VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT III MC B
Tin Mừng thánh Gioan 2,13-25
13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành
Giê-ru-sa-lem.14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò,
bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền.15 Người liền lấy dây làm
roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của
những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.16
Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."17 Các môn đệ của
Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà
tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? "19 Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."20 Người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? "21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người.22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? "19 Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."20 Người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? "21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người.22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
23 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin
vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm.24 Nhưng chính
Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy,25 và không cần
ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con
người.
13 Since the Passover of the Jews was near, Jesus went up to Jerusalem .
14 He found in the temple area those who sold oxen, sheep, and doves, as well as the money-changers seated there.
14 He found in the temple area those who sold oxen, sheep, and doves, as well as the money-changers seated there.
15 He made a whip out of cords and drove them all out of the temple area, with the sheep and oxen, and spilled the coins of the money-changers and overturned their tables,16 and to those who sold doves he said, "Take these out of here, and stop making my Father's house a marketplace."
17 His disciples recalled the words of scripture, "Zeal
for your house will consume me."
18 At this the Jews answered and said to him, "What sign can you show us for doing this?"
19 Jesus answered and said to them, "Destroy this temple and in three days I will raise it up."
20 The Jews said, "This temple has been under construction for forty-six years, 16 and you will raise it up in three days?"
21 But he was speaking about the temple of his body.
22 Therefore, when he was raised from the dead, his disciples remembered that he had said this, and they came to believe the scripture and the word Jesus had spoken.
23 While he was in
24 But Jesus would not trust himself to them because he knew them all,25 and did not need anyone to testify about human nature. He himself understood it well.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 2,19
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Đây là những
vật ngưởi ta bán trong Đền thờ? (Ga 2,14)
a. Chiên
b. Bò
c. Bồ câu
d. Cả a, b và c đúng.
02. Những người
đổi tiền bạc, Đức Giêsu đã làm gì? (Ga 2,15)
a. Lấy dây làm roi và xua đuổi
họ ra khỏi Đền thờ.
b. Đổ tung ra và lật nhào bàn
ghế của họ.
c. Yêu cầu họ cứ tiếp tục làm
việc
d. Nghiêm cấm họ không được đổi
tiền.
03. Đức Giêsu lên
Đền thờ Giêrusalem vào dịp lễ nào? (Ga 2,13)
a. Lễ Lều.
b. Lễ Cung Hiến Đền Thờ.
c. Lễ Ngũ Tuần.
d. Lễ Vượt Qua.
04. Đền thờ
Giêrusalem được người Do thái xây dựng trong bao nhiêu năm? (Ga 2,20)
a. 9 năm
b. 12 năm
c. 25 năm
d. 46 năm
05. Đền thờ Đức
Giêsu muốn nói ở đây là gì? (Ga 2,21)
a. Đền thờ tại thành
Giêrusalem.
b. Chính thân thể Người.
c. Đạo Do thái.
d. Đền thờ do vua Salomon xây
dựng.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Khi Đức Giêsu
từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhờ lại điều Người đã nói và họ tin vào điều
gì?(Ga 2,22)
02. Đây là con vật
được bán trong Đền thờ? (Ga 2,14)
03. Gần đến lễ gì
của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem và tẩy uế Đền thờ? (Ga 2,12)
04. “Vì nhiệt tâm
lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” được trích từ sách Kinh Thánh
nào? (Ga 2,17)
05. Người nào đã
hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền
làm như thế? (Ga 2,18)
06. Đức Giêsu xua
đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi đâu? (Ga 2,15)
07. Tại thành nào
Đức Giêsu đã tẩy uế Đền thờ? (Ga 2,13-25)
08. Đức Giêsu nói
các ông phá hủy đền thờ này đi, nội trong bao nhiêu ngày Ngài sẽ xây dựng lại?
(Ga 2,19)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.
Tin Mừng thánh Gioan 2,16b.
NGUYỄN THÁI HÙNG
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT III MC B
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề :
Chúa Giêsu trước Đền thờ Giêrusalem
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 2,19
Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
II. Lời giải đáp TRẮC
NGHIỆM
01. d. Cả a, b và c đúng (Ga 2,14)
02. b. Đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ
(Ga 2,15)
03. d. Lễ
Vượt Qua (Ga 2,13)
04. d. 46
năm (Ga 2,20)
05. b. Chính
thân thể Người (Ga 2,21)
III.
Ô CHỮ
01. Kinh Thánh (Ga 2,22)
02. Chiên (Ga 2,14)
03. Lễ Vượt Qua (Ga 2,12)
04. Thánh
Vịnh 69 (Ga 2,17)
05. Người Do
thái (Ga 2,18)
06. Đền
thờ (Ga 2,15)
07. Giêrusalem
(Ga 2,13-25)
08. Ba
ngày (Ga 2,19)
Hàng dọc : Thanh
Tẩy
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 3 Mùa Chay - Năm B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Đền thờ
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ
chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với
ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải
mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái
dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này
một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu
trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho
xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài
thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng
cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi
là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen
được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có
thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành
giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành
đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và
quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào
bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa
Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống
động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam
mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội
khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó
lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của
chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao
lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn
sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam
mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt,
cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo
tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm
cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho
Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta
thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm
cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
Thanh tẩy Đền Thờ
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là
nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ
bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói
nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò
phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm
thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống
và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều
môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm
trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức
được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo
cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ.
Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi
dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu
con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con
bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi
chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành
hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay
trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã
biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật
nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất
cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc
phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật
và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức
Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức
Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần
Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”,
và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”.
Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng
vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn
Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương
tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia
phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con
buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng:
thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn
thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia
người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của
con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã
chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi
(cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con
có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn
ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm
nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một
tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng
Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm
trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được
Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu
chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để
làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến
đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự
ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp
tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn
nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng
liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải
luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi
thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi
những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi
thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ.
Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người
khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị
bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói
khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ
của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân,
để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu
khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần
phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ
xứng đáng cho Chúa ngự?
Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi
giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước
những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền
lành và khiêm nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi những
người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi
bạc! Dù rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi
tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của những người đi
hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất
kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi
đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành
cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã
khiến Đức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa
Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ
xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của
Ngài. Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể được phục sinh của
Ngài sẽ là Đền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng
muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ
phượng, nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi thánh lễ của chúng
ta trở nên máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn, một sức sống lan
tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ.
Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi
lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x.
1Cr 6,19). Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Đam mê vô độ của
thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy
bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ. Có nhiều đền
thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều
dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ
gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp
Chúa không?
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa
gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được
một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình
đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của
bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn
trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không
phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng
thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản
thân chúng con.
Bắt đầu lại trong sự thật
Jean-Yves Garneau.
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến
chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu
trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất
là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng
gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách
mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình
bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là
tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn
sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện.
Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta
đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ
ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có
thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và
dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn
bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về
nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa.
Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem
ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không
chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới
là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền
thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có
sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của
chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta.
Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa
Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành
động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này
đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với
bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư?
Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó
chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người
ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm
rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một
buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình
yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người
chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó
đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối
liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành
lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt
đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về
chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
Đền thờ đích thật của sự thờ
phượng và tập hợp.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Đoạn Phúc âm của thánh sử Gioan nói về Chúa đuổi những
kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa mà người ta khó
lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử khác. Các thánh sử này biên
soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một các khác những tài liệu do
đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra ở đây về sự phù hợp giữa
những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất lãm nói. Không đi sâu vào
chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ tan biến một khi người ta
nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí chung từ một sự kiện riêng rẽ.
Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không có tính cách giai thoại. Bằng
cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan trình bày ở đây cho chúng ta
thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là
Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng các kẻ buôn bán trong
Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho chúng ta: 1. Chúa Giêsu
là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích thân kế tiếp thực- tại
tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chúa xử sự trong Đền thờ với một uy quyền mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa
sai đến và người Do Thái hằng mong đợi, mới dám tự cho mình như vậy, Người xuất
hiện như trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người.
Trước mắt người Do thái đương thời thì đó là đặc quyền dành cho Đấng Thiên Sai.
Họ quả không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc
Thiên Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa
biết họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá tìm sâu rất nhiều câu nói sau
đây của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa tiệm buôn bán”. Dĩ nhiên khi
người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa.
Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán thật sự này nọ. Ví dụ, khi
người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ khi đó, người ta có quyền
dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách thế tục, dầu là ở lãnh vực
chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá Đền thờ này, trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho người Do thái khi họ đòi hỏi Người
một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự phục sinh của Người. Quả thật, Chúa
Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà chính các môn đệ cũng không hiểu
ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại. Sau này, họ sẽ hiểu là Đền thờ vật
chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị phá huỷ, sẽ trở thành vô ích. Nó sẽ
bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền thờ khác sẽ được dựng lên cho việc tế
lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó, chính là bản thân Chúa Giêsu. Người đích
thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của sự ngợi khen và đền tạ. Người quy tụ nơi
mình Người tất cả chúng sinh trong một sự hiệp thông chặt chẽ và phổ quát.
Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích thật) và anh em ta (cách sâu sắc) ở
đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến quãng thời gian vắn vỏi giữa
cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu nói ‘Ba ngày’ này còn có cái
lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày nay, chúng ta quen nói:
‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa thôi. Chúa Giêsu phán:
‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và khi nào Người muốn,
Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta có thể nghĩ đến thân
xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa. Nó sẽ bị cái chết
phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục sinh? Chúng ta biết
rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính toán của con người
đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
Thánh Đường, điểm hẹn
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu,
nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong
hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ
phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người
đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của.
Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi
nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của
mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình
ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã
có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở
đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn
hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ
còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong
hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá
rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ
phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân
làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ
dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau
trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một
lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy
nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã
được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi
đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với
Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được
sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do đó, nhà thờ
phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng, là giải đáp
của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của dân Do Thái trên
mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân được
Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa.
Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền thờ. Vừa bước
vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt: buôn bán
chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật tự. Không cầm
mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị trường, sào
huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay đánh đuổi
những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong sáng cho nơi
cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Thánh
sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn
nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ
xây dựng lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ
Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba
ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô đổ lật nhào
bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá hủy. Phá hủy
sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ phá hủy
những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với Thiên
Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác, ồn ào
trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ, không
còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào huyệt
trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh mất
ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn “việc
của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả
trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm
Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong
Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách
vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào đền thờ nhiều
tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ
tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được Thiên Chúa.
Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ cần đợi dịp
đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình an trong
lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên lời sấm
chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân chúng
chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước mười
điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp, giết
người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi chạy
vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để rồi
tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta
được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ
ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả
cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan niệm bổn phận
đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với anh em
ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ đọc kinh,
dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai ương hoạn
nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta không thể
xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những người
đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi
bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi hẹn
hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây dựng
ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên đới anh
em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm hẹn, là
biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà người
ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu là đền
thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu
trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế
chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới với một phụng
tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh em cũng là chi
thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhà của Cha Tôi
ĐGM. Arthur Tone
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp
đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô
ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra
trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao
lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi
được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất
một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha
Tôi”. Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần gian. Thỉnh
thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ những gì làm
cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án những gì làm cho
nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những người đổi tiền ra
khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi người chúng ta
có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù
nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong câu chuyện.
Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp và thánh
thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà thờ, chúng ta
phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật chất, là bảo
quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích
Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc Rước Lễ, chúng
ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích Thêm Sức,
chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây, trong Bí tích
Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để hầu chuyện với
Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ giúp và lời chỉ
bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người niềm vui, nỗi buồn
của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức Kitô đã làm
trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn Người yêu bạn, bất
kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời. Chúa sẵn sàng tha
thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh nguyện Thánh Thể,
chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng ta gọi Người là
Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền xướng rước lễ
hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim nhạn tìm ra tổ
ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của con, Chúa của
con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như người mẹ trong
câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết sức làm cho nhà của
Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Giữ trong sạch nhà Cha
Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể
chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng
nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham
tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm
cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản
của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách
trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng
nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm
những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là
con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết
cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc
tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các
con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa
Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như
khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong
thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì
người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật
trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn
nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng
một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm
tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi
buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích
nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen
thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là
cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy
điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho
cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng
vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo
đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con
người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản
thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn
khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như thế. Thực vậy, công việc
của những người buôn bán và đổi tiền là công việc đem lại lợi ích cho đền thờ
và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định, thì vào những dịp lễ lớn, người
Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận thờ kính đối với Đức Giavê. Họ từ
khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước hành hương trở về Giêrusalem. Cũng
trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và đóng thuế cho đền thờ. Lễ vật có
thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng tài chính của mỗi người. Bởi đó,
muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông dụng tại Giêrusalem. Muốn có
những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm. Biết đâu, chính Mẹ Maria và
thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi dâng tiến Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ mua bán đổi chác không những
không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc cho đền thờ. Hơn nữa, mặc dù
Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa, nhưng cơn giận ấy không phải sẽ
được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn cảnh cụ thể như thế, vì Chúa Giêsu
ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa của lòng từ nhân và bao dung, như
lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là mục đích mà Chúa Giêsu
muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi đánh đuổi phường buôn bán,
Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên tri, một biểu tượng nhằm đưa
chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa hơn. Các nạn nhân của Ngài
cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông có thể đưa ra dấu hiệu nào
để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã đưa ra dấu hiệu để biện
minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu được: thân xác Ngài sẽ chết,
nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy, Ngài muốn nói lên rằng chính
Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu đã bất bình với
phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà chính vì quan
niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn.
Với tiền bạc, họ có thể mua được những lễ vật. Và khi
đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh
thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên Chúa thi ân đáp
lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa ra: Ngài sẽ phải chết nhưng
sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái uy lực thực sự mà con người
phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình, Chúa Giêsu đã đưa con người từ
quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy lực của Thiên Chúa. Đó chính
là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi trong Mùa Chay, chúng ta hãy
nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã thực hiện cuộc đổi mới này như
thế nào.
Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã có được một
ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm
trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành một cái chợ,
thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và
loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng nhân từ hơn
của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh tới những
nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ giếng Giacóp
Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.
Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi nọ, trong
đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Hay
nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi mà con người
có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai
tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị.
Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu tư số
một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ
không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu biết thờ
phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi nào và bất
kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà thờ cao đẹp,
mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn nữa, có người
hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà
thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây đền thờ cho
Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho Ta ở hay
sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới hôm nay, Ta
đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một chiếc lều
và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì trời là ngai của
Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống, tuy mang tiếng là
một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn chính bản thân
thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên trong căn nhà
của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không cả chốn tựa đầu
và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của người khác. Sống
không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có
cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng đã đi vào dấu
vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra đền thờ cũng
rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết cho Thiên
Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ thiêng liêng
bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công việc tu bổ
kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng, trang hoàng
và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của
Thiên Chúa.
Đền thờ
Chúa Giêsu đã xác định rõ đền thờ là nơi dành riêng
cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là chỗ để giao dịch buôn bán.
Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về việc tôn kính Nhà của
Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng ta càng phải cẩn trọng
và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi dành riêng cho sự thờ
phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử dụng di động trong nhà
thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong nhà thờ là hoàn toàn
không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể
đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để cầu nguyện hoặc đừng
vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện, sống thân tình với
Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện thoại di động vào nhà
thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc cầu nguyện của chúng
ta.
Với tư cách là một linh mục, trong thánh lễ, tôi đứng
ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn xuống dân chúng ở phía dưới, tôi
thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử hành bí tích Thánh thể. Theo tôi,
họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến vấn đề tôn kính Thiên Chúa. Đã
đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các phương tiện kỹ thuật và phải
khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng. Chúng ta hãy tôn kính nhà thờ
là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện, chúng ta hãy bỏ điện thoại
di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi quả quyết với bạn, trái đất này vẫn
tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện thoại di động trong túi áo của bạn.
Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn không trả lời các tin nhắn khi chúng
được gửi đến cho bạn.
Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng
rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá
vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy
năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước
Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon,
Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại
vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy,
mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công
từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ
này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại
người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi
đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của
lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh,
đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo
của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính
thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự,
là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh
thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện
ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài
là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận,
Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những
người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của
Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do
Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết
một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm
Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những
người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần
gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một
người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài
vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong
những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt
cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm
cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha,
Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài
dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm
khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi
tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn
làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì
Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu
đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ,
Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có
quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép
lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm
phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch
đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân
thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền
thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ
Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa
nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã
đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người
biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền
thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa,
lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự
trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của
Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa
muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống
tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật
xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa
Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta
phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong
tự do của con cái Chúa.
Đền thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền
thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel,
Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền
thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể
ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết
lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định
ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ
xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của Salomon, ý định của
Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi
từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta
từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái
đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên Babilon, họ luôn
hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên họ đã làm ngay,
đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là trung tâm của
việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ vào những dịp
lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng tiến lễ vật như
chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng thời đóng thuế
cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn viên đền thờ một
cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo
ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và xua
đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã
biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý nghĩa thiêng
liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở với chúng ta,
đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng liêng trước hết
phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở
thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho
Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì
nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và
lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ
phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng
ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở
nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng
chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu
nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi
cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội
lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang
lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa
Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta không còn phải
là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội
đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu
nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có
một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng
thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ,
đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ,
như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành như một
luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ
một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò,
người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không
có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ
cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho
những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người
trả người thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn
xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu
nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm
mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây
là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ
không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông
dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu
vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến
dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi
tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu
đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng,
duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho
chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá hủy
đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua
đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế,
nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ
phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự,
Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy
hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công
nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu
thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên.
Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả
đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là
thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ
bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này
nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ
của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không
hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích
kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ
nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên
đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan
dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai
nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ
ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ,
hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là
đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là
tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế,
chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự
ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho
chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia
đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và
ban ơn cho chúng ta.
Cơn tức giận
Bối cảnh Tin Mừng mô tả về một Đức Giêsu đang nóng
giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức Giêsu không phù hợp với hình
ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi cười. Dường như điều này vượt xa
tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong những bài Tin Mừng còn lại, đến
nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng tính
cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác. Tất nhiên, Đức Giêsu là một người
hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Người yếu đuối. Khi cơ hội đòi hỏi,
Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc khi nhận thấy Đức Giêsu không
chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử dụng một hình thức như thể là
bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả mọi cơn nóng giận đều xấu xa
cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác, vì thế, nó không tốt và cũng
chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là một điều nguy hiểm, có thể
khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động mà chúng ta sẽ phải hối tiếc
sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều tốt đẹp. Nó có thể thúc đẩy
chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều sai trái tỏ tường. Có những
lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức giận trước một tình huống bất
công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào những điều khiến cho chúng ta
tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường được mức độ tâm hồn của một con
người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó tức giận. Hầu hết cơn nóng giận
của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá nhân, và chúng ta thường tức giận
về những điều vặt vãnh.
Một người đàn ông sống tại vùng ngoại ô của một ngôi
làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn 10 mét, có trồng một cây chanh lớn. Cây
chanh này là ranh giới của ngôi làng. Tuy nhiên, nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ
ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó gãy đổ. Mỗi khi có bão táp, người
đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và mạng sống của mình. Ngày kia, không thể
chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa, ông ta đốn hạ cây chanh xuống. Ông tin
chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông. Nhưng ông đã lầm: Một người nói “Ông thật
xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây tuyệt đẹp như vậy”.
Một người khác nói “Ông đã tước đoạt của dân làng một
phần gia sản”. Tuy là một cách ngoài lề, nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý
riêng của họ bị đe dọa thật đáng ngạc nhiên. Nhưng khi sở thích của những người
hàng xóm bị đe dọa, thì rất ít khi họ nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận vì lý do cá nhân. Cơn nóng
giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối với Thiên Chúa và đối với
mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được coi như một sự phản đối
lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh của đền thờ. Nhưng điều
này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống đối việc người Do thái không hoàn tất sứ
vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo đã trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân
tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một
ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi quốc gia”, nhưng lại trở thành một nơi được
bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng cho dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái
niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ dành riêng cho người Do thái, mà còn dành
cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn công vào chính bản chất thờ phượng của người
Do thái. Với các lễ nghi và hiến tế súc vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền
thờ không còn phù hợp nữa, và không thể làm được gì để đưa con người đến với
Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ
phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều,
hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ vật, và biểu diễn một số lễ nghi.
Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái độ thờ phượng trong cuộc sống của
chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biến ngôi nhà này thành một
ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin cho những việc chúng ta thực
hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng
ta.
Đức Giêsu tại Samari
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến - và chính
là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí”?
Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu thờ
phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu
nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của
chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị
không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn
non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ
thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng
Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời
gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn
nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó,
con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn
nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng
sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên
Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm
của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3;
8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh
thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy
nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với
mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là
cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới,
thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau,
con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn.
Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình
độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài
nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên
Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí
và sự thật “.
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã
đến - và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi
cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được
2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của
chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức
Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng
mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng
Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang
nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc
nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta
hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh
thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi
là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách
nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần
tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ
thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí (pneuma - esprit -
spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần
khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy
được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc
thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không
gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng
liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình
diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành
vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành
vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải
nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết
hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên trời thừa
biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên
Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời
nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng
nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7).
Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự
hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu
Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là
vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính
Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa
qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí.
Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật
nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng
ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên
Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế
không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời
gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm
nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta,
thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng
không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một
biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến
trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã
sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Việc quan tâm thi hành thánh ý
Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở
thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ
phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi
những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ
trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên
Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư,
tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn
vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ
phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ
phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ
toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của
Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong,
người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ
không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc
hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên
Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng
bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: “Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc
chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói
rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống
thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: “Xin tha cho
con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt
bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm,
họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên
Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự
ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: “Lễ
toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng
thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta
không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những
người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu
tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta,
Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không
nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các
ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta
có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể
đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán những lễ nghi
rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra
có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ
lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”
Suy niệm của Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ.
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu
không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha.
Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn
con buôn với tiền bạc, chiên bò, chim câu... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền
Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa
sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và sẽ
tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ phượng tại Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ
có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy sau này.
2) Chú thích:
* Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên
thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu,
và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất
cả bọn họ cùng với chiên bò r a khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 13-15):
+ Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, Đức Giêsu lên thành
Giêrusalem: Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người
Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa
tiệc chiên vượt qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa dùng Môsê,
giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai cập.
+ Người thấy trong Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức
Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu hỏi: Theo lịch sử dân Ítraen thì đã có bao nhiêu
Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem và cấu trúc của các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp: Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian
40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại
Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ Hêrôđê như sau:
Đền thờ Salômon: Dưới triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã
được đem về Giêrusalem, nhưng vẫn còn được để giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x.2 Sm
6,17). Vua Đavít muốn xây một Đền Thờ để kính Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan
tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ dành việc xây dựng ấy cho con của ông (x.2 Sm
7,2.13). Sau đó, vua Salômon đã thực hiện ý định của vua cha Đavít vào năm 970
và Đền Thờ đã được hoàn tất sau 7 năm thi công (1 V 6,37-38). Đền Thờ này nằm
giữa một khu đất rộng là Sân Trước. Tại đây có Bàn Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x.
1 V 8,64). Đền Thờ có chiều dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước và chiều
cao mười lăm thước, gồm Gian Tiền Đình, Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại
Gian Cung Thánh có Bàn Thờ Hương, Bàn Bánh Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x.
1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi Cực Thánh nằm giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá
hương và được dát bằng vàng ròng (x.1 V 6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia
Giao Ước được đặt ngay dưới đôi cánh của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm
586 trước Công Nguyên, quân Babylon xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền
Thờ Salômon này cũng bị phá hủy. Các báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt
mang về Babylon.
Đền thờ sau lưu đày: Được xây trên nền của Đền Thờ cũ
và kích thước cũng như trước. Đền Thờ này kém bề thế hơn và Nơi Cực Thánh để
trống không. Trong Gian Cung Thánh có đặt một Chân Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn
đèn như trong Đền Thờ Salômon trước đó. Dân hồi cư trước hết đã tái lập Đền Thờ
Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền Thờ Kéo dài trong 5 năm và được thánh hiến vào
năm 515 trước Công Nguyên. Năm 169 Đền Thờ này lại bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt
và xúc phạm. Đến năm 164, Giuđa Máccabê đã thanh tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ
Toàn Thiêu mới và trang hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền thờ Hêrôđê: Để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng,
Hêrôđê đã mở rộng chu vi và trang trí lại bên trong Đền Thờ. Công việc trùng tu
Đền Thờ bắt đầu từ năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới
tạm xong và được tổ chức khánh thành các công trình chính (x.Ga 2,20). Sau đó
việc trùng tu Đền Thờ lại tiếp tục đến năm 63 sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về
mặt cấu trúc: Đền Thờ có bốn hàng cột nằm ở ba mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có
hành lang Salômon (x. Cv 3,11; 5,12); Phía Tây Bắc có pháo đài Antônia thông ra
sân ngoài. Nơi đây thường xuyên có một tiểu đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục
đích giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp lễ lớn của dân Do Thái và sẵn sàng
trấn áp bạo loạn (x. Cv 21,31-37). Đền Thờ có bốn cổng lớn. Một bức tường bằng
đá được dùng làm ranh giới cấm lương dân vượt qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân:
Bên ngoài bức tường đá là sân lương dân, là nơi các luật sĩ thường lui tới bàn
luận với nhau (x. Cv 3,11). Sân nữ giới nằm giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn
thông với Cửa Đẹp (x. Cv 3,2). Tiếp theo là sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối
cùng là sân Tư Tế. Tại đây có đặt một Bàn Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước,
toàn bộ thánh điện được thiết kế giống như Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi
Thánh và Nơi Cực Thánh. Về số phận của Đền Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự
sụp đổ của Đền Thờ này (x. Lc 21, 5-7). Người cũng báo cho các tín hữu biết
trước về ngày thành Giêrusalem bị quân thù kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt.
Sự kiện này được coi như hình bóng của Ngày Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật,
lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và
quân Rôma do tướng Titô chỉ huy đã đến bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06
tháng 8 năm 70, thành đã bị thất thủ. Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã
ném một bó đuốc vào trong Đền Thờ, lửa bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung
Thánh và Nơi Cực Thánh và toàn bộ Đền Thờ đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh
như chân đèn 7 ngọn và Bàn Thờ Dâng Bánh còn sót lại và được mang về Rôma như
chiến lợi phẩm (x. Dcr 14,1).
+ Có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang
ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho một số người bán chiên, bò và
chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật cúng tế trong Đền Thờ (x. Ga
2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rôma lưu
hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký hiệu của hoàng đế Xêda (x. Lc
20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân Do Thái muốn đóng thuế Đền
Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì trước hết phải đổi từ tiền
của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi mới được đóng góp (x. Ga
2,14).
+ Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ
cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do bọn con buôn gây ra như thế
khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng giây thừng cột
thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành roi rồi dùng roi ấy đánh đuổi
bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
* Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả
những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Các
môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: "Vì nhiệt tâm lo
việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Người Do Thái hỏi Đức
Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm
như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội
trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2,16-19):
+ "Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn
bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. "Nơi buôn
bán" hay "hang trộm cướp" là kiểu nói diễn tả tình trạng bất
kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa! Thế là ứng nghiệm
lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (x. Gr 7,11).
+ "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ
phải thiệt thân": "Sẽ phải thiệt thân" nghĩa là "sẽ phải
chết". Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với
Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x.Ga 15,5).
+ Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ
nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?": "Người
Do Thái" trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ như các Tư Tế và Lêvi.
Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch
hỏi Đức Giêsu dựavào dấu lạ nào để chứng minh mình được Thiên Chúa sai đến thực
sự và có quyền xua đuổi con buôn như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức
Giêsu chứng minh Người được Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm phép cho họ
thấy mà tin Người (x. Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
+ "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại": Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng
Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày.
Tuy nhiên Đức Giêsu xử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi
thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì
cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
* Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn
mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?"
Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người
từ cõi chết chổi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh
Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (Ga 2,20-22):
+ Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Các đầu mục
Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới
nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công
Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm hoàn thành những công trình
chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi
Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu do Caipha chủ tọa có hai kẻ đứng ra
cáo gian rằng: "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội
trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Họ cũng nhắc lại điều tố cáo này
khi lăng nhục Người trên thập gía (x. Mt 27,40).
+ Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân
thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình
ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân Thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng
Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23-24).
+ Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại
Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác
động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (x. Ga
12,16; 14,26).
+ Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói: Lời
Thiên Chúa trong Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu tiên báo đều đã được ứng nghiệm
(x. Ga 18,9.32). Do đó cả hai đều được các môn đệ tôn trọng.
* Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt
Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm.
Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai
làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người
(Ga 2,23-25):
+ Nhiều kẻ tin vào danh Người. Nhưng chính Đức Giêsu
lại không tin họ: Phép lạ chỉ kích thích trí tò mò làm cho người ta đến xem để
biết thực hư ra sao. Nhưng đức Tin là bởi nghe (x. Rm 10,17) chứ không bởi
thấy, như lời Đức Giêsu Phục Sinh nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông
dân chúng tin Đức Giêsu vì đã thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18).
Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy như vậy là đức tin bất toàn và không bền vững.
Do đó Đức Giêsu không mấy tin các tín hữu này. Thực vậy, khi bị xét xử trước
tòa quan Philatô, trong số đám đông dân chúng đòi kết án tử hình thập gía cho
Đức Giêsu, chắc không thiếu những kẻ đã từng tin và hoan hô Người là "Con
Vua Đavít", "Đấng nhân Danh Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn
vào thành Giêrusalem (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). Đàng khác, không phải cứ
trông thấy phép lạ là người ta sẽ tin. Các kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng
kiến bao phép lạ người làm, thế mà họ đâu có tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu
diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ xuyên tạc để lôi kéo dân chúng đừng tin
theo Người, như nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ" (Mc
3,22).
+ Người biết họ hết thảy: Thánh gioan đã ghi lại nhận
xét này khi thấy dân chúng nô nức đi theo Đức Giêsu. Người biết rõ ý của họ và
đã nói thẳng với họ rằng: " Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi
không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no
nê!" (Ga 6,26). Trong phép lạ chữa bệnh nhân bại liệt, Mátthêu cũng viết:
"Đức Giêsu biết ý nghĩa của họ liền nói: Sao các ông lại nghĩ xấu trong
bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. Đừng
biến Nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16):
Câu chuyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim
"Tiếng chim hót trong bụi mận gai" mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người
Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm
của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy
nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng
tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là
một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có
khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời
ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ
Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng
không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù theo
kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời
vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản
kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải
cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã
thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội.
Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần
của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi,
trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn
hứa.
Suy nghĩ và thảo luận:
+ Suy nghĩ: Câu chuyện trên dầu sao cũng nói lên một
thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay bậc sống nào, nếu
không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy cơ bị ngã gục trước sức mạnh
của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc
sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như lời Chúa dạy: "Kho
tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21). Tiền bạc giúp người ta
sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo
tặc!". Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ chức từ trên xuống
dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ, truyền giáo, bác ái
xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh... Tuy nhiên,
"Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu". Bao
lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được rất nhiều việc tốt
đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên cũng được!".
Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích cuộc đời mình.
Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy giờ đồng tiền sẽ
trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người dưới, bất nhân độc
ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi tranh chấp quyền
lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh doanh làm ăn, vô
lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời sau...
+ Thảo luận: Theo bạn thì việc thờ phượng Thiên Chúa
tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội, Giáo Hội có cần tiền bạc
không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo Hội có tiền bạc để phụng
sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như Đức Giêsu sắp đến viếng
thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì trong tâm hồn của bạn để
tránh bị Người nổi giận?
2) Tránh trở nên chướng ngại vật cản trở tha nhân tìm
đến với Chúa:
Câu chuyện: Niềm tin của Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi còn là một sinh viên, Găngđi (Mahatma Gandhi) được
du học tại Nam Phi một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân
biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Găngđi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo
và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc
thật trong phần Bài Giảng Trên Núi. Ong rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một
tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang
hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân...Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô
giáo chính là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt
giai cấp trong xã hội An Độ quê hương của ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và
sớm gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Găngđi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để
mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công
Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và
không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của
mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: "Đây là Nhà
thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến
Nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!". Găngđi rất tức giận và bỏ
về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: "Tôi rất thán
phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Người. Thế nhưng
tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Người! Nếu trong
đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo đâu có hơn gì
Ấn Giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này.
Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo
giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!".
Suy niệm: Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta chắc
cũng có lần trở thành một chướng ngại vật, ngăn cản anh chị em lương dân tìm
đến gặp Chúa. Chỉ cần một lời nói sẵng giọng và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh
nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh dễ coi thường tha nhân, một hành động
hẹp hòi ích kỷ trái với tinh thần quảng đại vị tha của Tin Mừng hoặc một gương
mù gương xấu nơi vị chủ chăn...là có thể chúng ta đã xua đuổi anh chị em lương
dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó còn cơ hội nào khác để trở lại.
3) Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây
dựng lại (Ga 2,19):
Câu chuyện: Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá
điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng
đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã
lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến
chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với
nhau trước khi ngủ. Họ luôn sốngvui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to
tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một
gia đình đạo đức tiêu biểu và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác
học tập noi theo. Ông chủ đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá
điền kia có thật hay không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100
đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền.
Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng
được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội
đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn
uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ
chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu
ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền
ngay dưới gối và nằm đè lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả
hai đều không dám rời xa chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán:
"Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc
nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường.
Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và
đọc kinh tối chung với nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân
túi tiền đến đòi lại số tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều
suy nhược và bị cảm ho đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng
của đôi vợ chồng này, một hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói
chuyện, ông đã ôn tồn giải thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh
của họ. Ông cũng tường thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để
chứng minh lời Đức Giêsu nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!...Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và
lời thánh Phaolô: "Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ"
(1 Tm 6,10). Ông bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả
lại túi vàng cho ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền
đã tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc
kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và
thực thi giới răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra uy nghiêm và quyết
liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, không ngại bị họ thù
ghét làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắn hẳn Chúa
đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị coi thường.
Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số
nười thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ thành một bãi rác lộ
thiên. Rồi chó mèo tự do phóng uế làm mất vệ sinh chung sân Nhà Chúa. Rồi cả
những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích và đàng
điếm... gây cảnh ồn ào náo loạn làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở
nơi dành riêng cho việc thờ phượng.
Lạy Chúa, nhất là thân xác của chúng con là Đền Thờ
Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng con suy nghĩ, nói
năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì
theo ý Chúa, khi chúng con chiều theo các đam mê lạc thú bất chính mà phạm tội
mất lòng Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con thanh tẩy
tâm hồn và thể xác nhờ siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, tích cực tham
dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình để biểu lộ tâm tình sám hối, quyết
tâm đổi mới đời sống để mỗi ngày trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và
sống hòa thuận yêu thương để trở thành anh chị em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng
con.
2) Lạy Thánh Mẫu Maria, trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu đã trả lời cho các đầu mục Do Thái về dấu lạ chứng minh Người có
quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền Thờ. Đó là: " Cứ phá hủy Đền Thờ do
tay người phàm xây dựng, và chỉ trong ba ngày tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác
không phải do tay người phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy Mẹ, chúng con hiểu rằng Chúa muốn dạy chúng con:
cần phải phá hủy con người cũ với những đam mê tội lỗi, để từ đó phát sinh ra
một con người mới thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Những việc thờ phượng có
tính hẹp hòi, nặng hình thức phải được thay bằng một tâm tình yêu mến tha
thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). Vậy trong
những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ giúp chúng con thanh luyện và đổi mới cách thờ
phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng
con.
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
Chú giải của Lm Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song
với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên,
có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ
của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng
bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16)
thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và
//) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ
xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất
Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết,
theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán
khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng
dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế
đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các
Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu
chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều
thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những
người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng
những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây
liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc
11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng
Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú
giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời
gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG
(Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp
với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất
Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất
Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy
nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì
ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái
chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại
cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về
việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ.
Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu
sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài
tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức
Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được
chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những
người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai
luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ
(2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô
(2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên
gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc
tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc
19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo
Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ
(đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại,
khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã
hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh
đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm
về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả
Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào
Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề
cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội
ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một
mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông
sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”.
Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù
hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và
tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng.
Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào
năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời
Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường
thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19,
sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp
với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15
triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- ... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ
cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích
của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo
Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết
hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ
lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói
cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ
khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh
Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26;
15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như
với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với
nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả
Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó
có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự
Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh
Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so
sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu
đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người.
Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị,
nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không
phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân
thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua,
lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng
niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ
thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và
gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân
Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ
mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn
khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra
một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương
đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại
Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất
của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm
kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng
các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách
hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con
chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những
người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày
công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại
đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng,
bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này
thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm
việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật
và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách
Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức
Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử
dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có
thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là
đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng
trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta
tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên
Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn
là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này
ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt
các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm
ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh
Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang
đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật,
Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa
tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại
nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng
của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn
lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được
gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi
nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức
Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả
bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ
câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha,
Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân
lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự
thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức
Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên
Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh
tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng
nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh
và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy
đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ
phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác
viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68:
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì
sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố
rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức
Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt
Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ
Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê
đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để
thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập
một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được
thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ
(18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư
tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu
lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây
là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh
đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa
Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu
sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là
các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa
lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở
Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận,
mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí
Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa
thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với
uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng
Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách
làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ
mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu
này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở
thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử
là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như
ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người
Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là
điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ
rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra
người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt:
là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu
nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là
những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút
nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng
như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những
người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng
tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)].
Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu
trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền
Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ:
Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng
cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra
vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông
mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và
lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu
trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn
toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người
dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi
(Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày,
tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn
toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành
của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các
đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa
Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai
nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách
Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn.
Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến
thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy
rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức
Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách
của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của
Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là
“nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ
phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu
một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của
Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên”
thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu
mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và
vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể
gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các
đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc
chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận.
Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết
Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi
hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm
thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và
họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới
đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức
Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với
họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người
sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”;
hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì
nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha,
Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm
chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ
tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và
xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng
một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục
Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay
nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện
không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa,
thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm
chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta,
chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc
về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn
bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải
trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn
đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin,
để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với
nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai
phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta
cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu,
chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu
có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các
ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các
ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân
cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng
ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám
phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống
lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học
khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu
và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được
dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng
ta chăng?
Chú giải mục vụ của Alain
Marchabour
DẤU LẠ CỦA VIỆC THANH TẨY ĐỀN THỜ (2,13-22)
Cả bốn Tin Mừng đều trình thuật về Đền thờ (Mc
11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác, có nhiều điểm khác
biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian: đối với Gioan, đó
là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các sách Tin Mừng Nhất
Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là tác giả duy nhất
tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng việc người Do
Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền thờ và xây
dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di dịch biến
cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi đầu đời
sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội của
mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của người Do
Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2 nhân dịp
lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các tín hữu
tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định quang cảnh và địa điểm. Chúa
Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và Người lên đây đúng vào “lúc gần
đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Dụng ngữ này, lặp lại ba lần trong Tin Mừng
(6,4; 11,555) xác định sự chính xác về nguồn tin của Gioan. Ba lần lễ Vượt Qua
phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Chúa Giêsu. Đem so chiếu với
những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do Thái này có một ý nghĩa khác nơi con
người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các hành lang trên sân Dân ngoại
(tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ không phải bên trong Đền thờ.
Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người ta muốn cho khách hành hương,
nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được chiên bò dâng làm của lễ hiến
tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những quyền của Thiên Chúa, xem điều
đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc. 15-16)
Việc can thiệp của Chúa Giêsu liên kết với những hành
động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ điệp cho có hiệu quả hơn. Nó
gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động ở đây dồi dào hơn ở trong
bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều chiên bò trong Đền thờ. Thời
bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một chợ súc vật dùng làm của lễ
dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh tục hóa như thế, Chúa Giêsu
chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như Giêrêmia (7,14), Malakhi (3,1)
hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người chứng tỏ việc tẩy uế Đền thờ được
tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến hành.
Lời Người nói có hai phần: Trước hết Người yêu cầu chính
đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa. Lời này không hẳn là một trích dẫn
Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến trong Zacaria 14,21: “Vả trong ngày đó
sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ Chúa quân lực nữa”. Ở đây Chúa Giêsu hành
xử như Người bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa. Người vén lên bức màn về mối
liên hệ duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu đáp ứng yêu cầu
dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về Đền thờ. (không phải hieron nữa, mà là naos,
nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các sách Tin Mừng Nhất Lãm về vấn đề
này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm có một câu gần gũi với câu trên
nhưng với những điều khác biệt quan trọng: trong Nhất Lãm, lời tuyên bố về việc
phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng gian hiểm độc nói lại; còn trong Gioan,
lời này được đặt vào trong môi miệng Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Maccô, việc phá
hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu: “Tôi sẽ phá” (14,58); trong Tin Mừng
Gioan, lời nói đó đối đáp với những người đối thoại: “Các ông cứ phá hủy Đền
thờ này đi”. Ngoài ra Gioan cố ý dùng cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại Đền thờ này”
để chỉ công việc xây dựng cũng như để chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu được nền tảng lịch sử rõ ràng
về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một hành động tượng trưng chống lại
các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của các người đổi bạc là cần thiết để
khách hành hương có thể đổi những đồng bạc mang dấu ấn triều đình để lấy đồng
tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia súc dùng làm của lễ dâng cúng là
một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng triệt để về việc thờ phượng do Chúa
Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi theo chiều hướng đó. Chỉ cần lưu ý
đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình Anna, thượng tế tiền nhiệm của Caipha.
Bù lại, một sự công kích triệt để như thế về của lễ dâng cúng đã được cộng đoàn
của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ bị phá hủy, đánh dấu sự kết thúc việc hiến
tế.
Tác giả thận trọng về các vấn đề trên: ông để tâm đến
việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào trong bài trần thuật của mình
nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên quan mật thiết với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều kể đến một
sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng không, đền thờ trống vắng. Mối liên hệ với
lễ Vượt Qua được chú ý trong bài trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba, vinh
quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời chú giải của thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong
bài trần thuật những suy tư của riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn
đệ của Người nhớ lại…” (2,17). Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi
của Gioan, có đoạn sau:
“Anh em nhà kể con như người dưng nước lã
Hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu”.
Vậy nên, Gioan hiểu được sự cô đơn của Chúa Giêsu đối
với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc của Người) cũng như hiểu được
số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa của Chúa Giêsu đưa Người
đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của thánh sử tiến dẫn nguyên nhân
của sự phục sinh. “Các môn đệ nhớ lại…và tin”.
Trong bài trần thuật này, Đền thờ mới, Chúa Kitô,
chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên soạn Tin Mừng), ta sẽ không
khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh Thánh, các sự kiện liên quan
đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP (2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên một sự chuyển tiếp khéo léo
giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô.
Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ với sự cương quyết dứt khoát
với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần thuật về Cana và hành động ngôn
sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong Đến thờ. Đồng thời sự cảm nghiệm
thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân vật tiêu biểu của Do Thái giáo:
ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn được xem như không thể tiếp bước
theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người. Sự nghi ngờ này xảy ra ở giữa sự
từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính cống và đức tin của các môn đệ.
Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem (xem
thêm 4,45)
Chú giải của Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên
thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo.
Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những
buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc
biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi
chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông,
đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền
thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự
Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ
vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là
thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang
Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do
Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2)
nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là
những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt
qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu
nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền
thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ
câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi
tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi
bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ
câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh
này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm
roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta
cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa
thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu
đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những
kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những
người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây,
Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng
biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là
những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến,
đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp
Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng
gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc
2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên
cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta
rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc,
sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ,
xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu
quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của
tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta
cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng
dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không
nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức
Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán
với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn
tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó
đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối
tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền
thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được
phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí
thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng
chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết
sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người
là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay
cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha
con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể
hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà
là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối
bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào
thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn
thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô.
Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa
là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ
vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng
tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh
lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt
tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở
đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã
phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị
xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con
người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây
xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ"
(iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu
nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ
"đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và
Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ
những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía
trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ
phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không
tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý
giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện
(shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố
cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất
lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn
toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm
tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm
hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của
Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như
thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi
hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường
ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một
kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính
mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh
điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên.
Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là
ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi
Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là
nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn
đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế
nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31).
Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và
làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị
xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước
mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ
thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại
Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu
đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu
trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc
giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu.
Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa
hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình
Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này.
Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh
Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern
là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của
con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa,
và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục
sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người
đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền
thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr
6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục
nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen"
với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản
thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình
thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao
ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho
Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp
vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế
giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường
hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình
Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi
"trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua,
có nhiều kẻ tin vào danh Người.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện
Đà Lạt
TẨY UẾ ĐỀN THỜ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của người Do thái gần đến”. Thời gian xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ Vượt qua trong
đó Chúa Giêsu sẽ bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế Đền thờ và cuộc
Tử nạn của Chúa Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47 ghi chú
rằng việc can thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo Do Thái giáo,
sẽ thúc đẩy các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người".
"Người gặp thấy trong Đền thờ": Đền thờ gợi lên tất cả hệ thống
phụng tự cổ xưa vốn tập trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại đó, các lái buôn bán
súc vật để làm lễ hy tế riêng và những người đổi tiền đổi cho bạn tiền Do thái
(tiền cũ của vùng Tyrô) là thứ tiền duy nhất được chấp nhận để trả thuế Đền
thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ này cảm hứng từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn
đối chọi hoàn cảnh hiện tại (‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn
(‘một nhà cầu nguyện’), nên dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ lại": Các môn đồ chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc
Thần khí đã cho họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả
mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính trị thiêu
đốt bởi lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa, nhưng lòng
nhiệt thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng sẽ còn trích
dẫn thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn chia Chúa Kitô.
Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại là như sau:
cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt thành đối với
Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và cái chết cho
bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và phụng tự cũ hầu xây dựng
một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới (cc.19-20); việc đi từ cũ sang
mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Người.
"Người Do thái": Trong thực tế, đây là các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh)
có trách nhiệm về những chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi
trong Tin Mừng của ông, Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do
thái đã từ chối tin vào Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự
của toàn dân Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động phi thường vốn sẽ
biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38; 16,1; Mc 8,11 và
Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái. Dcr 1,22 bảo
người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi": Vì không tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi
hỏi. Về sau câu nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong
vụ án xử Người (Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới
chân thập giá (Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng
với câu Người trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người,
Người đã nói về Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị
tục hóa chính là thân thể phục sinh của Chúa Kitô.Tín hữu thành Ephêsô, độc giả
trực tiếp của Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và
12,27 (được viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là
Đền thờ của Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của
Phaolô, Đền thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục
sinh mà mọi tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục sinh từ cõi chết, môn đồ
người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường
ghi nhận là các môn đồ không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ
hiểu rõ sau ngày Chúa Kitô phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu
được tôn vinh, họ mới nhận lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu
các dấu chỉ Chúa Giêsu đã làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các
môn đồ được liên kết với sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác
thực của những gì Chúa Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí,
Đấng duy nhất giúp cho họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh thánh": Ta không rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với
Cv 2,24t; 13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn
đối chiếu với sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là
Kinh Thánh (lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện
(so sánh Ga 18,9.32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những câu chuyển mạch nhằm chuẩn bị
cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô; chúng giải thích việc Nicôđêmô đến
(3,2), niềm tin bất toàn của ông và những lời Chúa Giêsu khiển trách ông
(3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô như thế được đặt trong một
khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là vậy: để ra một vài câu để đặt các
trình thuật biểu tượng và thần học của ông trong một khung cảnh lịch sử: so
sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21.40-42; 11,55-57; 12,17-19.41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh Người": Nhiều kẻ tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào
tất cả mầu nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà
thôi: nó không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang của Đền thờ và qua thân thể
bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất hiện trong một thân xác người
đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu ước
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu Phục Sinh
mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chắp dây thừng làm
roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà 20 năm về trước, Người đã
vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của một người Israel khôn lớn.
Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì bị nung nấu bởi lòng nhiệt
thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng cách xứng đáng, vì bị thúc
đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng "hiền lành và lòng đầy
khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội nhân, Chúa Giêsu cũng là
người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là một thượng thánh im lìm
song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản ứng và tỏ ra kinh khủng
khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2) Chúa Giêsu cũng muốn dùng phương pháp trên để giải
phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ đích thực của Thiên Chúa hằng
sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta hơn cả những nhà tâm phân học;
biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô thức của chúng ta, biết các con
vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết sức muốn giải phóng ra khỏi
cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người đã được dựng nên giống hình
ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống sự sống thần linh.
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài hầu những ai tin
vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3) Trong dịp lễ Vượt qua đầu tiên của đời sống công
khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng khác với Môsê: Người thiết
lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì danh Cha, Người muốn có một
phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình yêu và tự do, một phụng tự
tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được thi hành một cách tuyệt hảo:
"Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến yêu Ngài trên hết mọi sự
".
4) "Hãy phá hủy Đền thờ này đi, và nội trong ba
ngày Ta sẽ xây dựng lại". Nghĩa là thân xác Chúa Giêsu sẽ bị đánh dập nhừ
tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong thực tế, vào ngày thứ sáu
Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời này: Tên này đã nói: Ta có
thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ xây cất lại (Mt 26,61). Tại
đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà rằng: "Mày định triệt
hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu mình đi" (Mt 27,41).
Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ, trong đó, Chúa Giêsu đã dâng
hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân loại. Trên thập giá, Người đã
vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng một lúc; thành thử đối với
chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân thể Chúa Kitô, trái tim Chúa
Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể kết hợp với Chúa Kitô tư tế và
hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo vật được giải phóng tuyệt hảo
nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến thắng trong thân thể phục sinh
của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng cố mãi mãi.
5) Người Kitô hữu là Đền thờ Thiên Chúa. Phạm tội là
biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như thế xua đuổi Thiên Chúa ra
khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết đền thờ tâm hồn chúng ta
để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU XUA ĐUỔI NGƯỜI BUÔN BÁN
RA KHỎI ĐỀN THỜ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn
bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa nhật trước trích từ Maccô,
thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời
gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ
ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn
tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo
Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức
Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên
Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần Gioan nhắc lại công thức này 4
lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục Sinh
của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của Israel (X.Léon-dufour,
"Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy "trong đền thờ có những kẻ bán
chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ "Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực
thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những
người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu
hoàng đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng
tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho
việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp
của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách.
+ Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn
sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với
những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất Lãm: "Đức Giêsu cầm lấy
một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, người lật đổ
bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
+ Lời giải thích rất ý nghĩa: "Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” - Lời này gợi nhớ
ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời,
lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour, "L'evangile de Jean",
Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu
và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ "nhà của Chúa”,
mà Người nói "nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi
người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức
Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền
thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào
chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt
họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền Thờ phải
được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá Đền Thờ
này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (từ
‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ "sống lại) X.
Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang được
Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà Người sẽ là kẻ xây
dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean", cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc
nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu trong một loạt
những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại
những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi Người từ cõi chết
chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời
Đức Giêsu đã nói".
+ Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá
ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: "Vì
nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Họ hiểu ra
rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến
cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện
lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
+ Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp
gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết luận: "Có thể nghĩ rằng,
đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự
bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó,
sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan
tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đức tin, người
Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với
những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ
là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng
niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của
Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong cuốn "Nous avons vu Sa
gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những chương đầu của Tin Mừng, thánh
Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu
nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến
việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi
Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử
chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và
những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của
một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời
Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Người
Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một đấu
lạ để biện minh cho hành động của mình: "Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ
cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu trả lời họ bằng
rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày
tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ
trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ
ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể
Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người.
Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và
những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa
Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần
phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy
sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu
nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa giữa nhân loại".
2. Một đền thờ mới xây dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn "100 mots pour dire la
foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn
giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất
trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực
là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của
Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy
nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết, Tân Ước
còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng
những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là
đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí
nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để
hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một
thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux
catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm
quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết
là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như
thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu
hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống
kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều
có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận
được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để
tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các
cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp
những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng
truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần
của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời
khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn
Giáo Hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét