Xin Vâng Ý Chúa
(Mica 5,1-4a; Hipri 10,5-10; Luca 1,39-45)
Suy Niệm:
Chúa nhật I mùa Vọng báo tin ngày Chúa đến. Chúa nhật II cho thấy Gioan đến dọn đường. Chúa nhật III nói về niềm vui nổi lên vì Chúa đến gần. Còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay, chúng ta biết nói gì khi thấy Mẹ Chúa đến viếng thăm? Chắc chắn Phụng vụ, muốn chúng ta gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Và các bài Kinh Thánh hôm nay, sâu xa đều vẫn muốn nói về Người. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh bài Tin Mừng; Và trong bài Thánh thư nói đến tâm tình của Chúa Kitô khi nhập thể chúng ta có thể thấy chính lòng của Ðức Mẹ.
Và điều này đúng, nghĩa là nếu tâm tình của Chúa Giêsu cũng là tâm lý của Ðức Mẹ thì Chúa nhật hôm nay của Ðức Mẹ cũng là Chúa nhật của chính Ðức Giêsu Kitô, chúng ta thấy cả hai đấng. Chúng ta thấy Ðức Mẹ mang Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở nơi Ðức Mẹ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi Ðức Mẹ, khiến chúng ta trong đời sống chờ ngày Chúa đến, phải biết mến yêu Ðức Maria và bắt chước Người.
1. Một Người Nữ Thụ Thai
Bài sách Mica hôm nay rất thời danh. Nó được coi như lời tiên tri rất sáng sủa về Ðức Giêsu Kitô cứu thế. Nó nói Người xuất thân từ Belem, sinh bởi một người nữ "đồng trinh" và mang uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng đọc ở thời Cựu ước, ý nghĩa của nó không rõ rệt như thế đâu.
Trước hết, ở thời xưa không chắc nhiều người đã để ý đến lời tiên tri này. Chính Mica cũng là một nhân vật ít được chú trọng. Ông là một tiên tri nhỏ, sống ở thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Ông hoạt động ở Giuđa, tức là miền Nam. Và chắc ông cũng chỉ tuyên sấm chung chung như mọi ngôn sứ khác. Ðại khái ông tố giác đời sống tội lỗi ở Giêrusalem, tiên báo hình phạt sẽ đến, nhưng khuyên nhủ tin cậy vào thời Phục hưng. Tác phẩm của ông chia làm ba phần rõ rệt như thế, nên người ta có lý để nghĩ rằng nó đã được một bàn tay nào sắp đặt, chứ khi ông rao giảng các tư tưởng không cách nhau như vậy đâu. Nhất là khi nhìn vào đoạn văn trích đọc hôm nay, người ta tưởng đã có một nhà thần học, sống sau ông rất nhiều và đã đào sâu tư tưởng của ông mới có thể viết ra được những lời tiên tri giá trị như vậy. Dù sao chúng ta cũng rất mừng được một bản văn như thế. Và khi đem đọc nó dưới ánh sáng của Tân ước, chúng ta càng thấm thía ý nghĩa của chính tên tác giả. Là vì trong tiếng Do Thái, Mica có nghĩa là: Ai như Thiên Chúa? Ðọc sách Mica, chúng ta sẽ thấy không ai như Thiên Chúa chúng ta. Người thật lạ lùng và công việc của Người thật kỳ diệu.
Quả vậy, ai có thể nghĩ như người? Ðang khi Israen đang bị chà đạp dưới gót giày của các đế quốc khổng lồ, Người tuyên sấm sẽ cứu đoàn dân nhỏ bé của Người. Người sẽ chọn một mục tử để chăn dắt, không những các chiên của Israen mà cả thế giới cũng chỉ là chiên của Người. Ý tưởng Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ là một mục tử, là một ý tưởng rất phổ thông trong sách Cựu Ước. Người ta còn được biết Người thuộc dòng dõi Ðavít nữa. Có lẽ góp hai quan niệm ấy lại, tác giả bài sách Mica hôm nay đã dám bạo viết rằng:
Phần ngươi hỡi Bêlem Ephrata nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa.
Chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta, vị có định mệnh thống lĩnh Israen.
Nhà tiên tri đã được linh ứng để thấy trước việc Ðấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ Bêlem, một làng rất nhỏ trong đất Giuđa, hay vì theo lời giao ước Ngài thuộc dòng Ðavít và sẽ là mục tử, nên ở đây nhà tiên tri muốn diễn tả Ngài như một Ðavít mới thật sự và do đó phải xuất từ Bêlem cũng như sẽ phải là một mục tử, như sẽ viết sau này?
Dù sao ý tưởng tác giả muốn nhấn mạnh ở đây không phải là chính Bêlem cho rằng tính cách nhỏ bé nhất của nơi này. Ông muốn nói rằng xét theo lai lịch xác thịt, Ðấng Cứu Thế không có gì đáng kể, nhưng như lời viết sau đây: Nguồn gốc của Ngài lên tới những ngày thuở xưa. Ngài là Con Người mầu nhiệm. Ngài có vẻ sinh ra từ một nơi tối tăm, không có danh tiếng gì; nhưng thật sự Ngài đã hiện diện từ xa xưa, từ thời có những lời hứa đầu tiên và trước cả đó nữa. Ðề cập đến Ngài như vậy Mica còn tỏ ra đáng phục hơn là khi ông nói Ðấng thống lĩnh Israen sẽ xuất thân từ Bêlem. Biết quê hương một người đâu quan trọng bằng biết bản chất con người ấy?
Thế mà Mica không dừng lại ở điểm này. Những lời ông viết tiếp đã được giải thích nhiều cách.
Thông thường thì người ta hiểu rằng: Chúa còn bỏ rơi dân Người cho đến ngày một người nữ sẽ sinh con và khi ấy con cái Israen sẽ được đoàn tụ. Tức là ở trên nhà tiên tri đã nói đến quê quán Ðấng Thiên Sai, giờ đây ông bàn đến thời đại Ngài ra đời cũng như dòng họ của Ngài. Ngài sẽ sinh ra sau thời gian Chúa thử thách dân Người và việc Ngài đản sinh là dấu Chúa đã đoái thương, muốn cứu lại dân và cho họ về đoàn tụ. Còn ai sẽ sinh ra Ngài? Isaia đã nói về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai. Lời tiên tri ấy mầu nhiệm đến nỗi đã ám ảnh tâm trí mọi người. Mica ở đấy chỉ lặp lại... Nhưng dường như ông nghĩ rằng người nữ sinh con kia không là ai khác chính dân Chúa, và chính số dân sót còn lại sau thử thách, số dân nghèo đạo đức còn lại sau nhiều phấn đấu cam go. Ðấng Thiên Sai sẽ sinh ra từ dòng dõi những người này. Ngài sẽ là mục tử dùng sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa để cai trị cả thế giới và ban hòa bình cho muôn dân.
Và như vậy, ở đây chúng ta lại thấy tính cách mầu nhiệm nghịch thường của con người Ðấng Thiên Sai. Ngài sẽ sinh ra từ dòng dõi khó nghèo, nhưng sức mạnh và quyền lực Ngài có lại là của Thiên Chúa.
Do đó toàn bài sách Mica hôm nay đã nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế. Tác giả nhấn mạnh đến con người mầu nhiệm của Ngài. Bề ngoài Ngài nghèo khó hèn mọn nhưng thật sự Ngài cao cả quyền uy. Ðấng cứu độ là Thiên Chúa ở trong dân khó nghèo...
Tuy nhiên chúng ta cũng được phép đọc câu "Một người nữ sẽ sinh con" và dừng lại để nghĩ đến Ðức Mẹ. Người cũng bình dị nhưng cao cả vì Người sẽ sinh Ðấng thống lĩnh nhà Israen. Và Ðức Mẹ cũng chính là Dân Chúa, là bông hoa kết tinh của Cựu Ước và là gương mẫu của Hội Thánh ngày nay bắt chước. Chúng ta hiểu lời tiên tri ấy về Người, thì cũng phải hiểu về Hội Thánh và về chính chúng ta, như Mica đã làm cho thế gian thấy Chúa cứu thế đến cứu đời. Và chúng ta sẽ làm được việc ấy nếu biết chiêm ngưỡng Ðức Mẹ và bắt chước Người. Do đó chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Bà Là Mẹ Thiên Chúa
Chúng ta hết thảy đều biết: Buổi đầu khi các Tông đồ khởi sự truyền giáo, các ngài đã rao giảng về Ðức Giêsu cho người ta, theo một dàn bài rõ rệt, tức là khởi sự từ ngày Người chịu Gioan rửa cho tới khi Người chịu chết - sống lại - lên trời - và sai Thánh Thần xuống. Nhưng bên cạnh công thức huấn giáo Tông đồ ấy, dần dà đã có những câu chuyện truyền tai nhau về thời thơ ấu và niên thiếu của Ðức Giêsu. Thánh Luca, khi viết tác phẩm Tin Mừng, đã nhặt một số các câu chuyện này và đem viết thành những chương đầu tiên. Người chẳng làm công việc này nếu những câu chuyện kia không ăn khớp với những chương sau trình bày giáo huấn chính thức của các tông đồ. Nói cách khác, Người đã quan niệm những chương nói về cuộc đời niên thiếu của Chúa phải như tiền đề dẫn vào những chương nói về cuộc đời công khai của Ngài. Do đó chúng ta có thể tìm thấy mầm mống những chương sau đã nằm nơi những chương đầu tiên rồi. Và chúng ta chỉ hiểu được những chương này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô sẽ phát huy trong việc Ngài tử nạn phục sinh.
Ðoạn văn hôm nay nằm trong những chương đầu tiên này. Tác giả Luca thuật những chuyện về Ðức Giêsu với những chuyện về Gioan Tẩy Giả để làm nổi bật sự mật thiết cũng như sự khác biệt giữa vị tiền hô và vị cứu thế, giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa luật pháp và ân sủng. Ở đây chúng ta thấy Ðức Maria đi thăm bà Isave.
Người lên đường sau ngày được sứ thần truyền tin. Nên cuộc viếng thăm ngày hôm nay gắn liền với sự việc ngày hôm trước. Theo như Kinh Thánh luôn cho biết, Thiên Chúa nói sao là có vậy. Thế mà sứ thần đã bảo Ðức Maria thụ thai Con Thiên Chúa để Ngài sẽ được gọi là Giêsu tức là cứu thế. Ðồng thời sứ thần cũng loan tin bà Isave đã thụ thai trong tuổi già được 6 tháng rồi. Có cái gì ở giữa hai sự việc này đây? Maria cứ lên đường và sẽ biết. Người đon đả ra đi là vì lẽ đó. Vậy khi Người vừa vào nhà và chào bà Isave, thì lập tức bà này đã lớn tiếng kêu lên: "Trong nữ giới có Người là diễm phúc. Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng Người". Làm sao Isave có thể nói lên được những lời ấy; và nếu bà không giải thích thì ai mà hiểu được? Hơn nữa bà còn nói về Maira là Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi. Làm sao bà biết được Maria đã cưu mang Chúa Cứu Thế? Nỗi vui của bà quả thật là niềm vui cứu độ mà các tiên tri đã từng hứa cho thiếu nữ Giêrusalem; và Mica đã loan báo sẽ xảy đến cho Bêlem nhỏ nhất trong xứ Giuđa. Chúng ta hãy nghe và giải thích: "Vì này thoạt tiếng Người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng".
Như vậy Gioan đã bắt đầu đóng vai trò "tiền hô của ông". Ngay từ trong bụng mẹ, Gioan đã báo tin Chúa đến. Nhờ sự vui mừng của ông, mẹ ông đã được chỉ cho biết ân sủng đã đến trong con người Ðức Maria. Và nhờ việc ông nhảy mừng chúng ta thấy rõ Lời Chúa phán với Ðức Maria đã công hiệu. Chúa nói là Chúa làm. Ngài sẽ được gọi là Giêsu vì Ngài đã cứu thế. Ngài đã cho Gioan được sự vui mừng cứu độ. Và Gioan đã được chia sẻ niềm vui ấy; để rồi Ðức Maria không thể nào dấu được nữa những ơn cao cả Người đã được và đang mang trong mình.
Do đó, câu chuyện đi viếng hôm nay là để xác nhận việc Con thiên Chúa đã đến để cứu đời. Vị tiền hô còn nằm trong dạ mẹ đã loan báo điều ấy. Và Mẹ Chúa hôm nay xuất hiện là để chúng ta biết ơn cứu độ đã gần.
Thiên Chúa đã không dùng những hành vi và khung cảnh thật nhỏ mọn để bày tỏ quyền năng cao cả của Người đó sao? Nếu Bêlem nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa, như lời sách Mica viết, thì câu chuyện thăm viếng xảy đến trong nhà bà Isave ở một làng không tên tuổi nào đó lại còn nhỏ bé hơn nữa. Nhưng tất cả những gì có vẻ nhỏ bé trong câu chuyện lại đều hết sức lớn lao. Nhờ sự nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ, chúng ta được biết chúc tụng hoa quả của lòng Người. Tác giả thư Hipri là một trong những người sớm biết làm công việc này. Chúng ta hãy nghe lời ông trong đoạn trích hôm nay.
3. Bà Ðã Thưa: Xin Vâng Ý Chúa
Tác giả muốn diễn tả tâm trạng của Chúa Kitô "lúc vào trần gian", tức là lúc nhập thể cứu đời. Do đó, đoạn văn này hợp với Phụng vụ hôm nay, vì bài Tin Mừng cũng vừa nói đến "Hoa quả của lòng Ðức Trinh Nữ".
Nhưng làm sao tác giả có thể biết được cảm nghĩ của Chúa khi nhập thể? Ông chỉ có thể tìm thấy những ý nghĩ ấy trong chính cuộc đời trần gian của Người. Thế mà khi còn tại thế và trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng: Ngài đến không để làm theo ý mình nhưng để thi hành ý của Chúa Cha. Và tất cả các sách Tân Ước đều khẳng định cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Kitô là một sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Do đó tác giả thư Hipri có lý để viết về Chúa Kitô lúc vào trần gian rằng: Người nói: Này con đến để thi hành ý muốn của Chúa. Tác giả có vẻ muốn căn cứ vào lời trong một cuốn sách đã viết về Ngài. Nhưng cuốn sách nói đây không phải là một cuốn sách nào đó trong bộ Kinh Thánh mà là toàn bộ Kinh Thánh, kể từ "Môsê cho đến hết các tiên tri", như lời Chúa Phục sinh nói với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các tông đồ.
Nhưng điều đáng để ý ở đây là mạch văn của tất cả đoạn thư này. Tác giả đang nói rằng tất cả các lễ dâng đạo cũ đều không có sức tẩy rửa tâm hồn và làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì lẽ "các điều ấy được hiến dâng chiếu theo lề luật". Bấy giờ, lúc vào trần gian, Chúa Kitô đã nói: Này con đến để thi hành ý muốn Chúa. Chính trong ý muốn ấy, tức là trong thánh ý của Thiên Chúa mà chúng ta đã được tác thành, nhờ việc tự nguyện hiến thân vâng lời của Chúa Kitô.
Nói cách khác, ơn cứu độ chúng ta nằm nơi thánh ý Chúa đã xót thương thí ban Con Một của Người cho chúng ta và sự vâng lời của Chúa Con đã hiến thân như ý Chúa Cha đã định. Và nơi đang thực hiện những điều này là chính lòng Trinh Nữ Maria, người mà bà Isave hôm nay đã nhận ra là "kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho Người!" Với câu này, rõ ràng tác giả Luca có ý gợi lại thái độ và lời "xin vâng" của Ðức Maria khi được thiên thần đến truyền tin.
Và như vậy, chúng ta có thể hiểu cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay về Ðức Maria cũng như về Chúa Giêsu, về Ðức Maria cưu mang Ðức Giêsu cứu thế trong thân phận nhỏ bé và vâng lời, và về Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi cung lòng Ðức Trinh Nữ cũng trong thái độ nhỏ bé và vâng lời. Phải chăng phụng vụ chẳng muốn cho chúng ta nghĩ rằng khó nghèo và vâng lời là môi trường và điều kiện để ơn cứu độ của Chúa thể hiện? Và gần đến lễ Giáng sinh, cũng như để chuẩn bị ngày Chúa đến trong vinh quang, thái độ của chúng ta há chẳng phải là khiêm nhường trước mặt Chúa và tuân giữ các giới răn của Người? Việc nhìn nhận tội lỗi của mình rồi đến với Chúa trong tòa cáo giải là cách dọn mình để đón nhận ơn Chúa Giáng Sinh. Cũng như khiêm cung thi hành các đỏi hỏi của Tin Mừng trong đời sống là con đường chắc chắn nhất làm cho ơn cứu độ của Chúa tỏ hiện một cách vinh quang.
Thánh lễ này cho chúng ta được tiếp xúc với Chúa trong mầu nhiệm cứu thế, là mầu nhiệm thật cao cả nhưng diễn ra trong khung cảnh đơn sơ khó nghèo biết bao! Ước chi chúng ta được niềm tin như tiên tri Mica để khẳng định có ơn cứu độ. Niềm tin ấy sẽ giúp chúng ta được như Ðức Maria, đón nhận Chúa Cứu Thế vào lòng. Rồi như Người, chúng ta sẽ khiêm tốn ra về để đến với anh em. Chúa sẽ làm cho anh em biết ơn Người cứu độ nếu niềm tin của chúng ta được thể hiện trong đời sống phục vụ khiêm tốn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 4 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Mic 5:1-4a; Heb 10:5-10; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo hèn.
Con người ưa thích những gì hoành tráng, uy quyền, và lộng lẫy. Nếu phải chọn nơi để sinh ra, con người sẽ chọn được sinh ra trong hoàng cung, nơi có đầy đủ mọi phương tiện để con người được sung sướng và hạnh phúc. Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa hành động khác hẳn con người. Ngài chọn cho Con mình một cha mẹ nghèo hèn, khiêm nhường; và chọn cho con mình sinh ra nơi một thành bé nhỏ ít người biết đến. Đây không phải là lần đầu, nhưng trong lịch sử của Cựu Ước cũng như Tân Ước, nhiều lần Ngài chứng tỏ điều này, như Thiên Chúa chọn Jacob thay vì Esau, Giuse thay vì các anh của ông, David trẻ nhất trong số các con của Jesse...
Chỉ còn vài ngày nữa là tới biến cố độc nhất vô nhị xảy ra trong lịch sử; nhưng làm sao để chúng ta nhận ra và đón nhận Đấng Thiên Sai vào trong cuộc đời? Các Bài Đọc hôm nay nêu bật ý định của Thiên Chúa: Nếu con người muốn đón nhận Đấng Thiên Sai, họ phải trở nên khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời. Đừng tìm Ngài trong những huy hoàng tráng lệ; nhưng trong những nơi đơn sơ, bé nhỏ, nghèo hèn. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Micah báo trước gần 700 năm trước khi Đấng Thiên Sai ra đời: Ngài sẽ sinh ra trong một thành nhỏ bé nhất của Judah, trong một thị tộc nhỏ bé nhất Ephratha; nhưng nguồn gốc của Ngài có từ muôn đời và Ngài dùng uy quyền cai trị của Thiên Chúa để mang ơn cứu độ cho mọi người và cứu thoát tất cả các chi tộc của Israel. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái quả quyết Thiên Chúa hài lòng những người tuân phục và làm theo ý muốn của Ngài hơn trăm ngàn của lễ hy sinh chiên cừu. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria, một thôn nữ quê mùa, mộc mạc, đơn sơ, để làm Mẹ Đấng Thiên Sai giữa bao phụ nữ khác đẹp đẽ, uy quyền, và sang trọng của cả nước Israel. Lý do: Mẹ khiêm nhường, đơn sơ, kín đáo, thương người và nhất là luôn tìm để làm theo ý Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.
1.1/ Thiên Chúa chọn những gì bé nhỏ nghèo hèn: Nếu một người cha thế gian chọn cho con mình một nơi để sinh ra, chắc chắn ông sẽ chọn Jerusalem, một kinh thành có đầy đủ tiện nghi và nổi tiếng. Ngược lại với khuynh hướng con người, Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở Bethlehem, một thành nhỏ nhất của Judah; khoảng 30 dặm về phía Nam của Jerusalem. Bethlehem là nơi sinh trưởng của vua David. Thiên Chúa chọn David là đứa con nhỏ nhất trong gia đình của Jesse, để làm vua thay Saul. Khi David lên ngôi, ông đã dời kinh đô về Jerusalem.
Hơn nữa, Ngài còn chọn một thị tộc nhỏ bé nhất của Judah là Ephratha, để cho Con của Ngài sinh ra, như tiên-tri Micah loan báo gần 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.'' Lời tiên tri này rất quan trọng, vì nó sẽ được các kinh-sư dùng để trả lời cho ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến hỏi: Vua người Do-thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người.
1.2/ Căn tính của Đấng Thiên Sai: Giống như thị kiến của tiên-tri Daniel sau này (7:13-14), tiên tri Micah mặc khải hai căn tính quan trọng của Đấng Thiên Sai:
(1) Nguồn gốc: Tuy Ngài sinh ra trong thời gian, nhưng "nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.'' Theo Daniel, Ngài tuy có hình ảnh của Con Người, nhưng lại "ngự giá mây trời mà đến."
(2) Uy quyền: Tuy Ngài là con người, nhưng Ngài có quyền lực của Thiên Chúa: "Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ." Theo Daniel, "Đấng Lão Thành [Thiên Chúa] trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người."
(3) Triều đại: Không giống như triều đại của vua chúa thế gian, triều đại của Người sẽ an bình, thịnh vượng, và tồn tại muôn đời: "Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Assyria. Chính Người sẽ đem lại hoà bình.'' Theo Daniel, "Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong."
2/ Bài đọc II: "Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài."
2.1/ Vâng lời quan trọng hơn của lễ: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa truyền cho con cái Israel phải dâng của lễ để đền những tội họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; nhưng dần dần, người Do-thái quá chú trọng đến lễ vật bên ngoài, mà quên đi sự xám hối, tình thương, và công bằng bên trong. Nhiều ngôn-sứ trong Cựu Ước đã cảnh cáo dân về việc vụ hình thức bên ngoài, và kêu gọi họ chú trọng đến tâm hồn bên trong. Tác giả Thư Do-thái cũng theo chiều hướng này, khi nói về sự cao trọng hy lễ của Đức Kitô. Ông muốn nêu bật hai điểm chính:
(1) Mục đích của thân xác: "Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể." Đối với con người, việc làm cần thiết để biểu tỏ niềm tin vào Thiên Chúa. Đức Kitô được Chúa Cha ban cho một thân thể để Ngài thi hành thánh ý Thiên Chúa và dạy dỗ con người. Ngài dùng miệng để rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ, và an ủi tha nhân, dùng tay để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, và dùng chân để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng... Sau cùng, Ngài dùng chính thân thể của Ngài để chịu đựng đau khổ và chết thay cho con người.
(2) Đức vâng lời: ''Chúa chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.'' Đây là những lời trích từ thánh vịnh 40:6-9, và là một chân lý hiển nhiên, vì tất cả mọi sự trên đời này là của Thiên Chúa. Ngài cũng chẳng có mũi để ngửi hay miệng lưỡi mà thưởng thức các lễ vật của con người. Điều làm Thiên Chúa vui lòng là con người kính sợ và làm theo thánh ý của Ngài.
2.2/ Hy lễ của Đức Kitô vượt xa các lễ vật của Cựu Ước.
(1) Lễ vật của Cựu Ước: " Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.'' Trước hết, máu chiên bò đổ ra thay cho con người không phải là máu của tự nguyện, nhưng bị con người bắt và giết đi. Thứ hai, máu này không đủ để tha tội, nhất là những tội cố tình, nên phải tái diễn nhiều lần. Sau cùng, máu này không có sức thánh hóa con người hay làm cho trở nên tốt hơn.
(2) Hy lễ của Đức Kitô: ''Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.'' Máu của Đức Kitô đổ ra chính là máu của Con Thiên Chúa, Ngài tự nguyện hy sinh chịu chết cho con người. Máu này chỉ cần đổ ra một lần là đủ vì có sức mạnh để tha tất cả các tội của con người. Từ đó đến nay, Đức Kitô đã chấm dứt lễ tế cũ và thay bằng Thánh Lễ. Điều này được chứng minh trong lịch sử là Đền Thờ bị phá hủy hoàn toàn từ năm 70 AD tới giờ; người Do-thái có muốn dâng lễ tế đền tội cũng chẳng còn Đền Thờ mà dâng. Sau cùng máu này không những tha mọi tội, mà còn có sức thánh hóa và làm cho con người trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ các ơn thánh của bí tích Thánh Thể.
3/ Phúc Âm: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
3.1/ Đức Mẹ lên đường thăm viếng bà Elisabeth: "Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông Zachariah và chào bà Elisabeth."
Không những Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở một nơi bé nhỏ nghèo hèn; mà còn chọn cho con mình một người mẹ rất đơn sơ, nhỏ bé, khiêm nhường; nhưng vâng lời làm theo ý Thiên Chúa, và có lòng yêu thương tha nhân. Biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Elisabeth, người chị họ, cho chúng ta thấy những đức tính nổi bật nơi Đức Mẹ.
Theo truyền thống, Ein Karim là nơi gia đình của ông Zachariah và bà Elisabeth sinh sống nằm giữa đường từ Jerusalem đến Bethlehem. Thông thường, người kém địa vị hơn phải đi thăm người có địa vị cao hơn, hay người cần được ban ơn phải đi thăm người có quyền ban ơn. Mẹ đã chọn đi bước trước để chào thăm và giúp đỡ người chị họ chứ Mẹ không đợi người chị họ Elisabeth đến thăm mình; dù Mẹ biết mình đang cưu mang Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa Tối Cao. Khi một người ở địa vị cao hơn đi bước trước để thăm viếng, người đó biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu chân thật để tỏ sự quan tâm đến người mình yêu. Mẹ cũng mang niềm vui và muôn ơn của Thiên Chúa đến cho bà Elisabeth qua cuộc thăm viếng này. Nếu Thiên Chúa Tối Cao đã biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu khi Ngài viếng thăm con người, chúng ta là ai mà ngồi yên trông chờ người khác đến thăm viếng chúng ta!
3.2/ Bà Elisabeth chúc mừng Đức Mẹ.
(1) Thánh thần ở với Gioan ngay từ khi còn trong bụng mẹ: Trình thuật Lucas tường thuật một sự kiện lạ: Khi "Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần."
Người Mẹ có thể nhận ra sự khác thường của đứa con trong bụng mình. Khi Gioan, đại diện cho những con người trong Cựu Ước nhận ra Đấng Thiên Sai đến viếng thăm, đã nhảy mừng tuy vẫn còn trong bụng bà Elisabeth.
(2) Bà Elisabeth lớn tiếng ca tụng Mẹ Maria: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bà Elisabeth tuyên xưng những sự thật về Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ; không một phụ nữ nào được Thiên Chúa ban ơn và chúc phúc cho hơn Đức Mẹ. Bà cũng được linh hứng của Chúa Thánh Thần để tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa; điều mà phải đợi đến Công Đồng Êphesô vào năm 430, Giáo Hội mới chính thức công nhận danh hiệu này. Thứ hai, con trẻ Gioan đang trong dạ mẹ cũng được chúc phúc; vì Thiên Chúa đã đoái thương và viếng thăm dân Ngài. Khi Thiên Chúa đến viếng thăm, Ngài mang ơn cứu độ đến cho con người. Sau cùng, bà Elisabeth nói rõ lý do của mọi phúc lành: Vì Mẹ Maria đã tin vào những gì Thiên Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện. Đức tin làm cho con người được chúc phúc và trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, chứ không do bất cứ sự cao trọng nào hay sự xứng đáng của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để tìm kiếm và nhận ra Thiên Chúa, chúng ta đừng mong tìm Ngài trong những lộng lẫy xa hoa của thế gian; nhưng trong những nơi nghèo nàn, nhỏ bé như Bethlehem của Judah.
- Thiên Chúa không quan tâm đến những thành quả hay việc to lớn mà chúng ta đạt được; nhưng Ngài yêu thích sự khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời làm theo thánh ý của Ngài.
- Noi gương Đức Mẹ, chúng ta phải luôn thương yêu, quan tâm, và khiêm nhường đi bước trước để tỏ tình yêu cho tha nhân. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta đón nhận Thiên Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi ơn cần thiết trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét