Lc 1,46-56 |
Mùa Vọng Là Mùa Chờ Ðợi
Mùa Vọng là mùa hy vọng, là ước mong, là đợi chờ. Mùa nắng hạn đã qua, mùa mưa bão cũng chấm dứt, chúng ta đang hy vọng có được một mùa Giáng Sinh tươi đẹp.
Sống là hy vọng, là ước mơ, là đợi chờ. Cuộc sống con người từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay được dệt bằng những chờ đợi triền miên. Trước năm 1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong một khúc ca nào đó như sau: Nơi đây tôi đợi. Nơi kia anh chờ. Có đợi chờ là có ước mơ.
Cách đây trên 25 thế kỷ, vào giữa lúc dân Do Thái đang phải sống kiếp đọa đày nơi đất khách quê người, thì Tiên Tri Isaia đã nói như sau: "Ngày đó họ sẽ lấy gươm mà rèn lưỡi cày. Lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa. Người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa".
Giấc mơ của Tiên Tri Isaia ngày nay đã trở thành giấc mơ của toàn thể nhân loại bởi vì những lời này đã được ghi trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York bên Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, vào khoảng cuối thập niên 1960. Chứng kiến không biết bao nhiêu ngược đãi mà cộng đồng người da đen phải chịu qua hằng bao thế kỷ. Cố mục sư Martin Luther King đã nói lên giấc mơ của mình như sau:
"Tôi mơ ước một ngày nào đó: những đứa con của những người da đen sẽ được ngồi ăn đồng bàn với những đứa con của những chủ nhân da trắng". Năm 1968, mục sư đã bị mưu sát, nhưng cái chết của ông đã biến giấc mơ của ông đã thành hiện thực. Ngày nay, con cái của những người nô lệ da đen đã hoàn toàn bình đẳng với con cái của những chủ nhân da trắng. Không có gì đẹp cho bằng giấc mơ trên đây. Thế nhưng lịch sử nhân loại chúng ta chưa được viết bằng những giấc mơ này. Lịch sử nhân loại còn đầy những ác mộng và hy vọng hảo huyền.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Chờ đợi, ước mơ, hy vọng. Ðó là hạt giống của bất tử mà Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim của con người. Thánh Augustinô đã diễn tả một cách tuyệt mỹ niềm mơ ước và hy vọng ấy khi Ngài thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con vì Chúa, cho nên hồn con sẽ mãi mãi mòn mỏi xao xuyến cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa". Quả thực, chỉ trong Thiên Chúa là cùng đích của mọi khát vọng, con người mới hết chờ đợi, hết ước mơ và hết hy vọng. Bao lâu còn sống là còn mỏi mòn đợi trông. Còn sống là còn mò mẫn tìm kiếm.
Lịch sử của dân tộc Israel là điển hình của sự mò mẫm tìm kiếm ấy. Nhưng cũng qua dòng lịch sử ấy, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết đâu là cùng đích của mọi ước mơ và hy vọng của con người. Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã cho niềm hy vọng của con người được thành tựu. Chúa Giêsu Kitô là điểm đến của lịch sử con người. Tất cả mọi chờ đợi, mọi hy vọng, mọi nổ lực kiến tạo của con người đều quy hướng về Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Ðấng đang hiện diện. Ngài là Ðấng đang đến. Ngài là Ðấng đang tác động trong từng biến cố của lịch sử con người. Chỉ có Ngài mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người. Chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn được tất cả mọi ước vọng của con người. Ðây chính là trọng tâm của niềm tin Kitô mà hằng năm mỗi mùa khi mùa vọng trở lại Giáo Hội không ngừng mời gọi chúng ta đào sâu.
Mọi ước mơ, chờ đợi và hy vọng của chúng ta chỉ được thành tựu trong Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Ngài là đối tượng của mọi chờ đợi và hy vọng của con người. Ngài đang đến trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta.
Thảm trạng lớn nhất của con người là khước từ Ðấng đang đến, và như vậy cũng đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Ngài đã đến với dân tộc Ngài tuyển chọn, nhưng họ đã không đón nhận Ngài. Cái chết trên thập giá của Ngài vừa là biểu trưng vừa là tuyệt đỉnh của mọi khước từ. Sự khước từ vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi con người chối bỏ chính nhân phẩm của mình để sống theo những dục vọng và khuynh hướng thấp hèn của mình. Sự khước từ ấy vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi do mù quáng và ích kỷ con người chối bỏ và chà đạp phẩm giá của con người anh em của mình.
Chúa Kitô vẫn tiếp tục đến một cách âm thầm và bất ngờ trong từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Ngài vẫn tiếp tục đến một cách bất ngờ trong người anh em bé mọn nhất của chúng ta. Ðó là điều Ngài muốn nói với chúng ta khi dùng lụt đại hồng thủy hay của kẻ trộm trong Tin Mừng hôm nay.
Hãy tỉnh thức để không ngừng đón nhận Ngài trong từng biến cố của cuộc sống. Ðó là sứ điệp mà Mùa Vọng hằng năm nhắc nhở cho chúng ta. Trong phép Thánh Thể, bánh rượu, thành quả của công lao của con người sẽ biến thành Mình Máu Chúa Kitô. Ðó là sự hiện diện mật thiết nhất mà Chúa Giêsu Kitô muốn bày tỏ cho mỗi người. Sự hiện diện này sẽ nhắc nhở cho chúng ta, trong mọi sinh hoạt của con người, Ngài luôn có mặt và tác động bằng mọi cách thế chúng ta không thể ngờ được.
Hãy luôn tỉnh thức để đón nhận Ngài. Ðó là ơn cần thiết nhất mà chúng ta phải cầu xin trong suốt Mùa Vọng này.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 22 tháng 12 MV
Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa.
Nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.
Các Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này. Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ. Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.
1.1/ Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết khóc và không chịu ăn.
1.2/ Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó." Tư-tế Eli khuyên: "Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel ban cho bà điều bà đã xin Người!" Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!" Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn sầu khổ như trước nữa.
1.3/ Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: "Tôi đã xin Đức Chúa được nó." Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, và bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi." Ông Elkanah bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người."
1.4/ Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.
2/ Phúc Âm: Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng ca tụng Ngài: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”
2.2/ Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều cách mạng chính của Thiên Chúa:
(1) Cách mạng luân lý: Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.
(2) Cách mạng xã hội: Thiên Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn; trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.
(3) Cách mạng kinh tế: Thiên Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.
2.3/ Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi; không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của Ngài: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.
- Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.
- Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét