Sứ điệp không thể lãng quên (phần 05)
- Vì họ không biết việc họ làm.
Đó là vế thứ hai của lời cầu nguyện đầu tiên. Nhưng làm sao Chúa Giê-su lại có thể nói họ không biết việc họ làm? Theo một góc độ nào đó thì họ phải biết việc họ đang làm, nhưng họ không nhận ra điều đó là tội ác tày trời. Đó chính là giết chết Con Một của Thiên Chúa.
Nếu suy niệm kỹ lời này, chúng ta thấy, trong lời cầu xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho những kẻ quay lưng lại với Ngài, những kẻ thi hành án tử hình, Chúa Giê-su đã thực sự biện hộ cho họ, và đó cũng là một cách minh chứng hùng hồn nhất rằng, điều Ngài đã dạy là hoàn toàn có thể: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Biết bao nỗi tủi nhục và đau đớn mà bọn La Mã đã gây ra cho Ngài, Ngài vẫn tha thứ cho họ. Ngài thậm chí còn tha thứ cho những kẻ quay lưng lại với Ngài. Karl Rahner đã suy niệm về điều này: “Chúa ơi, Chúa lại nói: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Không thể hiểu Ngài được, Chúa Giê-su ơi. Trong một tâm hồn tan nát và tràn đầy khổ đau, Chúa lại có thể kiếm được ở đâu một chỗ, để có thể thốt lên những lời đó? Không thể hiểu Ngài được, Chúa Giê-su ơi. Chúa yêu thương kẻ thù của Chúa. Chúa phó thác kẻ thù vào cho Cha trên trời. Chúa cầu nguyện cho họ. Ôi, Chúa ơi, con có ngớ ngẩn để nói rằng: Chúa xin lỗi dùm cho họ, bởi vì họ không biết việc họ đã làm. Thất cả bọn họ đã biết, chỉ là họ không muốn biết đến điều họ đã làm thôi. Thật vậy, nếu người ta không muốn biết, thì người ta lại biết rõ hơn hết trong sâu thẳm tăm tối của căn hầm tâm hồn. Nhưng người ta đã ghét bỏ điều đó, vì thế họ không muốn để cho điều đó tỏ lộ ra bên ngoài trong ý thức. Và Chúa nói rằng, họ không biết việc họ làm. Một điều chắc chắn họ đã thực sự không biết: Tình yêu của Chúa dành cho họ. Vì tình yêu này người ta chỉ có thể nhận ra, khi người ta yêu mến Chúa. Vì chỉ có người yêu thương mới nhận ra được tình yêu đã được ban cho.
Xin Chúa hãy nói lời tha thứ của tình yêu không thể dò thấu được với tội lỗi của con. Xin hãy cầu bầu với Cha trên trời cho con: Xin tha thứ cho nó, vì nó không biết việc nó làm. Dù rằng con đã biết mọi sự. Chỉ có một điều con chưa biết. Đó là tình yêu Chúa.
Xin cũng giúp con biết suy đi nghĩ lại, khi con cầu nguyện và xác quyết với lời Kinh Lạy Cha cách vô cẩn: Như con cũng tha cho những người có lỗi với con. Ôi lạy Chúa trên Thánh Giá của tình yêu: Con cũng không biết có ai thực sự lầm lỗi với con, để con tha thứ cho họ. Nhưng sức mạnh của Chúa cần thiết biết bao, để thật sự từ trái tim, con có thể tha thứ cho những người mà con cho rằng đó là kẻ thù của con”.[i] Qua lời suy niệm này, nhà thần học lỗi lạc Karl Rahner đã thú nhận không thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô diễn tả và sống động.
Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. “Đúng vậy, ngay trong đống tro bụi của sự dữ, một chút than hồng của Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục âm ỉ cháy trong trái tim của chúng ta. Sự tha thứ sẽ thổi bay đi những tro bụi kia, và sự tha thứ thổi cho tia lửa tình yêu gần tàn kia bùng lên, để ngọn lửa bùng cháy với sức mạnh mới”.[ii]
Đức Thánh Cha Benedicto XVI cũng đã suy niệm lời họ không biết việc họ làm như sau: “Thực ra, theo lời Người, thì những kẻ đóng đinh Người ‘không biết việc chúng làm’ (Lc 23,34). Người đặt sự thiếu hiểu biết, sự ‘vô minh’ của họ như động lực của việc Người xin Chúa Cha tha thứ, bởi vì sự thiếu hiểu biết này mở đường cho việc hoán cải, như trường hợp những lời mà viên đại đội trưởng sẽ công bố về cái chết của Chúa Giê-su: ‘Người này thật sự là người công chính!’ (câu 47). Người này là Con Thiên Chúa. Vẫn là một sự an ủi cho mọi thời đại và cho mọi người rằng trong trường hợp những kẻ không thực sự biết Người, những lý hình của Người, và trong trường hợp những kẻ biết, những kẻ kết án Người, Chúa dùng sự thiếu hiểu biết như lý do để xin tha thứ cho họ: Người coi nó như một cánh cửa có thể mở lòng chúng ta ra mà hoán cải”.[iii]
Ngoài ra, lời này của Chúa Giê-su cũng nhắc chúng ta nhớ lại lời rao giảng của Thánh Phê-rô, sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, và sau sự kiện Thánh Phê-rô chữa người què ở Đền Thờ. Trước hết, Thánh Phê-rô nói cùng đám đông dân chúng đang tụ họp ở đó: “Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. (CVTĐ 3, 14-15). Sau sự nhắc nhớ nhức nhối này, Thánh Phê-rô tiếp tục: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em”. (CVTĐ 3, 17).
Sự thiếu hiểu biết cũng được Thánh Phao-lô nhắc đến trong sự liên hệ đến chính tiểu sử và ơn gọi của ngài:“Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin”. (1Tm 1,13). Khi thú nhận như thế, thánh Phao-lô rất can đảm, vì ngày xưa trong tư cách là một người luôn sống ý thức về mọi việc mình làm, và luôn tuân thủ lề luật, nên ngài mới đi bắt bớ các người Ki-tô hữu. Khi ngài được Chúa kêu gọi trở lại, ngài đã thành thật nhận ra sự thiếu hiểu biết của mình, sự nông cạn của ngài khi chưa có niềm tin. Theo Đức Thánh Cha Benedicto XVI,[iv] ngay tại điểm thiếu hiểu biết này, mà thánh Phao-lô đã được cứu, được biến đổi và đến với Chúa, và nhận được sự tha thứ của Chúa. Hơn nữa, Đức Thánh Cha còn nêu bật sự song đôi của hai điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ: một bên là sự hiểu biết qua việc học hỏi, bên kia là sự thiếu hiểu biết. Ở đây, có thể xảy ra vấn đề của sự hiểu biết. Đó là người hiểu biết đứng trước một sự nguy hiểm tự kiêu, khi tự nâng cao mình lên, tự vinh danh mình, tự cho mình là biết tất cả mọi sự, đến nỗi không còn nhìn ra chân lý và đạt được chân lý có sức biến đổi cuộc sống của con người. Một lần nữa, trong một cách thức khác, vấn đề hiểu biết và không hiểu biết được lộ rõ, khi chúng ta lật lại những trang đầu tiên của Tin Mừng về việc Giáng Sinh của Chúa. Các Thượng Tế và Kinh Sư biết rõ ràng nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra, nhưng họ đã không nhận ra Ngài. Những người hiểu biết đã bị mù tối. (x. Mt 2, 4-6).
Một cách rõ ràng, sự song đôi của sự hiểu biết và sự thiếu hiểu biết trong ý nghĩa này luôn tồn tại trong mọi thời đại. Vì thế, Đức Thánh Cha BenedictoXVI mời gọi chúng ta chúng ta luôn tự hỏi bản thân: Chúng ta đang là những con người hiểu biết nhưng thực sự là mù tối? Chúng ta đang sống trong tình trạng hiểu biết, nhưng lại không có khả năng để nhận ra chân lý và sự thật có thể biến đổi chúng ta?
Viết những dòng suy niệm này trong bối cảnh Giáo Hội vừa có vị chủ chăn mới, kế vị Đức Benedicto XVI. Đó là Đức Thánh Cha Phanxico, vị Giáo Hoàng thứ 266 của Giáo Hội. Trong bài giảng đầu tiên trên tư cách là đấng kế vị Thánh Phê-rô, Ngài đã nói rằng: “Tin Mừng này tiếp tục với một hoàn cảnh đặc biệt. Thánh Phê-rô, người đã tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Điều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Ki-tô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.[v]
Như thế, trong đời sống của người Ki-tô hữu, dù ở trong cương vị nào đi nữa, và dù có thông hiểu nhiều đến đâu, theo Chúa sát đến mấy, xả thân hoạt động và xây dựng hết cỡ, cũng như mở hết volume để tuyên xưng Chúa, mà lại không có Thánh Giá Chúa, không có Chúa trong tâm hồn, không có Chân Lý là chính Chúa ngự trị, thì thật nguy hiểm biết bao, vì như thế chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa. Như vậy, sự hiểu biết của những nhà thông thái, kinh sư, thượng đế ở kế bên Thánh Giá Chúa chỉ là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan của họ thiếu bóng dáng của Thánh Giá Chúa. Khoa học Thánh Giá họ chưa hiểu được, thì làm sao họ có thể hiểu được Chân Lý là gì. Hơn nữa, cái hiểu đâu phải là tất cả cuộc sống của con người. Cái hiểu đó cần phải đi vào trái tim, thấm nhuần toàn thể con người, để cả cuộc đời con người gắn liền với Chân Lý, với Thiên Chúa, với Thánh Giá của Đức Ki-tô. Xin Chúa cho chúng ta, trong đời sống đức tin theo Chúa, đứng gần Thánh Giá Chúa, nhưng không bao giờ mù tối đến nỗi không hiểu Thánh Giá Chúa là gì, ngược lại thấu hiểu, cảm nhận và giang đôi tay, mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Giá Chúa vào đời mình, vì Thánh Giá Chúa chính là Chân Lý, là khoa học của tình yêu mà Đấng Cứu Thế đã ban tặng cho nhân loại.
Tóm lại, sự thiếu hiểu biết và nông cạn về niềm tin mà Thánh Phê-rô nhắc đến, và thánh Phao-lô thú nhận nơi ngài, có thể làm cho tội lỗi chúng ta được nhẹ hơn, và có thể mở ra một con đường hoán cải trở về. Trở về để xin Chúa mở mắt tâm hồn, xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của Ngài, để có thể nhìn ra Thánh Giá Chúa là khoa học của tình yêu, là Chân Lý mà chúng ta cần mở lòng và giang đôi tay đón nhận, và luôn sống với Chúa trên đường Thánh Giá trên từng nẻo đường chúng ta đi. Có như thế, Chân Lý sẽ nở hoa và sinh trái trên đời sống của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta cũng cảm tạ Chúa về lòng nhân từ bao dung của Chúa giành cho chúng ta, những người thiếu hiểu biết. Đó là một sự an ủi lớn lao. Cũng xin Chúa giúp chúng ta, khi đã hiểu được tinh thần tha thứ của Chúa, thì cố gắng sống theo Ngài, như Thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên, đã theo gương và thực hiện.
- Thánh Tê-pha-nô, mẫu gương sống tinh thần tha thứ.
Đọc lại câu chuyện thánh Tê-pha-nô bị ném đá, với sự hiện diện của Sao-lô, sau này trở lại và trở thành vị Tông Đồ dân ngoại, chúng ta thấy được tâm tình cao quý của thánh nhân: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ‘Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.’ Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.’ Nói thế rồi, ông an nghỉ”. (CVTĐ 7, 59-60).
ĐTC Benedicto XVI đã suy niệm biến cố này như sau: “Đây là lời cuối cùng của ông. Sự so sánh giữa lời cầu nguyện xin tha thứ của Chúa Giê-su với lời cầu nguyện của vị tử đạo là điều đầy ý nghĩa. Thánh Tê-pha-nô thưa chuyện với Chúa Phục Sinh và xin Chúa đừng quy tội cho những kẻ ném đá ông khi nói về việc người ta giết ông - một hành động được xác định rõ ràng bằng thuật ngữ ‘tội này’. Trên Thánh Giá Chúa Giê-su thưa cùng Chúa Cha và không những chỉ xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người, nhưng còn giải thích về những gì đang xảy ra”.[vi]
ĐHY Fulton cũng đã chia sẻ về mẫu gương tha thứ của thánh Tê-pha-nô: “Tôi từ chối ghét bạn. Nếu tôi ghét bạn, tôi sẽ đổ thêm dầu vào lửa. Ngược lại, nếu tôi không ghét bạn, tôi sẽ giết chết lòng thù hận của bạn và tôi sẽ xóa nó khỏi mặt đất. Tôi yêu quí bạn. Đó là đường lối thánh Tê-pha-nô chinh phục những ai thù ghét ông, giết chết ông. Thánh nhân đã cầu nguyện: ‘Lạy Chúa xin đừng chấp tội họ về việc này’ (CVTĐ 7,59). Nói chính xác hơn, ông đã lập lại lời của Chúa Giê-su trên thập giá. Lời của ông đã chiến thắng được tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi tên là Sao-lô, hắn đứng bên cạnh trông coi y phục cho những lý hình ném đá Tê-pha-nô và đồng ý với cái chết của thánh nhân. Nếu như Tê-pha-nô nguyền rủa Sao-lô, có lẽ người thanh niên này chẳng bao giờ trở thành thánh Phaolô, một mất mát quá to lớn. Nhưng thù oán đã thất bại, vì Tê-pha-nô tha thứ”.[vii]
Ngoài ra, thánh Âu-tinh đã diễn tả rất hay về mẫu gương tha thứ của thánh Tê-pha-nô, và ngài khuyên bảo mọi người nhìn vào tấm gương thánh nhân, một người dù bị ném đá như mưa nhưng vẫn cầu nguyện cho những kẻ đang giết mình: “Họ thì ném đá mà chẳng hề xin ngài thứ tha, còn ngài thì cầu nguyện cho họ. Đó chính là thái độ mà tôi muốn anh em nhìn xem. Hãy cố gắng vươn tới mức đó. Đừng để lòng mình cứ sà sà mặt đất hoài. Hãy nâng tâm hồn lên! Vâng, hãy leo cao tới mức đó. Hãy yêu thương thù địch. Vì nếu anh em không tha, thì tôi xin nói, chẳng những anh em đã xoá sạch khỏi lòng mình bài Kinh Chúa dạy, mà chính anh em cũng sẽ bị xoá tên khỏi sách sự sống”.[viii]
Lời của thánh Âu-tinh là một lời nhắc nhớ chúng ta ý thức sống tinh thần tha thứ. Khi sống tinh thần tha thứ, thì chúng ta, những người con cái dưới đất thấp này, có thể bước trên hành trình nên hoàn thiện, như lòng ao ước của Đức Ki-tô: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. (Mt 5, 48). Hoàn thiện là một con đường dài của đời người, cũng thế tha thứ là bài tập cho cả cuộc đời.
- Tha thứ, bài tập cho cả cuộc đời.
Là những người có niềm tin, chúng ta từ thuở nhỏ ai cũng thuộc làu làu Kinh Lạy Cha. Trong đó có một lời cầu nguyện: xin tha thứ cho chúng con, như chúng con tha thứ cho những người có lỗi với chúng con. Lời cầu nguyện này thật đặc biệt, vì nó đưa chúng ta đi vào thực tế đời sống hằng ngày, với biết bao đụng chạm, với biết bao bực dọc, cũng như không thiếu tức tối, ghen ghét và hận thù. Có những người đã chia sẻ rằng, càng đọc lời kinh này, thì càng nhức nhối, vì thật là khó để tha thứ, đặc biệt tha thứ cho những người đã gây ra biết bao đau khổ cho cuộc đời mình. Đó là một thực tế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, dù thế nào Chúa vẫn mong chờ chúng ta cố gắng sống sao, để lời cầu nguyện này có thể nở hoa sinh trái trong đời sống thực tế. Vì vậy, tha thứ thật sự là một bài tập cho cả cuộc đời. Đúng thế, khó thì mới tập, mà càng khó thì càng phải nỗ lực tập mỗi ngày. Một tâm tình có thể giúp chúng ta tập sống tinh thần tha thứ, là chúng ta nên nhớ lại sự tha thứ của Chúa giành cho chúng ta như thế nào. Biết bao lần lầm lỡ, biết bao tội lỗi chúng ta gây ra, làm thương tổn người khác, làm thương tổn đến chính bản thân mình, và làm xúc phạm đến Chúa, nhưng Chúa đều tha thứ tất cả. Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi, Ngài đã nói lời xin vâng của tình yêu đối với mỗi người chúng ta, thì lời xin vâng đó có giá trị đời đời. Sự tha thứ của Chúa luôn có chỗ trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta có được đón nhận sự tha thứ này hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống và hành động của chúng ta. “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”. (Mt 6, 14-15). Như vậy, tha thứ cho anh chị em đồng loại là một đòi hỏi giành cho những ai sống đời sống Đức Tin. Chính sự đòi hỏi này cũng là một lời cảnh báo, đừng bao giờ để cho những tự ái, những căng thẳng, những vết thương, sự thù hận và sự chai cứng con tim, “giết chết” lòng nhân từ, nhận chìm thiện chí hòa giải. Đời sống Ki-tô hữu hệ tại phần lớn ở chính lòng nhân từ thương xót, yêu mến sự hòa bình và sẵn sàng tha thứ, như chính Đức Ki-tô đã sống và mời gọi chúng ta sống như Ngài.[ix]
Khi tha thứ, là chúng ta đang xây tựng tinh thần hoà bình trong cuộc sống của mình và của người lầm lỗi với chúng ta. Nói khác đi, tinh thần tha thứ luôn là cánh cửa mở ra một chân trời mới, một tương lai mới cho cả hai bên, như Simon Weil đã nói: “Tha thứ cho người có lỗi với chúng ta, nghĩa là hoàn toàn bỏ qua những chuyện quá khứ, chấp nhận rằng tương lai vẫn còn trong sáng và chưa bị vẩn đục”.[x] Tương lai của cuộc sống chúng ta cần được gìn giữ và phát triển trên nền tảng của tình yêu thương. Nhưng đụng chạm, căng thẳng, giận hờn và đôi khi hận thù không được phép ảnh hưởng mạnh mẽ trên tương lai của chúng ta. Trong chiều sâu của tâm hồn, ai ai cũng muốn có được bình an. Bình an luôn có với những tâm hồn nhân ái và dễ dàng thứ tha.
Ngoài ra, ĐHY Fulton chia sẻ về tinh thần tha thứ mà chúng ta cần phải noi gương Chúa Giê-su Thánh Giá dựa trên ba điều. Thứ nhất, Thiên Chúa thứ tha cho chúng ta những tội lớn hơn tội thiên hạ. Thứ hai, chỉ bằng tha thứ mà thế giới không còn hận thù. Thứ ba, sự tha thứ của chúng ta là điều kiện để mình được tha lỗi. Cụ thể hơn, Fulton giải thích từng điều một:
“Thứ nhất, chúng ta buộc phải tha thứ tha nhân bởi lẽ Chúa đã tha thứ cho mình. Chẳng có sự xúc phạm nào mà thiên hạ làm cho mình, có thể lớn hơn sự xúc phạm chúng ta chống lại Thiên Chúa do tội lỗi mình. Chúa Giê-su đã kể dụ ngôn người đầy tớ ác độc không tha thứ cho bạn mình để giải thích điểm này (Mt 18,21). Trong dụ ngôn, ông chủ tha thứ món nợ mười ngàn nén vàng, ra ngoài lập tức hắn bóp cổ người bạn chỉ nợ y có một trăm nén bạc. Số nợ mà chủ tha cho y 1.250.000 lần lớn hơn món nợ bạn y mắc nợ. Sự chênh lệch biểu lộ chúng ta mắc nợ Thiên Chúa vì tội lỗi, lớn lao hơn người khác xúc phạm đến mình, cho nên phải tha thứ cho thù địch là lẽ đương nhiên, vì lý do Chúa đã tha thứ cho chúng ta gấp nhiều lần hơn về tội đối xử với Ngài như kẻ thù…Người ta từ chối nhận mình có lỗi với Thiên Chúa, cho nên chẳng bao giờ nghĩ mình cần được thứ tha! Họ nghĩ mình không cần tha thứ, cho nên họ nghĩ thiên hạ cũng vậy. Người mà không biết mình có tội với Thiên Chúa, thì ít có khuynh hướng tha tội cho người khác… Người ý thức mình cần phép giải tội nhất sẽ là kẻ khoan dung nhất đối với tha nhân... Bởi vì người ta thời nay quên bẵng tội lỗi của mình, cho nên thói xấu thù hận trở nên cay đắng và sâu sắc hơn. Con người dễ dàng bóp cổ nhau vì vài đồng xu nho nhỏ. Họ quên Thiên Chúa đã tha thứ cho mình tới mười ngàn nén vàng. Xin hãy khuyến khích họ nhớ lại đã được Thiên Chúa thương xót thế nào, họ sẽ khởi sự ăn ở tốt lành với đồng loại.
Lý do thứ hai để tha thứ những kẻ xúc phạm đến chúng ta, là vì nếu chúng ta không tha thứ, thì hận thù ngày càng chồng chất, đến độ sẽ làm nổ tung thế giới vì ghen ghét. Thù hận luôn là mảnh đất màu mỡ, nếu không bị dập tắt, thì nó tự phát triển với tốc độ chóng mặt. Nhiều phe đảng lợi dụng tính chất này của hận thù, nên đã không ngừng gieo rắc nó. Họ biết rằng hận thù phá đổ xã hội nhanh hơn là các đạo binh, nên không khi nào nói về bái ái. Cứ để hận thù phá hoại lẫn nhau và sẽ đạt tới mục tiêu dễ dàng. Lịch sử hai cuộc thế chiến chứng minh điều này là đúng. Làm thế nào ngăn cản hận thù khi người ta vả má lẫn nhau? Chỉ có con đường duy nhất là đưa má khác cho người ta vả tiếp! Tôi muốn nói tha thứ…
Cuối cùng, chúng ta phải tha thứ người khác, bởi chẳng còn điều kiện nào nữa để tội lỗi chúng ta được thứ tha. Thực tế, xét theo nguyên tắc luân lý thì xem ra vô phương để Thiên Chúa tha tội cho chúng ta trừ phi chúng ta có lòng thứ tha. Ngài đã nói: ‘Phúc cho kẻ có lòng xót thương vì họ sẽ đuợc thương xót’ (Mt, 5,7).‘Tha thứ và ngươi sẽ được thứ tha. Hãy cho và ngươi sẽ được cho lại... Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em, vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy’. (Lc 6,37-38).
Có một thứ luật hiển nhiên, không ai có thể thoát được. Bạn không thể gặt, nếu không gieo trước. Nếu bạn không gieo lòng thương xót nơi đồng loại, Thiên Chúa sẽ chẳng xót thương bạn. Như trong dụ ngôn trên, người chủ nợ từ chối tha nợ cho đầy tớ độc ác, bởi lẽ hắn không thương xót tha cho bạn mình món nợ nhỏ xíu. ‘Ấy vậy Cha Thày ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình’ (Mt 18,35). Nếu cái hộp đựng đầy muối, nó không thể chứa gì được nữa. Nếu tấm lòng chúng ta đựng đầy hận thù hàng xóm, làm sao Thiên Chúa đổ tình thương của Ngài vào được? Đơn giản đến như vậy mà chúng ta không hiểu? Nếu chúng ta không có đầy lòng thương xót, chúng ta sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Như vậy, thử thách thực sự của người Kitô hữu là yêu mến kẻ thù thế nào? Chứ không phải thương yêu bạn bè ra sao? Lệnh truyền của Thiên Chúa quá rõ: ‘Hãy yêu mến kẻ thù ngươi, làm tốt cho những ai oán ghét anh em, và cầu nguyện cho những ai bách hại và nói xấu anh em, ngõ hầu anh em là con cái Thiên Chúa, Đấng làm cho mặt trời soi sáng người lành kẻ dữ và làm mưa rơi xuống người công chính cũng như kẻ bất lương’ Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em có công chi? Ngay cả người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm chi lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại không làm như thế sao? (Mt 5,44-47). Cho nên ta phải tha thứ ngay cả đến bảy mươi lần bảy”.[xi]
Ở đây, chúng ta nhớ lại câu hỏi về sự tha thứ của Phê-rô: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (Mt 18, 21). Phê-rô hỏi Chúa và cứ tưởng rằng ông đã hiểu thấu câu trả lời. Thực tế, ông chẳng hiểu gì, cho đến khi ông phản bội Chúa đến ba lần và rồi được Chúa nhìn đến khi gà vừa gáy xong. Đôi mắt nhân từ của Chúa nhìn ông đã giúp cho hiểu được tình yêu bao la của Chúa dành cho ông. Tình yêu đem lại sự tha thứ và giúp ông ý thức sám hối ăn năn về tội lỗi chối Thầy của ông.[xii]
Trở về với câu hỏi về sự tha thứ mà Phê-rô đặt ra. Chúa Giê-su đáp thế nào? “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. (Mt 18, 22). Thật thú vị câu trả lời của Đức Ki-tô! Nếu chúng ta làm một con tính, lấy 1440 phút của mỗi ngày để chia với 490 lần là kết quả của 70 lần 7, thì trong một ngày, cứ 3 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế tha thứ cho nhau là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Thật vậy, tha thứ không cần con số. Đừng đếm bao nhiêu lần cần phải tha thứ. Tha thứ không quen số lượng và không biết đến chấm hết. Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ.[xiii] Và khi sống tinh thần tha thứ, chúng ta đang cố gắng sống như Chúa Giê-su, là cảm thông, nâng đỡ, cầu nguyện cho họ, và không trách cứ những chuyện họ làm, vì có thể họ làm những điều đó, nhưng lại không ý thức và biết rõ về hành động và hậu quả xấu mà hành động đó để lại.
Anselm Gruen còn đi xa thêm một bước trong tinh thần tha thứ. Đó là không chỉ tha thứ cho người có lỗi với chúng ta, mà cần phải tha thứ cho chính bản thân mình.[xiv] Điều này thuộc về phương diện tâm lý cũng cần chú ý. Thật vậy, những ai có lòng nhân từ với chính bản thân, thì đang sống tình yêu thương mà Chúa dạy. Nghĩa là chúng ta cần tập sống yêu thương mình trong ý nghĩa tích cực. Đó là chân nhận những yếu đuối và lầm lỗi của bản thân với một hướng tích cực. Nghĩa là người đó có cảm thức về tội lỗi của bản thân, nhưng không rơi vào tình trạng mặc cảm tội lỗi, đến nỗi rơi vào trong vòng quỷ quyệt đầy tiêu cực, luôn coi mình là kẻ bất xứng, là kẻ có tội, và cuối cùng rơi vào tình trạng depression, mặc cảm với mọi người, sợ hãi mọi người và đánh mất đi niềm vui và ý nghĩa của cuộc sống. Vì vậy, tha thứ cho chính mình là điều cần phải tập. Bí tích Hoà Giải mà Chúa Giê-su lập ra chính là món quà quý báu, để chúng ta có thể tập sống tha thứ cho chính bản thân mình và tha thứ cho người khác, qua tâm tình chúng ta đón nhận ơn tha thứ của Chúa từ nhân trong lòng Giáo Hội.
- Bài tập sống sứ điệp đầu tiên của Chúa Giê-su trên Thánh Giá.
- Đứng trước Thánh Giá và hướng mắt lên Thánh Giá Chúa. Ngắm nhìn Chúa Giê-su đang gục đầu xuống như hướng nhìn về bạn. Hãy mờ lòng bạn, mở đôi mắt của bạn và mở đôi tay của bạn để đón nhận Chúa. Bạn có thể giang đôi tay mình ra như cử chỉ đón mời Chúa.
- Vẫn ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá. Giờ đây chú ý lắng nghe Ngài đang nói với bạn lời tha thứ từ Thánh Giá. Hãy để lời này từ từ thấm sâu vào lòng bạn. Nhắm mắt lại bạn hãy nhẩm đi nhắc lại âm thầm lời này, như là Chúa đang cầu nguyện riêng cho bạn: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.Bạn cảm nhận lời này như thế nào? Có điều gì làm bạn chú ý?
- Qua lời tha thứ của Chúa, bạn suy gẫm và xác tín rằng, Chúa yêu thương bạn. Không có gì lầm lỡ trong tâm hồn và trong con người bạn là không thể tha thứ được. Bạn chỉ cần phải khiêm tốn sám hối và ăn năn với Chúa.
- Để đi sâu hơn, bạn nhớ lại một lầm lỡ và tội lỗi của bản thân. Khiêm tốn và thật tâm sám hối bạn nhẩm đi nhắc lại lời cầu nguyện với Cha trên trời và với Chúa Giê-su: Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, vì con không biết việc con làm; vì con không biết những hậu quả của việc con đã làm. Mỗi lần nhẩm đi nhắc lại một lời cầu nguyện này. Bạn dừng lại trong thinh lặng giây lát, và trong sâu thẳm của tâm hồn bạn hướng về Thiên Chúa từ nhân để cầu xin lòng thương xót nhân hậu của Chúa.
- Ngoài ra, bạn có thể tự hỏi, lúc này có ai là người có lỗi với tôi không? Nếu có ai thì bạn mường tượng khuôn mặt của người đó, đặt họ trước Thánh Giá Chúa. Bạn nhẩm đi nhắc lại lời cầu nguyện của Chúa Giê-su:Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm. Cuối cùng bạn xin Chúa giúp bạn mở lòng để tha thứ cho người có lỗi với bạn.
Kết thúc bài tập và phần suy niệm này, bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha thật chú tâm. Đặc biệt chú ý đến tinh thần tha thứ trong Kinh Lạy Cha.
Mong sao lòng nhân từ của Chúa và sự an ủi này giúp chúng ta mở cánh cửa, để bước vào con đường hoán cải trở về với Chúa Ki-tô chịu đóng đinh trên Thánh Giá, Đấng giàu lòng thương xót, như anh trộm lành bị đóng đinh và bị treo trên thập giá đã hướng nhìn đến Chúa Ki-tô.
[i] RAHNER K., Wort vom Kreuz, t.53-54.
[ii] PAGILA V., Die sieben Worte Jesu am Kreuz, t.24.
[iii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.
[iv] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t. 230-232.
[v] ĐTC Phanxico, Bài Huấn Từ đầu tiên trong Thánh Lễ với các Hồng Y, tại Nguyện Đường Sistine hôm thứ năm 14 tháng 3, 2013. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>
[vi] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.
[vii] SHEEN Fulton, Go to heaven - Con đường về trời, phần số 11 – Đau khổ và ủi an.
[viii] Trích bởi HAMMAN Adalbert G., trong Abrégé de la prière chrétienne, Les Editions Franciscaines, Paris 1995, t.63-64.
[ix] X. NGUYỄN NGỌC THẾ SJ., Lời kinh cha mẹ dạy, t. 139-140.
[x] WEIL S., Attente de Dieu, La Colombe, Paris 1950, t.219.
[xi] SHEEN Fulton, Go to heaven - Con đường về trời, phần số 11 – Đau khổ và ủi an.
[xii] X. PAGILA V., Die sieben Worte Jesu am Kreuz, t.22
[xiii] X. NGUYỄN NGỌC THẾ SJ., Lời kinh cha mẹ dạy, t. 142.
[xiv] X. GRUEN A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần Das erste Wort Jesu am Kreuz.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét