Chia sẻ với em: KINH MÂN CÔI
CHIA SẺ VỚI EM: KINH MÂN CÔI
A. KINH MÂN CÔI LÀ LỜI TÂM TÌNH CỦA MẸ.
Khi hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, Đức Mẹ Ma-ri-a đã bày tỏ nổi lòng yêu mến nhân loại và đau khổ trước những tội lỗi mà nhân loại đang xúc phạm đến Thiên Chúa. Và chính Mẹ -chứ không ai khác- hiểu rất rõ sự công bằng của Thiên Chúa, sự công bằng này luôn nghiêng về phía yêu thương nhân loại mà Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ loài người, thế nhưng Thiên Chúa yêu thương càng nhiều, thì nhân loại càng gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Vì vậy, Đức Mẹ Ma-ri-a chính là nơi để chúng ta –nhân loại tội lỗi- trú ẩn trước cơn thịnh nộ bởi sự công bằng của Thiên Chúa.
Nỗi lòng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trãi ra khi nói với em bé Lucia: “Các con hãy cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi và hãy tôn sùng trái tim Mẹ”.
Chính những lời nói phát xuất từ miệng của người mẹ cao cả này mà Giáo Hội tin tưởng rằng: sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa không còn bao lâu nữa, nên ngày càng thôi thúc chúng ta hãy thực hiện gấp ba mệnh lệnh và cũng là ba lời tâm tình của Đức Mẹ Ma-ri-a:
Lời tâm tình thứ nhất: Hãy cải thiện đời sống.
Không một người mẹ nào hãnh diện với hàng xóm khi có đứa con đi bụi đời, thành tích bất hảo đếm không nổi; không có người mẹ nào nở được nụ cười, khi con cái mình ngày càng hư đốn không nghe lời dạy bảo.
Đức Mẹ Ma-ri-a là mẹ của chúng ta, Mẹ không thể nào nhắm mắt làm ngơ khi sự kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, mà nhân loại vẫn cứ ngày càng sống trong đêm tối của tội lỗi; Mẹ cũng không thể một mình giúp nhân loại nếu nhân loại chúng ta không cộng tác với Mẹ, bởi vì nhân loại ngày càng lợi dụng tình yêu của Thiên Chúa ban cho để phủ nhận Ngài, lợi dụng sự tự do để làm tất cả những gì mà tính ích kỷ của con người đòi hỏi, kể cả những công việc mà ngay chính lương tâm của họ cũng lên án như giết người, phá thai và bốc lột người nghèo.v.v...
Mẹ, như người mẹ đau khổ vì những đứa con là nhân loại tội lỗi, Mẹ đang nhờ những em nhỏ bé đơn sơ ở làng Fatima để nhắc nhở nhân loại: hãy cải thiện đời sống.
Cải thiện đời sống tức là thay đổi cuộc sống của mình từ xấu qua tốt, từ gian ác qua thánh thiện, từ gian dối qua thật thà, từ ghen ghét qua yêu thương, từ ích kỷ qua quảng đại, tắt một lời là thay đổi cách sống của mình để ngày càng trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn, đó chính là điều mà Mẹ muốn mỗi người trong chúng ta phải thực hiện trước khi cơn thịnh nộ vì sự công bằng của Thiên Chúa đến.
Lời tâm tình yêu thương chứa đựng sự van nài của Đức Mẹ Ma-ri-a đến nay vẫn còn vang dội trên khắp thế giới. Chỉ có thay đổi cuộc sống của mình thì hòa bình sẽ đến, và chỉ có thay đổi cuộc sống của mình đề sống Lời Chúa thì mới có thể kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, và như thế cũng có nghĩa là Nước Trời thật sự đang hiện diện ở trần gian này.
Lời tâm tình thứ hai: Yêu mến Trái Tim Mẹ.
Đức Chúa Giê-su khi còn là bào thai trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a, thì mỗi nhịp đập tim của Mẹ là một nhịp sống của Ngài, mỗi một hơi thở của Mẹ là một động lực thúc đẩy Ngài từng giây phút lớn lên. Mẹ đã chia sẻ phần máu thịt của mình để làm nên hình hài của Đức Chúa Giê-su, và hơn ai hết, Đức Chúa Giê-su hiểu rất rõ, cảm nghiệm sâu sắc tình mẫu tử của Đức Mẹ Ma-ri-a đối với Ngài và với nhân loại. Tình mẫu tử này đã được thể hiện trên đồi Can-vê trước giờ hấp hối, Phúc Âm của thánh Gioan thuật lại rằng:”Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh. Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”(Ga 19, 26-27).
Yêu mến Mẫu Tâm Đức Mẹ Ma-ri-a là chúng ta yêu mến Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su, cả hai trái tim này đều vì nhân loại mà chịu đau khổ.
Trái tim Đức Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu để giọt máu yêu thương nhân loại cuối cùng trong tim chảy ra cho hết, để nước nơi cạnh sườn Ngài chảy ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Một trái tim của Đức Mẹ Ma-ri-a bị bảy lưỡi dao sắc đâm thâu, khiến mẹ trở nên người mẹ đồng công cứu chuộc nhân loại với con của mình là Đức Chúa Giê-su, hai trái tim đồng nhịp yêu thương vì nhân loại tội lỗi bất trung.
Yêu mến Trái Tim Mẹ là bởi vì trái tim ấy rất yêu mến loài người, đã hy sinh tất cả vì loài người, hy sinh ngay cả người con độc nhất để cứu chuộc loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để xoa dịu nỗii đau khổ của Thiên Chúa và của Mẹ vẫn còn đang chịu hằng ngày vì tội lỗi của loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để chúng ta biết yêu mến Đức Chúa Giê-su hơn khi hiệp thông với những đau khổ của Ngài phải chịu vì chúng ta.Một người mẹ chịu quá nhiều đau khổ thì không than trách với ai cả, mà chỉ thầm thỉ với những đứa con nhỏ bé đơn sơ của mình mà thôi. Đức Mẹ Ma-ri-a như người mẹ hiền đau khổ vì những đứa con ngỗ nghịch đã bày tỏ tâm tình với ba trẻ ở làng Fatima, bằng cách cho ba em biết những bí mật của Giáo Hội mà vị đại diện Đức Chúa Giê-su ở trần gian là Đức Giáo Hoàng phải chịu đau khổ, và nhân loại phải chịu vì những tai ươn do chính tội lỗi của mình mang đến: chiến tranh, ôn dịch, đói khát.v.v...
Yêu mến Trái Tim Mẹ, không phải chỉ là đọc kinh sáng tối, hay là đọc kinh Mân Côi cho thật nhiều mà không muốn thực hành lời Mẹ dạy là ăn ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, nhưng yêu mến Trái Tim Mẹ chính là đem con tim của mình đi yêu thương và chia sẻ những đau khổ của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a nơi những người khác, để đền bù tội lỗi của mình và để kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lời tâm tình thứ ba: Siêng năng lần hạt Mân Côi.
Không có vị thánh nào mà không yêu mến chuỗi Mân Côi, cũng có nghĩa là nói: không có vị thánh nào mà không yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a, chính lòng yêu mến Đức Mẹ mà các thánh siêng năng lần hạt Mân Côi, bởi vì các ngài biết rằng, chuỗi Mân Côi là phương thế hữu hiệu mà đơn sơ nhất để được đến gần với Thiên Chúa, bởi vì nơi kinh Mân Côi này, các ngài nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài không những nhờ công nghiệp của Đức Chúa Giê-su, mà còn nhờ sự vui lòng cộng tác vào ơn cứu độ ấy của Đức Mẹ Ma-ri-a.
Chuỗi Mân Côi, như các nhà thần học nói, chính là sách Phúc Âm rút gọn lại những mốc chính của cuộc đời Đức Chúa Giê-su khi ở trần gian này, mà Giáo Hội –qua mọi thời đại- đã suy tư chiêm ngắm và chia làm hai mươi “mốc” quan trọng: từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, cho đến khi Đức Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác. Hai mươi mốc lịch sử này, chúng ta gọi là hai mươi mầu nhiệm kinh Mân Côi, và như là hai mươi đóa hoa hồng mà Giáo Hội kính dâng tặng cho Đức Mẹ Ma-ri-a, để rồi qua kinh Mân Côi này, mà Thiên Chúa ban xuống cho chúng ta rất nhiều ơn trọng qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ.
Lý do mà Đức Mẹ Ma-ri-a dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi, không gì khác hơn là Mẹ muốn con cái của Mẹ suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho nhân loại. Bởi vì, qua kinh Mân Côi này, mà người quyền quý cũng như người bình dân, người có học thức cũng như người không có học thức, đều có thể suy tư và cảm nghiệm, rồi từ đó mà diễn tả lại cuộc sống của Đức Chúa Giê-su qua cuộc sống của mình.
Có rất nhiều người được ơn trở lại là nhờ siêng năng đọc kinh Mân Côi, có rất nhiều người được ơn chết lành là nhờ đọc và suy ngắm kinh Mân Côi, và nhờ kinh Mân Côi mà các linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ được ơn bền đỗ trong ơn gọi của mình.
Đức Mẹ Ma-ri-a đã đem hết tình mẫu tử để dạy và khuyên bảo chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, không phải vì Mẹ muốn “chơi nổi” qua mặt Chúa như có người lầm tưởng, nhưng chính nơi chuỗi Mân Côi này, Mẹ dạy chúng ta biết ca ngợi Thiên Chúa bằng kinh Sáng Danh; biết dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Cha trên trời, biết ngợi khen hồng phúc của Mẹ và kêu cầu Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử bằng kinh Kính Mừng, và nhất là biết suy ngắm các mầu nhiệm cứu chuộc loài người của Đức Chúa Giê-su.
B. MẦU NHIỆM KINH MÂN CÔI
Những lần hiện ra ở Fatima cũng như ở Mễ Du, Đức Mẹ Ma-ri-a thường thiết tha kêu gọi nhân loại: hãy hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Chỉ cần con người có tâm tình hoán cải, tức là cải thiện đời sống của mình, thì Mẹ sẽ ban cho họ phương tiện để thực hành sự hoán cải của mình, đó là kinh Mân Côi, còn gọi là chuỗi Mân Côi.
Bất cứ thời đại nào, từ khi Đức Mẹ Ma-ri-a hiện ra và dạy thánh Đa Minh truyền bá kinh Mân Côi trong Giáo Hội, thì các Đức Giáo Hoàng đã tích cực ủng hộ truyền bá và siêng năng lần hạt Mân Côi, coi đó như phương tiện để người tín hữu được đến gần Thiên Chúa hơn. Đức Thánh Cha Gregory XII cũng cho rằng: "Kinh Mân Côi được chính Thánh Đa-minh thiết lập, để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và để cầu xin Rất Thánh Trinh Nữ bầu cử”.
Trong thông diệp “Trong tháng năm (Mense Maio) Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Kinh Mân Côi rất đẹp lòng Đức Mẹ và được các giáo hoàng khuyến khích”, và thánh Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II trong bài giảng ngày 13.5.1982 tại Fatima đã nói: "Lời kêu gọi thống hối bao giờ cũng được gắn liền với cầu nguyện. Hợp với truyền thống của bao thế kỷ, Đức Mẹ của sứ điệp này đã đề cập đến Kinh Mân Côi, một kinh có thể được khẳng định là Kinh của Đức Mẹ Ma-ri-a, một kinh mà Mẹ đặc biệt cảm thấy gắn liền với chúng ta."
Ngoại trừ thánh lễ ra, thì kinh Mân Côi chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người Ki-tô hữu, và thực tế đã chứng minh được điều ấy, khi mà trong các chủng viện, các dòng tu và các tu hội, cũng như các đoàn thể và cá nhân tín hữu đều nô nức yêu mến đọc kinh Mân Côi trong các đoàn thể của mình, và đặc biệt các gia đình công giáo đều không thể thiếu vắng kinh Mân Côi trong gia đình của mình. Kinh Mân Côi mau chóng được các chủ chăn và con cái trong Giáo Hội đón nhận, là vì nó như cái phao cứu hộ cứu được rất nhiều linh hồn khỏi chết đời đời trong hỏa ngục, nó làm cho nhiều người trở về nẻo chính đàng ngay, và nhờ kinh Mân Côi, mà Thiên Chúa ban thêm đức tin cho những người yếu đuối được vững mạnh trong đường trọn lành...
Khi đọc và suy niệm kinh Mân Côi với tất cả tâm hồn, thì cuộc đời của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a khi sống ở trần gian như đoạn phim mầu nhiệm sống động quay lại trước mắt chúng ta, và nhờ đó mà đức tin của chúng ta được tăng trưởng, lòng yêu mến của chúng ta được nhân rộng, và lòng cậy trông của chúng ta được củng cố thêm lên.
--------------------------
NĂM SỰ VUI:
Chiếc phao cứu độ linh hồn.
1. Thiên Thần truyền tin.
Năm sự Vui của kinh Mân Côi nhắc nhở chúng ta suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi Ngài tuyên án con rắn – hình ảnh của ma quỷ và sự dữ- rằng: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn gót nó” (st 3, 14) Và lời hứa này đã thực hiện nơi Đức Mẹ Ma-ri-a –người nữ sẽ đạp đầu con rắn- bởi lòng khiêm tốn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa trong ngày Mẹ được sứ thần truyền tin.
Năm sự Vui của kinh Mân Côi được bắt đầu từ mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a bởi hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ, hai tiếng Xin Vâng này đã làm cho đất trời bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cứu độ, ân sủng và hòa bình mà muôn dân đang trông đợi, và bởi lòng khiêm tốn và luôn đặt mình vào trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nên Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành kho tàng ân sủng của Thiên Chúa –qua Đức Chúa Giê-su- để ban phát cho tất cả những ai nhờ Mẹ để đến với Đức Chúa Giê-su là nguồn mọi ân sủng.
Bởi tiếng Xin Vâng này, mà các thánh trong ngục tổ tông vui mừng, cửa thiên đàng rộng mở và tâm hồn những người công chính như nở hoa, bởi vì ngày cứu độ đã đến rồi.
Bởi tiếng Xin Vâng này mà Đức Mẹ Ma-ri-a được chọn làm Mẹ của Thiên Chúa, như lời của thánh công đồng Va-ti-ca-nô II đã dạy rằng: “Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn cùng thân xác, và đem Sự Sống đến cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế.” ( CĐ Vat. II: “Hiến chế tín lý về Giáo Hội” chương 8, số 53.
)
Và với ưu thế là mẹ Thiên Chúa ấy, mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã không đành lòng nhìn thấy Máu Thánh của Con mình đổ ra vô ích, Mẹ không đành lòng nhìn thấy những đứa con ngày càng đi xuống vực thẳm tội lỗi, Mẹ cũng đã không đành lòng khi thấy thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, nên Mẹ đã ra tay can thiệp với tất cả uy quyền của người mẹ trước tòa Thiên Chúa, để xin Ngài tha tội cho nhân loại. Thánh I-rê-nê đã nói rất chí lý: “Chính Ngài (Đức Mẹ Ma-ri-a), nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”.
“Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng”, sự khiêm nhượng này phải như khiêm nhượng của Đức Mẹ Ma-ri-a, tức là biết nhận ra thánh ý của Thiên Chúa cách minh bạch, và rồi mau mắn đáp trả và phó thác tương lai của mình trong tay Ngài. Con người ta thường có khuynh hướng ưa làm nổi mình dù biết rằng mình chẳng tài cán bao nhiêu, và thích khiêm nhượng kiểu “ống điếu” để người khác chiều chuộng, mời mọc mới có giá trị.v.v..
Như vậy, tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành chiếc phao cứu hộ của cả nhân loại, và khi chúng ta suy niệm đến cái mốc lịch sử này, thì phải nhận ra giá trị vô giá nơi hai tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a.
2. Đi thăm bà Ê-li-sa-bét.
Ơn cứu độ này, niềm vui này cần phải được chia sẻ với mọi người, trước hết là những người trong bà con thân thuộc, rồi sau đó đến với người khác.
Đức Mẹ Ma-ri-a là một phụ nữ nhạy cảm, một người có tâm hồn đang tràn ngập niềm vui thiên quốc và lòng yêu mến tha nhân, cho nên Mẹ đã không quản ngại đường sá xa xôi để đi đến phục vụ cho người chị em của mình là bà Ê-li-sa-bét, bà cũng đang mang thai được sáu tháng (Lc 1, 42),đây là một hành động của người đang có niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui này không thể ấp ủ hưởng thụ một mình, nhưng là cho đi, đem tới và tỏa rộng để chia sẻ với tha nhân, nó như ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi chứ không chiếu sáng một mình ai, và đó chính là điểm bắt đầu của niềm vui cứu độ.
Trước mắt chúng ta là cảnh bà Ê-li-sa-bét ngạc nhiên và vui mừng tột cùng khi Đức Mẹ Ma-ri-a đến viếng thăm, bà ôm chầm lấy người em gái họ dễ thương và như có một sự thôi thúc đặc biệt tự trong tâm, bà đã thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 26a), sự thôi thúc ấy chính là Đức Chúa Thánh Thần đã dùng môi miệng của bà Ê-lia-sa-bét để ca ngợi hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ Ma-ri-a. Nhưng quan trọng hơn cả lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét, là lời chào của Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm cho thai nhi sáu tháng tuổi trong bụng bà Ê-li-sa-bét cảm nghiệm được ơn cứu độ của Thiên Chúa đã ưu ái đến mình nên mừng vui nhảy lên sung sướng, và hiệu quả của lời chào này là thai nhi –Gioan Tẩy Giả- được diễm phúc đón mừng Chúa Cứu Thế khi còn trong bụng mẹ.
Cuộc thăm viếng lịch sử này của Đức Mẹ Ma-ri-a là chiếc phao cứu độ cho thánh Gioan Tẩy Giả, là đem niềm vui và hạnh phúc đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Cuộc thăm viếng này, có thể nói là Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm người tiên phong trong việc loan báo tin mừng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, chỉ có điều là có người được đón nhận trước và có người đón nhận sau, nhưng tất cả những ai đã diễm phúc đón nhận ơn cứu độ này, thì noi gương của Đức Mẹ Ma-ri-a ra đi, đến với và đến cùng tha nhân, để giới thiệu cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa ngay chính trong cuộc sống của mình.
3. Sinh hạ Đức Chúa Giê-su.
Ngày tháng trông đợi Đấng Thiên Sai đến của người Do Thái thật dài đăng đẳng, biết bao nhiêu người đã qua đi khi trong lòng họ mong mỏi được nhìn thấy Đấng Cứu Thế, nhưng dù không đợi chờ được thì họ vẫn cảm thấy thỏa lòng vì lời hứa ấy vẫn luôn được các tiên tri loan báo qua các thời đại, nhất là tiên tri I-sai-a, vị tiên tri khoảng hơn sáu trăm năm trước Đức Chúa Giê-su sinh ra đã loan báo niềm hy vọng và ngày cứu rỗi đến:
- “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1).
- Vì một trẻ thơ đã chào đời đã cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 0, 5).
- Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa...”. (Is 11, 1-9)
- “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45, 8).
- Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” (Is 7, 14b)
Và cuộc đợi chờ nào cũng sẽ có hồi kết thúc, Đức Chúa Giê-su đã được Đức Mẹ Ma-ri-a sinh hạ trong hang lừa ở thành Bê-lem, làng Na-da-rét, xứ Pa-lét-tin.
Mầu nhiệm nhập thế này là cả một công trình sáng tạo của yêu thương, mà không có một kiến trúc sư nào trên thế gian thiết kế được, chỉ có Thiên Chúa –Đấng là tình yêu- mới làm được như thế: hy sinh Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại.
Nơi hang lừa Bê-lem, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người, một hài nhi nhỏ bé nghèo nàn, đang được bọc trong khăn (bởi vì không có áo), đang chia sẻ thân phận nghèo khó với những con người nghèo khó, cả tình yêu trời đất đang ở đó, Đấng cứu độ nhân loại đang ở đó nhưng nào có ai hay ! Đức Mẹ Ma-ri-a hiểu thấu sự thiếu thốn này như là một sự chia sẻ của con mình với nhân loại, và như thế càng làm nổi bật tính “đồng công” cứu chuộc nơi Mẹ hơn.
Nhưng sự nghèo khó thiếu thốn của Mẹ không làm chùn bước các mục đồng đến thờ lạy, không làm cho các nhà bác học xa xôi đến bái thờ Đấng Cứu Thế mới sinh ra...
Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta đọc kinh Mân Côi và suy ngắm mầu nhiệm Nhập Thế này, không phải để chúng ta cảm thấy tội nghiệp cho Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ, nhưng là để chúng ta thấy được tình yêu vô biên của Cha trên trời –qua kinh Mân Côi- và nhận ra rằng, Đức Chúa Giê-su chính là Đấng cứu độ nhân loại, là chiếc phao cứu rỗi các linh hồn đang chới với giữa biển trần gian...
4. Dâng Đức Chúa Giê-su trong đền thánh.
Một cái mốc quan trọng nữa trong mầu nhiệm Nhập Thế của kinh Mân Côi –năm sự Vui- đó là suy ngắm đến Đức Chúa Giê-su khi mang thân phận con người như chúng ta, chịu lệ thuộc vào lề luật của con người như tất cả mọi người khác, đó là luật dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa như luật Mô-sê chỉ định: “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa.” (Lc 2, 23)
Đức Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se là những người công chính thánh thiện, luôn là mẫu gương tuân giữ lề luật của cha ông mà dâng con trai đầu lòng của mình cho Thiên Chúa, dù nghèo, nhưng không vì thế mà chuẩn chước cho mình khỏi tuân giữ lề luật, bởi vì các ngài biết rằng, tuân giữ lề luật là thực hành ý Chúa truyền dạy.
Trong ngày dâng Chúa trong đền thánh này, mọi việc liên quan đến Đức Chúa Giê-su mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã biết, thì giờ đây được bày tỏ công khai với mọi người qua lời tiên báo của một người công chính và sùng đạo là Si-mê-on:
“Muôn lây Chúa, giờ đây
Theo lời Ngài đã hứa,
Xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
Là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài.” (Lc 2, 29-32)
Ông già Si-mê-on là đại biểu cho những người Do Thái công chính mong đợi Đấng Cứu Thế, sự mong đợi này Thiên Chúa đã tỏ mình đặc biệt cho ông thấy nhãn tiền Hài Nhi mà ông đang ẳm trên tay chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm, và Chúa Thánh Thần đã qua miệng ông đã nói với Đức Mẹ Ma-ri-a rằng: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà...” (Lc 2, 34)
Dâng con cho Thiên Chúa, thay vì nhận được những lời chúc phúc thì lại nghe những lời tiên báo về tương lai của con mình và chính mình, người mẹ nào lại không buồn bả lo âu, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng thế, Mẹ lo âu buồn bả vì lời tiên đoán thì ít, mà vì tội lỗi của loài người thì nhiều, và lời tiên báo này hiệu nghiệm khi Mẹ đứng dưới chân thập giá để cùng đồng công cứu chuộc nhân loại với con mình khi một lưỡi đòng đâm thâu cạnh nương long Đức Chúa Giê-su, thì đồng thời cũng có một lưỡi gươm sắc bén thiêng liêng đâm thâu qua Trái Tim cực thánh của Mẹ...
Lần hiện ra ở Fatima với ba trẻ, Đức Mẹ Ma-ri-a đã cho các em thấy được sự khốn nạn của hỏa ngục và những linh hồn bị giam cầm trong đó, và Mẹ không muốn một đứa con nào của Mẹ đã được Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su đổ ra để rửa sạch, tha thứ và ban ơn phải vào trong hỏa ngục chịu hình phạt đời đời nữa, nên Mẹ đã nhiều lần và nhiều cách hiện ra nhắn nhủ nhắc nhở và dạy bảo hãy ăn năn đền tội và cải thiện đời sống. Đời sống mà ngay từ khi đón nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta đã trở nên con của Thiên Chúa, được trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần và đương nhiên là đón nhận chính cuộc sống của Đức Chúa Giê-su vào trong cuộc sống đời thường của mình.
Dâng Đức Chúa Giê-su vào đền thánh, một cái mốc lịch sử của ơn cứu độ, khi suy niệm điều này, Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta hãy dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa, để Ngài làm chủ chiếm trọn lấy linh hồn và thân xác của mình, và chỉ có những ai thành tâm dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa thì như người trôi nổi phiêu bạt long đong trên biển cả nắm được cái phao cứu hộ, họ sẽ được sống và sống đời đời với Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Đức Mẹ Ma-ri-a, các thiên thần và các thánh nam nữ.
5. Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ.
Em thân mến,
Nếu chẳng may em đánh mất một chiếc nhẫn kim cương quý giá mà tìm lại được, thì niềm vui của em sẽ không bút nào tả xiết; nhưng nếu chẳng may em mất đi người thân yêu, thì nỗi buồn sẽ tăng gấp nhiều lần, bởi vì em không bao giờ được gặp lại người thân yêu đã ra đi nữa.
Đức Chúa Giê-su là con duy nhất của Đức Mẹ Ma-ri-a, là cả kho tàng yêu thương và hạnh phúc của Mẹ và thánh cả Giu-se, lạc mất Đức Chúa Giê-su cũng có nghĩa là Mẹ đã mất cả hạnh phúc của cả đời mình, Mẹ buồn lắm và cùng với thánh cả Giu-se tất tả tìm kiếm khắp nơi như lời tường thuật của thánh sử Lu-ca: “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết, ông bà cứ tưởng cậu là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người thân thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.” (Lc 2, 43-45)
Lòng dạ của người mẹ khi lạc mất con thì như có lửa đốt cháy, nóng bừng và rối bời bời, bà chạy khắp nơi hỏi han người này người nọ để coi có ai biết tung tích con mình không ? Đức Mẹ Ma-ri-a cũng vậy, ba ngày tìm kiếm con là ba ngày Mẹ như sống trên lửa cho đến khi tìm gặp lại Đức Chúa Giê-su ở trong đền thờ ngồi giữa các thầy thông thái mà trò chuyện, và ai nghe Ngài nói cũng đều thán phục trí thông minh và những lời đối đáp của Ngài (Lc 2, 46-48). Không có niềm vui nào sánh bằng khi tìm lại được con mình sau ba ngày lạc mất, Đức Mẹ Ma-ri-a vừa vui mừng vùa suy nghĩ những việc vừa xảy ra để chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa, để chuẩn bị chia sẻ và đón chịu những nổi buồn lớn hơn sau này, khi Đức Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.
Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta suy niệm về việc tìm lại được Đức Chúa Giê-su trong đền thánh của Mẹ và của thánh cả Giu-se, là để chúng ta nhìn lại bản thân mình, đã bao lần chúng ta lạc mất Đức Chúa Giê-su, đã bao lần chúng ta lạc đường chính lộ, đã bao lần chúng ta đã vì sự thế phù vân mà lạc mất đường về với tình yêu của Cha trên trời ?
Mẹ mời gọi mọi người chúng ta hãy trở về nẻo chính đường ngay, tức là cải thiện cách sống của mình cho phù hợp lời dạy của Đức Chúa Giê-su. Đã có nhiều linh hồn cố chấp trước lời mời gọi thiết tha của Mẹ nên đã bị hình phạt hỏa ngục, đã có nhiều người biết mình lạc mất phương hướng trong đời sống tu đức, nhưng vẫn cố chấp kiêu ngạo không sửa đổi, nên đã bị án phạt đời đời trong hỏa ngục như các linh hồn mà ba trẻ ở Fatima đã được Đức Mẹ Ma-ri-a cho thấy.
Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ là một niềm vui và là một bài học cho chúng ta, Đức Mẹ Ma-ri-a đã lo âu khi Đức Chúa Giê-su lạc mất thế nào, thì Mẹ cũng lo âu khi chúng ta lạc mất Ngài như vậy, đó là niềm hy vọng và là niềm vui của những người con tội lỗi là chúng ta. Mau mắn trở về với Chúa và từ bỏ con đường lầm lạc để trở lại con đường mà Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a đã đi qua, đó là con đường hẹp, đường lên núi Sọ, đường đưa đến hạnh phúc đời đời.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------
http://www.vietcatholic.net
A. KINH MÂN CÔI LÀ LỜI TÂM TÌNH CỦA MẸ.
Khi hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, Đức Mẹ Ma-ri-a đã bày tỏ nổi lòng yêu mến nhân loại và đau khổ trước những tội lỗi mà nhân loại đang xúc phạm đến Thiên Chúa. Và chính Mẹ -chứ không ai khác- hiểu rất rõ sự công bằng của Thiên Chúa, sự công bằng này luôn nghiêng về phía yêu thương nhân loại mà Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ loài người, thế nhưng Thiên Chúa yêu thương càng nhiều, thì nhân loại càng gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Vì vậy, Đức Mẹ Ma-ri-a chính là nơi để chúng ta –nhân loại tội lỗi- trú ẩn trước cơn thịnh nộ bởi sự công bằng của Thiên Chúa.
Nỗi lòng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trãi ra khi nói với em bé Lucia: “Các con hãy cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi và hãy tôn sùng trái tim Mẹ”.
Chính những lời nói phát xuất từ miệng của người mẹ cao cả này mà Giáo Hội tin tưởng rằng: sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa không còn bao lâu nữa, nên ngày càng thôi thúc chúng ta hãy thực hiện gấp ba mệnh lệnh và cũng là ba lời tâm tình của Đức Mẹ Ma-ri-a:
Lời tâm tình thứ nhất: Hãy cải thiện đời sống.
Không một người mẹ nào hãnh diện với hàng xóm khi có đứa con đi bụi đời, thành tích bất hảo đếm không nổi; không có người mẹ nào nở được nụ cười, khi con cái mình ngày càng hư đốn không nghe lời dạy bảo.
Đức Mẹ Ma-ri-a là mẹ của chúng ta, Mẹ không thể nào nhắm mắt làm ngơ khi sự kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, mà nhân loại vẫn cứ ngày càng sống trong đêm tối của tội lỗi; Mẹ cũng không thể một mình giúp nhân loại nếu nhân loại chúng ta không cộng tác với Mẹ, bởi vì nhân loại ngày càng lợi dụng tình yêu của Thiên Chúa ban cho để phủ nhận Ngài, lợi dụng sự tự do để làm tất cả những gì mà tính ích kỷ của con người đòi hỏi, kể cả những công việc mà ngay chính lương tâm của họ cũng lên án như giết người, phá thai và bốc lột người nghèo.v.v...
Mẹ, như người mẹ đau khổ vì những đứa con là nhân loại tội lỗi, Mẹ đang nhờ những em nhỏ bé đơn sơ ở làng Fatima để nhắc nhở nhân loại: hãy cải thiện đời sống.
Cải thiện đời sống tức là thay đổi cuộc sống của mình từ xấu qua tốt, từ gian ác qua thánh thiện, từ gian dối qua thật thà, từ ghen ghét qua yêu thương, từ ích kỷ qua quảng đại, tắt một lời là thay đổi cách sống của mình để ngày càng trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn, đó chính là điều mà Mẹ muốn mỗi người trong chúng ta phải thực hiện trước khi cơn thịnh nộ vì sự công bằng của Thiên Chúa đến.
Lời tâm tình yêu thương chứa đựng sự van nài của Đức Mẹ Ma-ri-a đến nay vẫn còn vang dội trên khắp thế giới. Chỉ có thay đổi cuộc sống của mình thì hòa bình sẽ đến, và chỉ có thay đổi cuộc sống của mình đề sống Lời Chúa thì mới có thể kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, và như thế cũng có nghĩa là Nước Trời thật sự đang hiện diện ở trần gian này.
Lời tâm tình thứ hai: Yêu mến Trái Tim Mẹ.
Đức Chúa Giê-su khi còn là bào thai trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a, thì mỗi nhịp đập tim của Mẹ là một nhịp sống của Ngài, mỗi một hơi thở của Mẹ là một động lực thúc đẩy Ngài từng giây phút lớn lên. Mẹ đã chia sẻ phần máu thịt của mình để làm nên hình hài của Đức Chúa Giê-su, và hơn ai hết, Đức Chúa Giê-su hiểu rất rõ, cảm nghiệm sâu sắc tình mẫu tử của Đức Mẹ Ma-ri-a đối với Ngài và với nhân loại. Tình mẫu tử này đã được thể hiện trên đồi Can-vê trước giờ hấp hối, Phúc Âm của thánh Gioan thuật lại rằng:”Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh. Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”(Ga 19, 26-27).
Yêu mến Mẫu Tâm Đức Mẹ Ma-ri-a là chúng ta yêu mến Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su, cả hai trái tim này đều vì nhân loại mà chịu đau khổ.
Trái tim Đức Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu để giọt máu yêu thương nhân loại cuối cùng trong tim chảy ra cho hết, để nước nơi cạnh sườn Ngài chảy ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Một trái tim của Đức Mẹ Ma-ri-a bị bảy lưỡi dao sắc đâm thâu, khiến mẹ trở nên người mẹ đồng công cứu chuộc nhân loại với con của mình là Đức Chúa Giê-su, hai trái tim đồng nhịp yêu thương vì nhân loại tội lỗi bất trung.
Yêu mến Trái Tim Mẹ là bởi vì trái tim ấy rất yêu mến loài người, đã hy sinh tất cả vì loài người, hy sinh ngay cả người con độc nhất để cứu chuộc loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để xoa dịu nỗii đau khổ của Thiên Chúa và của Mẹ vẫn còn đang chịu hằng ngày vì tội lỗi của loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để chúng ta biết yêu mến Đức Chúa Giê-su hơn khi hiệp thông với những đau khổ của Ngài phải chịu vì chúng ta.Một người mẹ chịu quá nhiều đau khổ thì không than trách với ai cả, mà chỉ thầm thỉ với những đứa con nhỏ bé đơn sơ của mình mà thôi. Đức Mẹ Ma-ri-a như người mẹ hiền đau khổ vì những đứa con ngỗ nghịch đã bày tỏ tâm tình với ba trẻ ở làng Fatima, bằng cách cho ba em biết những bí mật của Giáo Hội mà vị đại diện Đức Chúa Giê-su ở trần gian là Đức Giáo Hoàng phải chịu đau khổ, và nhân loại phải chịu vì những tai ươn do chính tội lỗi của mình mang đến: chiến tranh, ôn dịch, đói khát.v.v...
Yêu mến Trái Tim Mẹ, không phải chỉ là đọc kinh sáng tối, hay là đọc kinh Mân Côi cho thật nhiều mà không muốn thực hành lời Mẹ dạy là ăn ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, nhưng yêu mến Trái Tim Mẹ chính là đem con tim của mình đi yêu thương và chia sẻ những đau khổ của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a nơi những người khác, để đền bù tội lỗi của mình và để kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lời tâm tình thứ ba: Siêng năng lần hạt Mân Côi.
Không có vị thánh nào mà không yêu mến chuỗi Mân Côi, cũng có nghĩa là nói: không có vị thánh nào mà không yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a, chính lòng yêu mến Đức Mẹ mà các thánh siêng năng lần hạt Mân Côi, bởi vì các ngài biết rằng, chuỗi Mân Côi là phương thế hữu hiệu mà đơn sơ nhất để được đến gần với Thiên Chúa, bởi vì nơi kinh Mân Côi này, các ngài nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài không những nhờ công nghiệp của Đức Chúa Giê-su, mà còn nhờ sự vui lòng cộng tác vào ơn cứu độ ấy của Đức Mẹ Ma-ri-a.
Chuỗi Mân Côi, như các nhà thần học nói, chính là sách Phúc Âm rút gọn lại những mốc chính của cuộc đời Đức Chúa Giê-su khi ở trần gian này, mà Giáo Hội –qua mọi thời đại- đã suy tư chiêm ngắm và chia làm hai mươi “mốc” quan trọng: từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, cho đến khi Đức Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác. Hai mươi mốc lịch sử này, chúng ta gọi là hai mươi mầu nhiệm kinh Mân Côi, và như là hai mươi đóa hoa hồng mà Giáo Hội kính dâng tặng cho Đức Mẹ Ma-ri-a, để rồi qua kinh Mân Côi này, mà Thiên Chúa ban xuống cho chúng ta rất nhiều ơn trọng qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ.
Lý do mà Đức Mẹ Ma-ri-a dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi, không gì khác hơn là Mẹ muốn con cái của Mẹ suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho nhân loại. Bởi vì, qua kinh Mân Côi này, mà người quyền quý cũng như người bình dân, người có học thức cũng như người không có học thức, đều có thể suy tư và cảm nghiệm, rồi từ đó mà diễn tả lại cuộc sống của Đức Chúa Giê-su qua cuộc sống của mình.
Có rất nhiều người được ơn trở lại là nhờ siêng năng đọc kinh Mân Côi, có rất nhiều người được ơn chết lành là nhờ đọc và suy ngắm kinh Mân Côi, và nhờ kinh Mân Côi mà các linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ được ơn bền đỗ trong ơn gọi của mình.
Đức Mẹ Ma-ri-a đã đem hết tình mẫu tử để dạy và khuyên bảo chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, không phải vì Mẹ muốn “chơi nổi” qua mặt Chúa như có người lầm tưởng, nhưng chính nơi chuỗi Mân Côi này, Mẹ dạy chúng ta biết ca ngợi Thiên Chúa bằng kinh Sáng Danh; biết dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Cha trên trời, biết ngợi khen hồng phúc của Mẹ và kêu cầu Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử bằng kinh Kính Mừng, và nhất là biết suy ngắm các mầu nhiệm cứu chuộc loài người của Đức Chúa Giê-su.
B. MẦU NHIỆM KINH MÂN CÔI
Những lần hiện ra ở Fatima cũng như ở Mễ Du, Đức Mẹ Ma-ri-a thường thiết tha kêu gọi nhân loại: hãy hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Chỉ cần con người có tâm tình hoán cải, tức là cải thiện đời sống của mình, thì Mẹ sẽ ban cho họ phương tiện để thực hành sự hoán cải của mình, đó là kinh Mân Côi, còn gọi là chuỗi Mân Côi.
Bất cứ thời đại nào, từ khi Đức Mẹ Ma-ri-a hiện ra và dạy thánh Đa Minh truyền bá kinh Mân Côi trong Giáo Hội, thì các Đức Giáo Hoàng đã tích cực ủng hộ truyền bá và siêng năng lần hạt Mân Côi, coi đó như phương tiện để người tín hữu được đến gần Thiên Chúa hơn. Đức Thánh Cha Gregory XII cũng cho rằng: "Kinh Mân Côi được chính Thánh Đa-minh thiết lập, để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và để cầu xin Rất Thánh Trinh Nữ bầu cử”.
Trong thông diệp “Trong tháng năm (Mense Maio) Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Kinh Mân Côi rất đẹp lòng Đức Mẹ và được các giáo hoàng khuyến khích”, và thánh Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II trong bài giảng ngày 13.5.1982 tại Fatima đã nói: "Lời kêu gọi thống hối bao giờ cũng được gắn liền với cầu nguyện. Hợp với truyền thống của bao thế kỷ, Đức Mẹ của sứ điệp này đã đề cập đến Kinh Mân Côi, một kinh có thể được khẳng định là Kinh của Đức Mẹ Ma-ri-a, một kinh mà Mẹ đặc biệt cảm thấy gắn liền với chúng ta."
Ngoại trừ thánh lễ ra, thì kinh Mân Côi chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người Ki-tô hữu, và thực tế đã chứng minh được điều ấy, khi mà trong các chủng viện, các dòng tu và các tu hội, cũng như các đoàn thể và cá nhân tín hữu đều nô nức yêu mến đọc kinh Mân Côi trong các đoàn thể của mình, và đặc biệt các gia đình công giáo đều không thể thiếu vắng kinh Mân Côi trong gia đình của mình. Kinh Mân Côi mau chóng được các chủ chăn và con cái trong Giáo Hội đón nhận, là vì nó như cái phao cứu hộ cứu được rất nhiều linh hồn khỏi chết đời đời trong hỏa ngục, nó làm cho nhiều người trở về nẻo chính đàng ngay, và nhờ kinh Mân Côi, mà Thiên Chúa ban thêm đức tin cho những người yếu đuối được vững mạnh trong đường trọn lành...
Khi đọc và suy niệm kinh Mân Côi với tất cả tâm hồn, thì cuộc đời của Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a khi sống ở trần gian như đoạn phim mầu nhiệm sống động quay lại trước mắt chúng ta, và nhờ đó mà đức tin của chúng ta được tăng trưởng, lòng yêu mến của chúng ta được nhân rộng, và lòng cậy trông của chúng ta được củng cố thêm lên.
--------------------------
NĂM SỰ VUI:
Chiếc phao cứu độ linh hồn.
1. Thiên Thần truyền tin.
Năm sự Vui của kinh Mân Côi nhắc nhở chúng ta suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi Ngài tuyên án con rắn – hình ảnh của ma quỷ và sự dữ- rằng: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn gót nó” (st 3, 14) Và lời hứa này đã thực hiện nơi Đức Mẹ Ma-ri-a –người nữ sẽ đạp đầu con rắn- bởi lòng khiêm tốn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa trong ngày Mẹ được sứ thần truyền tin.
Năm sự Vui của kinh Mân Côi được bắt đầu từ mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ Ma-ri-a bởi hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ, hai tiếng Xin Vâng này đã làm cho đất trời bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cứu độ, ân sủng và hòa bình mà muôn dân đang trông đợi, và bởi lòng khiêm tốn và luôn đặt mình vào trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nên Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành kho tàng ân sủng của Thiên Chúa –qua Đức Chúa Giê-su- để ban phát cho tất cả những ai nhờ Mẹ để đến với Đức Chúa Giê-su là nguồn mọi ân sủng.
Bởi tiếng Xin Vâng này, mà các thánh trong ngục tổ tông vui mừng, cửa thiên đàng rộng mở và tâm hồn những người công chính như nở hoa, bởi vì ngày cứu độ đã đến rồi.
Bởi tiếng Xin Vâng này mà Đức Mẹ Ma-ri-a được chọn làm Mẹ của Thiên Chúa, như lời của thánh công đồng Va-ti-ca-nô II đã dạy rằng: “Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn cùng thân xác, và đem Sự Sống đến cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế.” ( CĐ Vat. II: “Hiến chế tín lý về Giáo Hội” chương 8, số 53.
)
Và với ưu thế là mẹ Thiên Chúa ấy, mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã không đành lòng nhìn thấy Máu Thánh của Con mình đổ ra vô ích, Mẹ không đành lòng nhìn thấy những đứa con ngày càng đi xuống vực thẳm tội lỗi, Mẹ cũng đã không đành lòng khi thấy thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa sắp hết, nên Mẹ đã ra tay can thiệp với tất cả uy quyền của người mẹ trước tòa Thiên Chúa, để xin Ngài tha tội cho nhân loại. Thánh I-rê-nê đã nói rất chí lý: “Chính Ngài (Đức Mẹ Ma-ri-a), nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”.
“Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng”, sự khiêm nhượng này phải như khiêm nhượng của Đức Mẹ Ma-ri-a, tức là biết nhận ra thánh ý của Thiên Chúa cách minh bạch, và rồi mau mắn đáp trả và phó thác tương lai của mình trong tay Ngài. Con người ta thường có khuynh hướng ưa làm nổi mình dù biết rằng mình chẳng tài cán bao nhiêu, và thích khiêm nhượng kiểu “ống điếu” để người khác chiều chuộng, mời mọc mới có giá trị.v.v..
Như vậy, tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở thành chiếc phao cứu hộ của cả nhân loại, và khi chúng ta suy niệm đến cái mốc lịch sử này, thì phải nhận ra giá trị vô giá nơi hai tiếng Xin Vâng của Đức Mẹ Ma-ri-a.
2. Đi thăm bà Ê-li-sa-bét.
Ơn cứu độ này, niềm vui này cần phải được chia sẻ với mọi người, trước hết là những người trong bà con thân thuộc, rồi sau đó đến với người khác.
Đức Mẹ Ma-ri-a là một phụ nữ nhạy cảm, một người có tâm hồn đang tràn ngập niềm vui thiên quốc và lòng yêu mến tha nhân, cho nên Mẹ đã không quản ngại đường sá xa xôi để đi đến phục vụ cho người chị em của mình là bà Ê-li-sa-bét, bà cũng đang mang thai được sáu tháng (Lc 1, 42),đây là một hành động của người đang có niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui này không thể ấp ủ hưởng thụ một mình, nhưng là cho đi, đem tới và tỏa rộng để chia sẻ với tha nhân, nó như ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi chứ không chiếu sáng một mình ai, và đó chính là điểm bắt đầu của niềm vui cứu độ.
Trước mắt chúng ta là cảnh bà Ê-li-sa-bét ngạc nhiên và vui mừng tột cùng khi Đức Mẹ Ma-ri-a đến viếng thăm, bà ôm chầm lấy người em gái họ dễ thương và như có một sự thôi thúc đặc biệt tự trong tâm, bà đã thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 26a), sự thôi thúc ấy chính là Đức Chúa Thánh Thần đã dùng môi miệng của bà Ê-lia-sa-bét để ca ngợi hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ Ma-ri-a. Nhưng quan trọng hơn cả lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét, là lời chào của Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm cho thai nhi sáu tháng tuổi trong bụng bà Ê-li-sa-bét cảm nghiệm được ơn cứu độ của Thiên Chúa đã ưu ái đến mình nên mừng vui nhảy lên sung sướng, và hiệu quả của lời chào này là thai nhi –Gioan Tẩy Giả- được diễm phúc đón mừng Chúa Cứu Thế khi còn trong bụng mẹ.
Cuộc thăm viếng lịch sử này của Đức Mẹ Ma-ri-a là chiếc phao cứu độ cho thánh Gioan Tẩy Giả, là đem niềm vui và hạnh phúc đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Cuộc thăm viếng này, có thể nói là Đức Mẹ Ma-ri-a đã làm người tiên phong trong việc loan báo tin mừng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, chỉ có điều là có người được đón nhận trước và có người đón nhận sau, nhưng tất cả những ai đã diễm phúc đón nhận ơn cứu độ này, thì noi gương của Đức Mẹ Ma-ri-a ra đi, đến với và đến cùng tha nhân, để giới thiệu cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa ngay chính trong cuộc sống của mình.
3. Sinh hạ Đức Chúa Giê-su.
Ngày tháng trông đợi Đấng Thiên Sai đến của người Do Thái thật dài đăng đẳng, biết bao nhiêu người đã qua đi khi trong lòng họ mong mỏi được nhìn thấy Đấng Cứu Thế, nhưng dù không đợi chờ được thì họ vẫn cảm thấy thỏa lòng vì lời hứa ấy vẫn luôn được các tiên tri loan báo qua các thời đại, nhất là tiên tri I-sai-a, vị tiên tri khoảng hơn sáu trăm năm trước Đức Chúa Giê-su sinh ra đã loan báo niềm hy vọng và ngày cứu rỗi đến:
- “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1).
- Vì một trẻ thơ đã chào đời đã cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 0, 5).
- Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa...”. (Is 11, 1-9)
- “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45, 8).
- Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” (Is 7, 14b)
Và cuộc đợi chờ nào cũng sẽ có hồi kết thúc, Đức Chúa Giê-su đã được Đức Mẹ Ma-ri-a sinh hạ trong hang lừa ở thành Bê-lem, làng Na-da-rét, xứ Pa-lét-tin.
Mầu nhiệm nhập thế này là cả một công trình sáng tạo của yêu thương, mà không có một kiến trúc sư nào trên thế gian thiết kế được, chỉ có Thiên Chúa –Đấng là tình yêu- mới làm được như thế: hy sinh Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại.
Nơi hang lừa Bê-lem, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người, một hài nhi nhỏ bé nghèo nàn, đang được bọc trong khăn (bởi vì không có áo), đang chia sẻ thân phận nghèo khó với những con người nghèo khó, cả tình yêu trời đất đang ở đó, Đấng cứu độ nhân loại đang ở đó nhưng nào có ai hay ! Đức Mẹ Ma-ri-a hiểu thấu sự thiếu thốn này như là một sự chia sẻ của con mình với nhân loại, và như thế càng làm nổi bật tính “đồng công” cứu chuộc nơi Mẹ hơn.
Nhưng sự nghèo khó thiếu thốn của Mẹ không làm chùn bước các mục đồng đến thờ lạy, không làm cho các nhà bác học xa xôi đến bái thờ Đấng Cứu Thế mới sinh ra...
Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta đọc kinh Mân Côi và suy ngắm mầu nhiệm Nhập Thế này, không phải để chúng ta cảm thấy tội nghiệp cho Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ, nhưng là để chúng ta thấy được tình yêu vô biên của Cha trên trời –qua kinh Mân Côi- và nhận ra rằng, Đức Chúa Giê-su chính là Đấng cứu độ nhân loại, là chiếc phao cứu rỗi các linh hồn đang chới với giữa biển trần gian...
4. Dâng Đức Chúa Giê-su trong đền thánh.
Một cái mốc quan trọng nữa trong mầu nhiệm Nhập Thế của kinh Mân Côi –năm sự Vui- đó là suy ngắm đến Đức Chúa Giê-su khi mang thân phận con người như chúng ta, chịu lệ thuộc vào lề luật của con người như tất cả mọi người khác, đó là luật dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa như luật Mô-sê chỉ định: “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa.” (Lc 2, 23)
Đức Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se là những người công chính thánh thiện, luôn là mẫu gương tuân giữ lề luật của cha ông mà dâng con trai đầu lòng của mình cho Thiên Chúa, dù nghèo, nhưng không vì thế mà chuẩn chước cho mình khỏi tuân giữ lề luật, bởi vì các ngài biết rằng, tuân giữ lề luật là thực hành ý Chúa truyền dạy.
Trong ngày dâng Chúa trong đền thánh này, mọi việc liên quan đến Đức Chúa Giê-su mà Đức Mẹ Ma-ri-a đã biết, thì giờ đây được bày tỏ công khai với mọi người qua lời tiên báo của một người công chính và sùng đạo là Si-mê-on:
“Muôn lây Chúa, giờ đây
Theo lời Ngài đã hứa,
Xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
Là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài.” (Lc 2, 29-32)
Ông già Si-mê-on là đại biểu cho những người Do Thái công chính mong đợi Đấng Cứu Thế, sự mong đợi này Thiên Chúa đã tỏ mình đặc biệt cho ông thấy nhãn tiền Hài Nhi mà ông đang ẳm trên tay chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm, và Chúa Thánh Thần đã qua miệng ông đã nói với Đức Mẹ Ma-ri-a rằng: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà...” (Lc 2, 34)
Dâng con cho Thiên Chúa, thay vì nhận được những lời chúc phúc thì lại nghe những lời tiên báo về tương lai của con mình và chính mình, người mẹ nào lại không buồn bả lo âu, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng thế, Mẹ lo âu buồn bả vì lời tiên đoán thì ít, mà vì tội lỗi của loài người thì nhiều, và lời tiên báo này hiệu nghiệm khi Mẹ đứng dưới chân thập giá để cùng đồng công cứu chuộc nhân loại với con mình khi một lưỡi đòng đâm thâu cạnh nương long Đức Chúa Giê-su, thì đồng thời cũng có một lưỡi gươm sắc bén thiêng liêng đâm thâu qua Trái Tim cực thánh của Mẹ...
Lần hiện ra ở Fatima với ba trẻ, Đức Mẹ Ma-ri-a đã cho các em thấy được sự khốn nạn của hỏa ngục và những linh hồn bị giam cầm trong đó, và Mẹ không muốn một đứa con nào của Mẹ đã được Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su đổ ra để rửa sạch, tha thứ và ban ơn phải vào trong hỏa ngục chịu hình phạt đời đời nữa, nên Mẹ đã nhiều lần và nhiều cách hiện ra nhắn nhủ nhắc nhở và dạy bảo hãy ăn năn đền tội và cải thiện đời sống. Đời sống mà ngay từ khi đón nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta đã trở nên con của Thiên Chúa, được trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần và đương nhiên là đón nhận chính cuộc sống của Đức Chúa Giê-su vào trong cuộc sống đời thường của mình.
Dâng Đức Chúa Giê-su vào đền thánh, một cái mốc lịch sử của ơn cứu độ, khi suy niệm điều này, Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta hãy dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa, để Ngài làm chủ chiếm trọn lấy linh hồn và thân xác của mình, và chỉ có những ai thành tâm dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa thì như người trôi nổi phiêu bạt long đong trên biển cả nắm được cái phao cứu hộ, họ sẽ được sống và sống đời đời với Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Đức Mẹ Ma-ri-a, các thiên thần và các thánh nam nữ.
5. Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ.
Em thân mến,
Nếu chẳng may em đánh mất một chiếc nhẫn kim cương quý giá mà tìm lại được, thì niềm vui của em sẽ không bút nào tả xiết; nhưng nếu chẳng may em mất đi người thân yêu, thì nỗi buồn sẽ tăng gấp nhiều lần, bởi vì em không bao giờ được gặp lại người thân yêu đã ra đi nữa.
Đức Chúa Giê-su là con duy nhất của Đức Mẹ Ma-ri-a, là cả kho tàng yêu thương và hạnh phúc của Mẹ và thánh cả Giu-se, lạc mất Đức Chúa Giê-su cũng có nghĩa là Mẹ đã mất cả hạnh phúc của cả đời mình, Mẹ buồn lắm và cùng với thánh cả Giu-se tất tả tìm kiếm khắp nơi như lời tường thuật của thánh sử Lu-ca: “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết, ông bà cứ tưởng cậu là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người thân thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.” (Lc 2, 43-45)
Lòng dạ của người mẹ khi lạc mất con thì như có lửa đốt cháy, nóng bừng và rối bời bời, bà chạy khắp nơi hỏi han người này người nọ để coi có ai biết tung tích con mình không ? Đức Mẹ Ma-ri-a cũng vậy, ba ngày tìm kiếm con là ba ngày Mẹ như sống trên lửa cho đến khi tìm gặp lại Đức Chúa Giê-su ở trong đền thờ ngồi giữa các thầy thông thái mà trò chuyện, và ai nghe Ngài nói cũng đều thán phục trí thông minh và những lời đối đáp của Ngài (Lc 2, 46-48). Không có niềm vui nào sánh bằng khi tìm lại được con mình sau ba ngày lạc mất, Đức Mẹ Ma-ri-a vừa vui mừng vùa suy nghĩ những việc vừa xảy ra để chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa, để chuẩn bị chia sẻ và đón chịu những nổi buồn lớn hơn sau này, khi Đức Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.
Đức Mẹ Ma-ri-a mời gọi chúng ta suy niệm về việc tìm lại được Đức Chúa Giê-su trong đền thánh của Mẹ và của thánh cả Giu-se, là để chúng ta nhìn lại bản thân mình, đã bao lần chúng ta lạc mất Đức Chúa Giê-su, đã bao lần chúng ta lạc đường chính lộ, đã bao lần chúng ta đã vì sự thế phù vân mà lạc mất đường về với tình yêu của Cha trên trời ?
Mẹ mời gọi mọi người chúng ta hãy trở về nẻo chính đường ngay, tức là cải thiện cách sống của mình cho phù hợp lời dạy của Đức Chúa Giê-su. Đã có nhiều linh hồn cố chấp trước lời mời gọi thiết tha của Mẹ nên đã bị hình phạt hỏa ngục, đã có nhiều người biết mình lạc mất phương hướng trong đời sống tu đức, nhưng vẫn cố chấp kiêu ngạo không sửa đổi, nên đã bị án phạt đời đời trong hỏa ngục như các linh hồn mà ba trẻ ở Fatima đã được Đức Mẹ Ma-ri-a cho thấy.
Tìm được Đức Chúa Giê-su trong đền thờ là một niềm vui và là một bài học cho chúng ta, Đức Mẹ Ma-ri-a đã lo âu khi Đức Chúa Giê-su lạc mất thế nào, thì Mẹ cũng lo âu khi chúng ta lạc mất Ngài như vậy, đó là niềm hy vọng và là niềm vui của những người con tội lỗi là chúng ta. Mau mắn trở về với Chúa và từ bỏ con đường lầm lạc để trở lại con đường mà Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a đã đi qua, đó là con đường hẹp, đường lên núi Sọ, đường đưa đến hạnh phúc đời đời.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------
http://www.vietcatholic.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét