TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG CỰU ƯỚC
Kinh Thánh nhạo cười các thần linh giả dối của dân ngoại là “có miệng mà không biết nói” (Tv 115,5; Br 6,7), đó là các “ngẫu tượng câm” (1Cr 12,2). Trái lại, một đặc tính quan trọng của Thiên Chúa hằng sống là “nói”. Vì vậy, khi dạy Kinh Thánh các Soeur, tôi nói vui rằng người ta nói con gái nói nhiều thì đó là một lời khen đấy, vì như thế là giống Thiên Chúa, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa: Chúa sáng tạo vũ trụ bằng lời nói, mạc khải chính mình cho dân Israel bằng lời nói, đặc biệt nhất là Mười Lời (Mười Giới Răn), Chúa nói qua các ngôn sứ, và sau cùng là qua chính Lời của Người là Đức Chúa Giêsu Kitô nhập thể làm người.
Chúng ta cùng tìm hiểu Lời Chúa trong Cựu Ước.[1]
I. CỰU ƯỚC
Các ngôn sứ
Sấm ngôn là một trong những yếu tố căn bản của Cựu Ước; Thiên Chúa ngỏ lời với những kẻ được Người tuyển chọn, những người này có sứ mạng rao truyền Lời Chúa. Theo nghĩa rộng của từ, đây là các ngôn sứ. Thiên Chúa ngỏ lời với họ theo nhiều cách khác nhau: bằng “giấc mộng và thị kiến” (Ds 12,6; x. 1V 22,13-17), bằng một sự linh hứng bên trong (2V 3,15…; Gr 1,4;…), còn với ông Môsê thì “diện đối diện” (Ds 12,8). Tất cả các ngôn sứ đều ý thức rõ ràng Thiên Chúa nói với họ, Lời Chúa đi vào trong họ cách nào đó, gần như kiểu bạo lực (Am 7,15; x. 3,8; Gr 20,7 tt). Đối với họ, Lời Chúa là điều chính yếu quyết định hướng đi của cuộc đời. Cách thức lạ thường mà Lời Chúa khuấy động lên trong họ khiến họ nghĩ đến nguồn gốc khởi phát là Thần Khí Thiên Chúa. Tuy vậy, trong các trường hợp khác, Lời Chúa cũng đến với họ theo cách thức bí nhiệm hơn, thường thì phù hợp với tâm lý chung hơn. Đây là những cách thức mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa vay mượn để ngỏ lời với con người (Cn 8,1-21.32-36; Kn 7 – 8), hoặc để dạy con người cách sống, hoặc bộc lộ những bí nhiệm siêu nhiên (Đn 5,11 tt; x. St 41,39).
Nhưng Lời Chúa không được giữ kín mà phải được trao đi, không phải chỉ cho một nhóm nhỏ, nhưng là toàn thể dân Chúa; chính Thiên Chúa muốn nói chuyện với dân Người ngang qua các ngôn sứ. Như vậy, không chỉ các ngôn sứ nhưng là toàn thể dân Israel được mời gọi nhìn nhận rằng chính Thiên Chúa đã nói với họ ngang qua các sứ giả của Người.
Các khía cạnh của Lời Chúa
Lời Chúa có hai khía cạnh, dù khác biệt nhưng không tách biệt: mạc khải và hành động.
1. Thiên Chúa mạc khải bằng lời nói
Để đặt tư tưởng của con người vào trong sự thông tri (communication) với Người, Thiên Chúa nói. Rồi sau đó, Lời Người – Luật và quy luật sống – lại trở thành mạc khải về ý nghĩa của những sự kiện và sự vật, cũng như lời hứa và lời báo trước về tương lai.
a. Khái niệm về Lời như Luật và quy luật sống xuất hiện ngay từ khởi đầu của dân Israel. Tại thời điểm Giao ước Sinai, ông Môsê đã trao cho dân, nhân danh Thiên Chúa, một hiến chương tôn giáo và luân lý được tóm gọn trong mười “lời”, Thập Giới (Xh 20,1-17; Đnl 5,6-22; x. Xh 34,28; Đnl 4,13; 10,4). Những tuyên bố này của Thiên Chúa, cùng với những đòi buộc thiết yếu của Người, chính là một trong những sự việc đầu tiên cho phép dân Israel nhận thức được “Chúa nói”. Một vài bản văn Kinh Thánh còn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa nói trực tiếp với dân từ giữa đám mây (Xh 20,1 tt; Đnl 4,12). Vậy, Luật được ban cho dân Israel nhân danh Lời Chúa. Chính vì vậy, các hiền nhân và tác giả Thánh vịnh đã coi Luật như nguồn hạnh phúc (Cn 18,13; 16,20; Tv 119).
b. Ngay từ ban đầu đã có một sự nối kết giữa Luật Thiên Chúa với mạc khải về Người và hoạt động của Người: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2). Đây thật sự là chân lý nền tảng thiết lập nên thẩm quyền của Luật. Nếu dân Israel là một dân độc thần, thì đó không phải là do lý trí con người suy ra, nhưng chính là vì Thiên Chúa đã nói với các tổ phụ của họ, rồi sau đó với ông Môsê, để mạc khải cho dân biết rằng Người là “Thiên Chúa độc nhất” (Xh 3,13-15; x. Đnl 6,4). Hơn nữa, như dòng lịch sử thánh dần dần cho thấy, chính Lời Chúa đã soi sáng cho dân hiểu ý nghĩa ẩn giấu của lịch sử đó. Trong mỗi biến cố trọng đại của dân tộc, chính Lời mạc khải mục đích ẩn giấu của Thiên Chúa (Gs 24,2-13). Không có gì còn thuần túy là phàm tục, nhưng tất cả là kế hoạch của Thiên Chúa. Kiến thức kiểu ngôn sứ lại được đào sâu thêm nhờ văn chương khôn ngoan (Kn 10 – 19). Nói chung, tất cả xuất phát từ Lời Chúa.
c. Sau cùng, Lời Chúa có khả năng vượt quá những giới hạn của thời gian và vén mở tương lai. Từng bước một, Lời Chúa soi sáng cho dân Israel thấy giai đoạn kế tiếp trong kế hoạch của Thiên Chúa (St 15,13-16; Xh 3,7-10; Gs 1,1-5,…) Ngoài tương lai gần, thường được mô tả cách nhẹ nhàng, Lời Chúa còn mạc khải những gì sẽ xảy ra trong “những ngày sau hết”, khi Thiên Chúa thực hiện trọn vẹn kế hoạch của Người. Đó là đối tượng của nền cánh chung ngôn sứ. Luật, mạc khải và lời hứa: đây là ba khía cạnh của Lời Chúa, có tương quan hỗ tương với nhau, trải dài suốt Cựu Ước.
2. Thiên Chúa hành động bằng lời nói
Lời Chúa không phải chỉ là một sứ điệp thuộc trí hướng đến con người. Đó là một thực tại sống động đầy quyền năng, thực hiện cách hiệu quả những gì Chúa muốn (Gs 21,45; 23,14; 1V 8,56). Thiên Chúa sai Lời Người đi như một sứ giả sống động (Is 9,7; Tv 107,20; 147,15), và Lời tác động trên con người (Xp 1,6). Thiên Chúa để mắt trông cho Lời thành toàn (Gr 1,12), và thật ra, Lời Chúa luôn hoàn tất điều được công bố (Ds 23,19; Is 55,10 tt), dù đó là về những sự kiện lịch sử, thực tại vũ trụ hoặc cùng đích của kế hoạch cứu độ.
a. Khái niệm năng động này của Lời Chúa không phải là không tìm thấy tại phương Đông cổ xưa, ở đó nó được xem giống như pháp thuật. Còn trong Cựu Ước, trước hết, nó được áp dụng cho lời các ngôn sứ: khi Thiên Chúa bộc lộ trước các kế hoạch của Người, thì chắc chắn sau đó Người sẽ thực hiện. Lịch sử luôn là một sự thành toàn các lời hứa của Thiên Chúa (Đnl 9,5; 1V 2,4; Gr 11,5). Sự việc xảy ra khi Thiên Chúa phán (Is 44,7 tt). Vào thời Xuất hành, “Chúa vừa phán, ruồi muỗi từng đàn ào tới khắp nơi trên lãnh thổ” (Tv 105,31.34). Vào cuối thời lưu đày ở Babylon, “Ta nói về Giêrusalem: “Cho nó có dân cư!”, và về thành thị Giuđa: “Cho nó được tái thiết” (Is 44,26.28).
b. Với niềm tin đó, dân Chúa quả quyết toàn thể tạo thành đều đầu phục trước Lời Chúa. Thật vậy, công trình sáng tạo đã được gắn liền với Lời: Người phán và liền có (Tv 33,6-9; St 1; Ac 3,37; Gđt 16,14; Kn 9,1; Hc 42,15). Kể từ đó, cùng một Lời đó vẫn tiếp tục hoạt động trong vũ trụ, cai quản tinh tú (Is 40,26), những mạch nước ngầm (Is 44,27), cũng như tất cả hiện tượng tự nhiên (Tv 107,25; 147,15-18; G 37,5-13; Hc 39,17.31). Hơn hẳn lương thực trần gian, chính Lời này, như manna từ trời, gìn giữ cưu mang những người tin vào Thiên Chúa (Kn 16,26; x. Đnl 8,3 LXX).
c. Với đầy hiệu năng như thế trong lịch sử tạo thành và tiếp tục sau đó, Lời chắc chắn cũng quan trọng trong “những ngày sau hết”. Thật vậy, “Lời Chúa bền vững đến muôn đời” (Is 40,8). Chính vì vậy, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, dân Chúa luôn thành kính gìn giữ những lời loan báo về tương lai.
II. THÁI ĐỘ CON NGƯỜI TRƯỚC LỜI CHÚA
Lời Chúa như vậy là một sức mạnh không cho phép con người được ù lỳ mãi, nhưng trái lại, thách thức và chất vấn con người. Những ai mang Lời Chúa thì thi hành một sứ vụ với trách nhiệm nặng nề. Còn những người nghe Lời Chúa thì nhận ra rằng mình được kêu gọi để có một lập trường liên quan đến cùng đích cuộc đời.
1. Sứ vụ Lời Chúa
Những người này được Cựu Ước mô tả không phải luôn được hưởng niềm vui nhờ phục vụ Lời Chúa. Trái lại, mọi ngôn sứ đều bị chống đối, thậm chí là bách hại. Chắc chắn, khi đặt Lời vào miệng các ngôn sứ thì Thiên Chúa cũng ban cho các ngài đủ sức mạnh để can đảm rao truyền sứ điệp đã trao cho họ (Gr 1,6-10). Nhưng các ngôn sứ vẫn phải chịu trách nhiệm trước Chúa về sứ vụ này mà số phận con người tùy thuộc vào đó (Ed 3,16-21; 33,1-9). Thật ra, nếu ngôn sứ cố trốn chạy khỏi sứ vụ thì Thiên Chúa vẫn có thể dùng sức mạnh lôi họ trở về, như câu truyện ngôn sứ Giôna cho thấy (Gn 1,3). Rất thường xảy ra là ngôn sứ chấp nhận sứ vụ và phải đánh đổi bằng sự an bình, thậm chí là cả mạng sống mình; và chính lòng trung thành đến mức anh hùng đó gây ra đau khổ cho họ (Gr 15,16 tt). Đây quả là một công việc khó khăn mà phần thưởng không thấy ngay trước mặt (1V 19,14).
2. Đón nhận Lời Chúa
Đối với những người nghe Lời Chúa, họ cần phải có thái độ đón nhận cách ngoan ngùy và tin tưởng. Trong khía cạnh là mạc khải và quy luật sống, Lời Chúa trở thành ánh sáng cho người nghe (Tv 119,105). Trong khía cạnh là những lời hứa, Lời Chúa trở thành đảm bảo vững chắc cho tương lai. Người ta cần phải lắng nghe những ai được Chúa chọn để rao truyền mạc khải, hạn như ông Môsê và các ngôn sứ (Đnl 6,3; Is 1,10; Gr 11,3.6), hoặc “ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6,6; 30,14) và đem ra thực hành (Đnl 6,3; Tv 119,9.17.101), hoặc tin tưởng và hy vọng vào Lời Chúa (Tv 119,42.74.81; v.v; 130,5). Thái độ ứng đáp của con người trước Lời Chúa tác động đến toàn diện đời sống nội tâm của họ, đó là đức tin – bởi vì Lời Chúa là một mạc khải về Thiên Chúa hằng sống và kế hoạch của Người; đức cậy (hy vọng) – vì đó là lời hứa của Thiên Chúa về cuộc sống Người ban; và đức mến – vì đó là quy luật sống cho con người (x. Đnl 6,4 tt).
III. NGÔI VỊ HÓA LỜI CHÚA
Lời Chúa đã trở thành một ngôi vị, tương tự như Đức Khôn Ngoan và Thần Khí Thiên Chúa, để mạc khải (Tv 119,89), và nhất là thi hành ý Thiên Chúa (Tv 147,15; 107,20; Is 55,11; Kn 18,14 tt).
LM. JM. Mười Một, CSsR
[1] Bài này được viết theo mục “Word” trong một quyển sách tiếng Anh mà tôi chưa tìm ra tựa sách. Đây cũng là bài thứ 52 trong loạt bài “Tìm hiểu cách đọc Kinh Thánh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét