi các đam mê và dục vọng. Nhận ra những bóng tối của chính mình để được tự do theo đuổi tri thức. Tri thức chân thật đòi hỏi sự kỷ luật, quay đầu khỏi các đam mê, và hồi tưởng lại những gì linh hồn đã biết. Trí khôn con người có phần lý tính và phần phi lý tính (phần tiếp xúc với thân xác). Do đó hạnh phúc của con người sống trên đời này là dùng lý trí để điều khiển dục vọng và tinh thần. Tri thức luận của Plato gồm bốn bước đi lên: hình ảnh, sự vật, toán học, ý niệm, tương đương với bốn mức độ nhận thức: tưởng tượng, tin tưởng, suy gẫm và tri thức thật sự.
D. Aristote (384-322 BC):
Aristote phê bình đạo đức học của Plato là lôi cuốn con người đi quá xa khỏi thực tại mình đang sống. Aristote cho rằng bản chất (hình thức) của sự vật không ở trong thế giới cách biệt (ý niệm) nhưng trong chính vật chất. Aristote dùng mô hình sinh học: biết điều gì nghĩa là nhận ra các bộ phận của nó hoạt động như thế nào trong một toàn thể để nó phát triển hoàn toàn chức năng của nó.
Mọi thực thể đều có bản chất và hình thức; hành động được hiểu theo ý hướng và mục đích. Điều mang lại hạnh phúc không hệ tại ở sự vật hay hành động nhưng là trong ý định hay mục đích. Như vậy “sự thiện” của một sự vật là điều kiện vốn giúp nó đạt đến hay hoàn thành ý định hay mục tiêu của nó. Điều kiện này chính là “điểm trung dung” giữa sự thái quá và bất cập. Nhân đức là tương quan đúng đắn giữa sự thái quá và khiếm khuyết: khôn ngoan, can đảm. Nhân đức là thói quen chọn những gì tốt nhất để mình có thể phát triển hoàn thành chức năng cao nhất của mình, đó chính là lý trí.
Tác phẩm Nicomachean Ethics là bản văn đầu tiên về đạo đức trong nền văn minh Tây phương. Aristote cho rằng không có hình thức nào có thể tồn tại tách biệt khỏi đối tượng. Không có sự thiện hảo nào tồn tại tách biệt khỏi kinh nghiệm sống hàng ngày. Chúng ta biết điều tốt nhờ vào việc quan sát cách thức người ta nỗ lực đạt được điều thiện. Tình bạn hữu chân thật (mong ước điều thiện cho người khác chỉ vì họ mà thôi) là động lực tối hảo cho việc vun trồng nhân đức.
Trong khi tập nhân đức, tìm kiếm sự thiện hảo qua cách chọn cái trung dung, con người phải tận dụng lý trí. Do đó, đời sống lý trí có hai hướng song song: theo đuổi chân lý (trí thông minh và sự hiểu biết) và theo đuổi nhân đức (sự trung dung giữa thái quá và khiếm khuyết). Đây là mô hình “sinh học”: bạn chỉ biết bản chất của một vật khi bạn nắm bắt được toàn bộ tiềm năng của nó. Vì con người là động vật có lý trí, tiềm năng lý trí sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc; trong tiến trình này, chúng ta có thể học biết điều thiện hảo.
II. THỜI TRUNG CỔ: đức tin và lý trí
Vấn đề: Lý trí nâng đỡ hay cản trở đức tin trong khi truy tầm nhận thức về điều đúng hay sai. Một mình lý trí có thể nắm bắt được bản chất của luân lý hay không?
A. Thánh Augustine (354-430): ánh sáng nội tại
Khuynh hướng nhị nguyên: có hai loại nhận thức, hay hai thành đô. Thành đô Thiên Chúa và thành đô con người; thế tục đối ngược với thánh thiêng. Có hai trật tự: tự nhiên (khả giác, thành đô con người, công ích, thế tục) và siêu nhiên (khả tri, thành đô Thiên Chúa, vĩnh cửu).
Vai trò của niềm tin Kitô, Giáo Hội, Kinh Thánh: Đạo đức Kitô giáo hướng đến tìm kiếm những giá trị bất biến, vĩnh cửu. Triết học đưa đến sự hiểu biết còn thần học đưa đến sự khôn ngoan. Thánh Augustin viết hơn 700 tác phẩm, đáng lưu ý nhất là cuốn Tự thuật và Thành đô của Thiên Chúa. Tính nhị nguyên của thánh Augustine: đời sống lý trí (hướng đến hạnh phúc tạm thời, điều thiện tự nhiên và chóng qua), và đời sống đức tin (đưa đến sự cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu, điều thiện siêu nhiên). Vì cuộc đời này chỉ là sự chuẩn bị cho đời sau cho nên không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu ở đây. Con người sa ngã do nguyên tội nhưng vẫn còn ý chí tự do và trách nhiệm đối với các hành vi của mình. Vì lẽ đó, nhân đức có thể luyện tập được nhưng giá trị thực sự phải được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa hằng hữu. Con người sống như khách lữ hành trong thế giới này.
B. Thomas Aquinas (1225-1274): lý trí phối hợp với đức tin
Lý trí đưa đến các nhân đức trí tuệ; nhưng đức tin đưa đến nhân đức đối thần. Lý trí là tiếng nói của lương tâm. Một mình lý trí thông thường có thể đạt đến hiểu biết quy luật tự nhiên. Tôma tái khám phá và Kitô hóa triết học của Aristote, tạo nên một sự hài hòa giữa nền đạo đức tự nhiên và đạo đức hướng thần. Phạm vi sáng tác của Tôma rất rộng, quan trọng nhất là tác phẩm Summa Theologica, và Summa Contra Gentes. Đạo đức tự nhiên bao gồm việc phát triển khả năng của lý trí đồng thời thực hành đời sống luân lý; đạo đức tự nhiên đưa con người đến hạnh phúc trần thế. Đạo đức hướng thần bao gồm việc đạt được các nhân đức hướng thần: tin-cậy-mến nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
Tôma cho rằng Luật tự nhiên – Luật siêu nhiên được viết trong tâm hồn – được khám phá bởi lý trí và trau dồi bởi lương tâm. Khi chấp nhận tính độc lập và khả năng đạt đến chân lý của lý trí, đạo đức học của Tôma có một lối nhìn mang tính khoa học hơn về con người. Sống đạo đức là biết sống tuân theo bốn qui luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, luật xã hội, và luật Thiên Chúa.
III. CÁC KHUYNH HƯỚNG CẬN ĐẠI
1. Luân lý “Tự Vệ” versus luân lý “Đồng Cảm”
Hobbes (1588-1679): nhà tư tưởng đầu tiên tiếp cận đạo đức một cách hệ thống theo quan điểm khoa học. Trong tự nhiên, tự bản chất con người tìm kiếm sự bảo toàn cho chính mình. Trong tình trạng tự nhiên, đúng hay sai không tồn tại, không có luân lý. Chỉ khi xã hội dân sự hình thành và khi mọi người sẵn sàng đồng ý cống hiến trọn vẹn lòng trung thành cho đất nước thì đạo đức mới có thể thực hiện được. Nhà nước có thể trừng phạt những hành động ngăn trở hoặc ban thưởng cho những hành động cổ võ công ích và sự an toàn của người dân. Do đó, đạo đức học đối với Hobbes xuất phát từ nhu cầu tự vệ.
David Hume (1711-1766): ngược lại với cái nhìn đạo đức mang tính cơ học và duy vật của Hobbes, Hume cho rằng cảm giác về sự đau đớn đưa chúng ta đến việc suy tư và hình thành nên những quan niệm về công lý và điều thiện, từ đó tạo nên một hệ thống các phán đoán luân lý. Luân lý có khía cạnh: khách quan (kết quả của hành động) và chủ quan (cảm giác về mức độ hài lòng mà người khác có được). Một mình lý trí không thể trả lời hết những vấn nạn luân lý, nhưng cần một “sự đồng cảm luân lý” trong việc chọn lựa điều gì hữu ích hay hài lòng để hành động.
2. Đạo đức học “Bổn Phận” versus Đạo đức học “Hậu Quả”
Emanuel Kant (deontology, bổn phận): Con người muốn được tự do theo đuổi lý tưởng đạo đức của mình mà không bị trói buộc bởi bất cứ áp lực gì từ bên ngoài. Do đó, chúng ta cảm thấy có bổn phận và trách nhiệm làm “đúng” hay làm theo “lẽ phải” dù điều đó mang lại lợi ích hay không lợi ích cho mình. Vì muốn được tự do và đạt đến hạnh phúc thực sự, chúng ta tuân theo “mệnh lệnh tuyệt đối”. Điều cao thượng nhất trên đời này chính là ý chí muốn thực hành điều đúng bất kể nó có mang lại hậu quả tốt cho mình hay không: “The highest good is the good will.”
John Stuart Mill: (consequentialism, chủ thuyết hậu quả). Hậu quả là nguồn gốc của đạo đức học vị lợi. Đạo đức nhắm vào những giá trị có thể gia tăng tối đa hậu quả “tốt nhất” cho mọi người. Hành vi đạo đức là hành vi mang lại lợi ích tối đa cho nhiều người nhất. Đạo đức vị lợi là sự trung dung giữa vị tha và vị kỷ, luôn tìm hành vi mang đến hậu quả “tốt” thay vì “đúng”, cho nên nhiều khi hậu quả của “hành vi” vị lợi và hậu quả của “nguyên tắc” vị lợi có thể mâu thuẫn nhau. Do đó cần phải có sự cân bằng giữa hai khía cạnh này của vị lợi. “Luôn luôn phải chọn hành vi mang lại lợi ích tốt nhất cho nhiều người nhất” (Mill).
IV. CÁC VẤN ĐỀ TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC HIỆN NAY
1. Đạo đức giới tính (gender ethics): Khám phá những nguyên tắc đạo đức “vô hình” nhưng bất công đối với phụ nữ hay người đồng tính đang tiềm tàng trong sinh hoạt của nhiều tầng lớp xã hội, ước khế lao động, tổ chức tôn giáo, và cách đối xử giữa con người với nhau. Đạo đức học giới tính muốn tìm những tiêu chuẩn đạo đức công bằng hơn về giới tính, và tôn trọng nhân phẩm của mọi người trong mọi bối cảnh văn hóa, xã hội, tôn giáo và ngôn ngữ.
2. Đạo đức môi sinh (environmental ethics): Trong tiến trình phát triển kinh tế và xã hội, môi trường đã bị khai thác và lạm dụng đến mức gây tổn hại lâu dài đến sức khỏe con người và sự sống trên hành tinh này. Đạo đức học môi sinh cố gắng tìm những nguyên tắc đạo đức có khả năng hồi phục lại sự quân bình giữa phát triển kinh tế và nhu cầu của con người với sự sinh tồn của các sự sống khác trong tự nhiên.
3. Đạo đức học sự sống (bio-ethics & medical ethics): Những tiến bộ gần đây và trong ngành y khoa (công nghệ sinh sản IVF, liệu pháp gen, chọn lựa tiền sản, nhân giống vô tính, kéo dài sự sống, khả năng tạo ra những hỗn hợp người-động vật, etc.) đã thử thách y đức Hippocrates và luân lý Kitô giáo cổ điển. Kỹ thuật tân tiến về chăm sóc và kết thúc sự sống đã biến quyết định giữa bác sĩ và bệnh nhân thành những tranh cãi công chúng về các vấn nạn rất nhân bản về sự sống con người lúc ban đầu cũng như giá trị của cuộc sống của người khuyết tật. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi ta xét khía cạnh bảo vệ động vật và sinh thái học. Các nhà đạo đức sinh học đang bận rộn tìm những nguyên tắc đạo đức hầu để hướng dẫn các chọn lựa hay phán đoán không chỉ trong y khoa và sinh thái học mà cả về các giới hạn của thí nghiệm khoa học.
4. Siêu học thuyết về đạo đức (meta-ethics): Trong thế kỷ gần đây, các triết gia bắt đầu chú tâm đến khía cạnh logic, ngôn ngữ của lý luận, tiến trình suy tư và hành động trong ngành đạo đức học. Chuyên gia nghiên cứu siêu học thuyết về đạo đức không đưa ra đề nghị chúng ta nên phán đoán như thế nào, nhưng trái lại tìm kiếm tri thức về bản chất của ngôn ngữ đạo đức, về cơ cấu của phán đoán đạo đức, và mối tương quan của các loại đạo đức học.
Linh Mục Josheph Nguyễn Đoàn Tân, Ofm
Tài liệu tham khảo:
Joseph Nguyễn Đoàn Tân, Đạo Đức Học Tổng Quát, NXB Phương Đông, 2016
Nguồn: dcvphanxicoxavie.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét