VUI
HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 1 MC
B
Tin Mừng thánh Máccô 1,12-15
12 Thần Khí liền đẩy
Người vào hoang địa.13 Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu
Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
14 Sau khi ông Gio-an bị
nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15
Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng."
12 7
At once the Spirit drove him out into the desert,13 and he remained
in the desert for forty days, tempted by Satan. He was among wild beasts, and
the angels ministered to him.
14 After John had been arrested, 8
Jesus came to Galilee proclaiming the gospel
of God:15 "This is the time of fulfillment. The kingdom of God is at hand. Repent, and believe in
the gospel."
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là
gì?
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng
thánh Mc 1,14
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II.
TRẮC NGHIỆM
01. Ai đã đưa Đức Giêsu vào
hoang địa? (Mc 1,12)
a. Ông
Gioan Tẩy giả
b. Chúa
Cha
c. Thần
Khí
d. Các
Thiên thần
02. Đức Giêsu ở trong hoang địa
bao nhiêu ngày? (Mc 1,13)
a. 20
ngày
b. 30
ngày
c. 40
ngày
d. 50
ngày
03. Trong hoang địa có ai hầu hạ
Đức Giêsu? (Mc 1,13)
a. Ma
quỷ
b. Các
môn đệ
c. Các
thiên sứ
d. Những
người chăn chiên.
04. Sau khi ông Gioan bị nộp,
Đức Giêsu rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa ở đâu? (Mc 1,14)
a. Thành
Giêrusalem
b. Miền
Samaria
c. Vùng
Thập tỉnh
d. Miền
Galilê
05. Đức Giêsu kêu gọi mọi người
hãy sám hối và tin vào điều gì? (Mc 1,15)
a. Ân
sủng của Thiên Chúa.
b. Lời
hứa của Thiên Chúa.
c. Tin
mừng.
d. Sự
giải thoát của dân Ítraen.
III. Ô
CHỮ
Những
gợi ý
01. Trong hoang địa có ai hầu hạ
Đức Giêsu? (Mc 1,13)
02. Ai đã đưa Đức Giêsu vào
hoang địa? (Mc 1,12)
03. Trong hoang địa, Satan đã
làm gì Đức Giêsu? (Mc 1,13)
04. Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng
của ai? (Mc 1,14)
05. Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ
ở đâu? (Mc 1,13)
06. Đức Giêsu kêu gọi mọi người
hãy sám hối và tin vào điều gì? (Mc 1,15)
Hàng dọc : Chủ
đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Thời kỳ đã mãn,
và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
Tin Mừng thánh
Máccô 1,15
Lời
giải đáp
VUI
HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 1 MC
B
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề :
Chúa Giêsu rao giảng Tin
Mừng Nước Thiên Chúa
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng
thánh Mc 1,14
Sau khi ông Gioan bị nộp,
Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
II.
Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. c. Thần Khí (Mc 1,12)
02. c. 40 ngày (Mc 1,13)
03. c. Các thiên sứ (Mc 1,13)
04. d. Miền Galilê (Mc 1,14)
05. c. Tin mừng (Mc 1,15)
III.Ô
CHỮ
01. Thiên sứ (Mc 1,13)
02. Thần Khí (Mc 1,12)
03. Cám dỗ (Mc 1,13)
04. Thiên Chúa (Mc 1,14)
05. Hoang địa (Mc 1,13)
06. Tin mừng (Mc 1,15)
Hàng dọc : Sám Hối
NGUYỄN THÁI HÙNG
Các bài
suy niệm CHÚA NHẬT 2 Thường Niên - Năm B
Lời
Chúa: 1Sm
3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
Tài liệu
về Lời Chúa
***********************************************
Tôi đã gặp
Là người đạo gốc, chúng ta vốn thường xuyên
đọc kinh xem lễ, nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu
chúng ta đã thực sự gặp gở Chúa hay chưa? Vậy thế nào là gặp gỡ Chúa? Kinh
Thánh đã kể lại biết bao nhiêu sự gặp gỡ.
Trong Cựu ước, qua bài đọc một, chúng ta thấy
Samuel đã gặp gỡ Chúa ngay từ buổi thiếu thời và đã bước theo tiếng gọi của
Ngài trong suốt cuộc đời.
Trong Tân ước, trước tiên là các môn đệ. Các
ông đã đi theo Chúa, nhất là khi đã cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, các
ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng mặc bao gian truân nguy hiểm trên con đường
thực hiện sứ vụ.
Tiếp đến là những người phụ nữ. Chẳng hạn như
người đàn bà ngoại tình đã được Chúa che chở bình an trước những kẻ cực đoan
định ném đá chị. Hay như Madalena, ngay từ buổi gặp gỡ Chúa đã đoạn tuyệt với
cuộc đời tội lỗi để sống xứng đáng với ơn tha thứ chị đã nhận lãnh.
Đặc biệt nhất là thánh Phaolô. Kể từ khi bị
ngã ngựa trên đường đi Đamas, ông đã bừng tỉnh. Từ một kẻ say sưa bắt bớ các
tín hũu, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành và xác tín: Đức Kitô sống
trong tôi… và không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Ông đã cảm
nhận mình là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ của Thiên Chúa, và trong suốt
cuộc đời còn lại ông đã trung thành với ơn gọi của mình, là đem Tin Mừng đến
cho dân ngoại.
Trong lịch sử Giáo Hội, sự gặp gỡ làm thay
đổi cuộc đời đã được thể hiện qua hình ảnh của thánh Augustinô, thánh Ignatiô
và nhiều vị thánh khác. Từ một cuộc sống sa ngã trác táng, họ đã trở nên những
con người thánh thiện, nhiệt thành với sự nghiệp Nước Chúa.
Một câu nói của Chúa: Được lời lãi cả thế
gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi, đã làm chuyển hướng cả cuộc đời của
Phanxicô. Một câu trong Phúc âm: Hãy bán tất cả, làm phúc cho kẻ nghèo rồi đến
mà theo Ta, đã thay đổi hẳn con người của Antôn.
Và gần đây, Mẹ Têrêxa thành Calcutta, mẹ đã
gặp Chúa nơi những người nghèo khổ mà mẹ đã đem cả cuộc đời mình để phục vụ.
Cha Lelotte trong cuốn “Những người trở lại trong thế kỷ 20” ghi lại hơn ba
mươi khuôn mặt từ giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân và cả những người
ngoài Kitô giáo, cha trình bày kinh nghiệm gặp gỡ Chúa một cách độc đáo, riêng
biệt của từng người. Và từ ngày ấy cuộc đời của họ đã biến đổi một cách sâu
sắc. Nhưng dẫu bởi cách thức nào đi chăng nữa, thì qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy,
tất cả đều cảm nhận được Chúa một cách rất cụ thể, Ngài thực sự hiện diện mà họ
có thể nhìn thấy, có thể trao đổi. Đồng thời cũng họ cảm nhận được tình thương
cao cả của Ngài đối với con người qua hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống
thế, chia sẻ thân phận của con người, chịu mọi khổ nhục và cuối cùng chịu chết
trên thập giá để làm chứng cho tình yêu.
Qua sự gặp gỡ yêu thương ấy, con người chỉ có
một cách đáp trả duy nhất là thực hiện lời dạy của Ngài: Các con hãy yêu thương
nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đó là một ơn huệ lớn lao và cũng là một đòi
hỏi triệt để của Chúa đối với con người. Dấu chứng của sự gặp gỡ Chúa là một
cuộc sống biến đổi tích cực được thể hiện qua sự an bình và tình yêu thương. Và
như thế, chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa?
Thi hành sứ vụ nhân
danh Ngài
(Suy niệm
của Yvane Fournier-Guérard)
Sứ vụ được thực hiện do các chứng nhân. Nhờ
tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ hiểu được vai trò Phúc Âm hóa của họ.
Một vị tiền hô.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của
Ngài, chiếc rìu đã đặt bên gốc cây. Một vị ẩn sĩ, Gioan Tẩy Giả, loan báo Nước
Trời và lớn tiếng đòi hỏi người ta hoán cải con tim để đón tiếp Đấng Mêsia đang
đến. Bằng dấu chỉ Phép rửa trong đó tín đồ được dìm vào dòng nước sông Giođan
để lấy lại sự thanh sạch của con tim. Gioan nhắc nhở mọi người rằng một Đấng
khác sẽ đến và thanh tẩy trong Thánh Thần.
Những gì Gioan đã làm trong hoang địa: quy tụ
môn đệ, rao giảng sự thống hối và mong đợi một vương quốc sắp tới, đều đã chuẩn
bị người ta nghe lời Chúa Giêsu. Bởi vì trước đó quần chúng đã thức tỉnh trước
sứ điệp thiêng liêng của Gioan nên họ đón tiếp Chúa ân cần hơn và đã hiểu lời
Ngài hơn.
Tỉnh thức là giai đoạn đầu tiên của việc gặp
gỡ Thiên Chúa.
Một lời sống động.
Rồi chiên Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả nhìn
nhận là lớn hơn mình đã đến. Mảnh đất đã sẵn sàng nên hạt giống có thể gieo
được. Chúa Giêsu thực sự bị thu hút bởi lời rao giảng của Gioan. Ngài đã nhìn
thấy những đám đông được Gioan thuyết phục và những con người tự nhìn nhận mình
là kẻ tội lỗi. Ngài đã xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ngài đã nhận ra mảnh
đất tốt lành, nơi đó cỏ dại ích kỷ, hận thù, tội lỗi của dân Ngài đã được nhổ
sạch.
Chúa Giêsu đã đi theo Gioan và từ nay ông sẽ
theo Ngài và sẽ khuyên các môn đệ của ông cũng làm như vậy nữa.
Giai đoạn thứ hai của sứ vụ là tiếp đón Đấng
đang đến cùng với sứ điệp và chân lý của Ngài.
Đây không chỉ là một trò chơi.
Anh chị em còn nhớ trò chơi điện thoại được
dùng trong những buổi sinh hoạt hay trong những lớp dạy về truyền thống chứ?
Người thứ nhất tham gia trò chơi rỉ tai người thứ hai một sứ điệp ngắn và người
này nói lại cho người thứ ba, v.v… đến người cuối cùng thì ít khi sứ điệp còn
giữ được nguyên vẹn như ban đầu. Vì nghe không rõ nên các sứ giả liên tiếp nhau
thay đổi sứ điệp được truyền đi và như vậy đã phản bội chính sứ điệp.
Các môn đệ đầu tiên không phản bội sứ điệp.
Sau khi đi theo Chúa Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan, sau khi nhìn thấy và
đích thân nghe vị tôn sư, họ đã mời anh em và bạn bè của họ đến gặp Ngài.
Chính nhờ lưu lại với Ngài mà việc hoán cải
con tim đã được thực hiện. Ngôn sứ Samuel cũng đã sống kinh nghiệm này, và dân
Samari đã diễn tả đúng chân lý này khi nói với người phụ nữ Samari: “Không phải
vì những gì chị kể cho chúng tôi mà chúng tôi tin, nhưng bởi vì bản thân chúng
tôi đã được nghe Ngài”. Nhưng cần phải có ngôn sứ Êlia trong Cựu Ước, cần phải
có các môn đệ đầu tiên và người phụ nữ Samari để cho người ta đến với Chúa
Giêsu.
Đây là giai đoạn thứ ba của việc Phúc Âm hóa:
chúng ta được mời gọi loan báo cho kẻ khác con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng
tai nghe.
Chúng ta là những lời sống động của Thiên
Chúa bằng cuộc sống hơn là bằng lời nói. Phải đích thân gặp gỡ Ngài, lắng nghe
Ngài, lớn lên trước mặt Ngài và tôn vinh Ngài bằng thân xác chúng ta được xem
như đền thờ của Ngài. Chứng nhân không vượt qua giai đoạn cuối này là một chứng
nhân giả. Lời của họ trống rỗng và sứ điệp của họ rất có nguy cơ bị méo mó bởi
chính những cách nhìn riêng của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ như sau:
“Hãy đến mà xem”. Kẻ lớn lên trước mặt Chúa, như Samuel, có lẽ không tự mình ý
thức được rằng “không lời nào của họ là không có hiệu quả”, nhưng đã xảy ra
đúng như vậy.
Được gọi với tư cách là ông bà, cha mẹ, với
tư cách là giới trẻ, với tư cách là những người đã chịu phép rửa để truyền đạt
đức tin, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giữ chúng ta lại bên cạnh Ngài. Xin cho
luật tình yêu của Ngài trở nên thiết thân với chúng ta như tác giả thánh vịnh
và cho chúng ta biết nói: “Này con đây” trong mọi hoàn cảnh, trong lúc “miệng
chúng ta loan báo tình yêu và chân lý của Ngài cho toàn thể đại hội”. Khi đón
tiếp Ngài đến trong Thánh lễ này, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, này con đây,
con xin đến để thực thi ý Chúa”.
Này Chiên Thiên Chúa
Charles
E. Miller
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một
số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn.
Thí dụ, tôi nói “nhỏ” và bạn nói “lớn”. Tôi nói “bóng đá”, bạn nói “bóng chày”.
Gioan Tẩy Giả nói Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”.
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tẩy Giả
đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi”
hoặc ”Đó là Đấng Cứu Độ” hay “đấy là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những
tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do thái, tước hiệu mà
Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ: “Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí họ
toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng
không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng
thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu
thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất
Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham
dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong Thánh Lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng
ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người
bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa
tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta
được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như
Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên
xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên Vượt Qua đã bị hy sinh sát tế như thế nào, chúng
ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và
là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa
Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các
tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được
giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự Phục Sinh
của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”.
Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa,
chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng
cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã
phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải
thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi
chiêm ngắm việc chúng ta cử hành ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể:
“Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên
xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh
mục nói: “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu
“Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc
tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên
Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng Giao Ước tình yêu
và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta
bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một
câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy
niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa
Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của
Chiên Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô
(Trích
trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc
đời mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái
sinh.
Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình
gặp mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ
huynh”.
Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt của
các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu
tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần
thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức
Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là “khởi điểm của mọi hành trình Đức
Tin”.
Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?
Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được người
khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô tả
như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt.
Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng
ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới thiệu:
“Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe
giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức khắc đi theo Chúa
Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đức Kitô và đã
không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.
Bước thứ hai là đối thoại với Chúa Giêsu.
Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: “ Các anh tìm gì thế?” Đức Thánh Cha
nói: “Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi lại ta, người hỏi trở thành kẻ
bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được Ngài kiếm tìm: “Các anh tìm gì
thế?”. Câu hỏi có vẻ tầm thường như những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây
là một câu hỏi đặt vấn đề cho những ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để
làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa điều gì?
Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí
tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ đáp
trả bằng một câu vắn gọn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng
biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của
Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài “Không có nơi gối
đầu”. Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. “Hãy đến” là lời mời gọi của trái tim
rộng mở. Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức
Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu
thẳm nhất. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải
là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với
Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là
gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã
kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với
Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ
gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.
Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu của
Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc
bách phải chia sẻ niềm tin cho
em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến
gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung
sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh
Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải
ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn.
Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với
em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên
trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại
với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước,
vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm
tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều
khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Anh chị em thân mến,
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên,
nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng ta
choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt
trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi,
vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?...
“Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình”.
Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con người cũ, tội
lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được “tái sinh”, chưa “gặp lại mình”,
chưa “nối lại những mối dây huynh đệ” với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô
chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi,
sống đạo không phải là sống theo một điều gì, đi theo một ai khác hơn là sống
theo Đức Giêsu Kitô.
Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?
Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu ở bên cạnh
chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng ngày.
Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người nghèo;
của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những cơ chế
bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau khổ vì
các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội, những lo âu
của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở giữa mọi người,
nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt lệ và nhắc cho
những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn hết, nếu họ đặt
niềm tín thác vào Ngài”.
Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc đời, cuộc
đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người ích kỷ của
mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh em, nhất là
những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người
nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự
đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và tích cực
trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của
Thiên Chúa cho mọi người.
Như Đức Thánh Cha đã nói: “Cuộc gặp gỡ Đức
Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả
là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu
mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả
tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
Thầy ở đâu - Hãy đến
mà xem
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng này đã được Đức Thánh Cha dùng
làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
Để gặp được Đức Giêsu, cần có người giới
thiệu. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình. Ông Anrê cũng đã
giới thiệu Đức Giêsu cho em là Simon, và dẫn ông này đến gặp Ngài. Chẳng ai
thực sự gặp được Đức Giêsu mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Đức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được
san sẻ. Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê là thấy Đức Giêsu và người mình
giới thiệu gặp nhau. Họ chấp nhận tự xóa mình. Gioan chấp nhận chia tay với hai
môn đệ yêu dấu. Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi
theo Đức Giêsu. Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa. Họ rụt rè không biết
bắt đầu câu chuyện thế nào. Đức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ. Chính
Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng
mình, phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình. Tôi đang tìm gì? Tiền
bạc, tiếng tăm, thỏa mãn? Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi?
Đức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời.
Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Đến nhà một người là đi vào thế giới của
người đó. Hai ông không chỉ muốn biết Đức Giêsu qua lời Gioan. Họ muốn đích
thân gặp gỡ Ngài. Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Đức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của
Ngài. Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta. Đừng sợ đi theo Đức Giêsu để
đến nhà Ngài. Đừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn. Nơi nào có những
người nghèo khổ, bị bỏ rơi, những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội,
những người khác văn hóa và tôn giáo, nơi đó là nhà của Đức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức. Không
có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành. Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc
hạnh ngộ này, nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi Kitô
hữu. Chúng ta phải được giới thiệu Đức Giêsu, phải đích thân gặp Ngài, và phải
trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Các anh tìm gì thế?" Theo ý bạn,
người trẻ hôm nay đang làm gì? Đang tìm ai? Nơi bản thân bạn, đâu là mối bận
tâm lớn nhất của bạn hiện nay?
Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại câu trả
lời cho những vấn đề sâu xa nhất của bạn không? Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem
lại bình an cho thế giới hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn những
cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay, Chúa cũng muốn biết chúng con chọn
ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội
ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và khiêm
nhu, con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
Không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi
tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con yêu mến
bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần
trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng
con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Hành trình ơn gọi
ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi.
Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng
hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi
nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu
gọi.
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong
một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận
của người nghe.
Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua
một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng.
Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là
thiên hướng đi tìm lý tưởng.
Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn
ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn
trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai
môn đệ đến với Đức Giêsu.
2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng
Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một
khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả
lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra
lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel,
việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với
Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải
dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3- Giai đoạn ba: Sống thân mật
với Chúa.
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc
cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ
thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài
học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự
sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha - Con thắm
thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình
được yêu thương.
Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được
gột rửa sạch mọi tội lỗi.
Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở
nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.
Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao
đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước
điều gì khác nữa.
Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn
cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống
với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì
Người.
4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho
tình yêu Chúa.
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ
không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như
dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên
thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.
Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em
là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến
cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông
đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì
ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta
đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm
thiết.
Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.
Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận
các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe
giảng.
Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi
thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã
đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ
như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người,
sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một
hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã
thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở
khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở
rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người.
Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời
gọi không?
2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời
gọi chưa?
3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu
của Chúa chưa?
Đối với tôi, Đức
Giêsu là ai?
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự của thánh Gioan về ơn gọi của
những môn đệ đầu tiên, đáng khâm phục vì lời văn bình dị và gợi ý. Ký sự diễn
tả tiến trình cơ bản về mọi ơn gọi theo Đức Kitô: gặp gỡ, phát hiện, ưng thuận,
thay đổi đời sống.
- Gặp gỡ. Hai
môn đệ Anrê và Gioan gặp Đức Giêsu vì đã được Gioan Tẩy giả lưu ý họ về người.
Cũng thế, Simon – Phêrô gặp Chúa, vì Anrê cho biết. Trong hai trường hợp này,
ta thấy rằng một sự can thiệp của con người chính là con đường đưa người ta đến
gặp Đức Giêsu. Nhưng tự nó sự can thiệp không có tính cách quyết định trong
việc các môn đồ đi tìm Chúa. Điều khiến họ quyết định, chính là lời kêu gọi của
Đức Giêsu: Hãy đến mà xem. Như vậy hai yếu tố đầu tiên trong tiến trình đáp ứng
ơn gọi là: một người dẫn những người khác đến nơi gặp gỡ- Thiên Chúa kêu gọi.
Một câu hỏi được đặt ra: đó bao giờ chúng ta nghĩ rằng có thể chúng ta cũng dẫn
một người nào đó đến gặp Đức Giêsu không? Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết
rõ Đức Giêsu là ai. Giống như Anrê, chúng ta đã tìm thấy Đấng Cứu thế. Liệu
chúng ta có lo lắng đến việc không nên khư khư giữ làm của riêng điều chúng ta
tìm thấy? Để cho lời gọi của Chúa đến với một người trong anh em chúng ta, có
lẽ Chúa nhờ chúng ta dẫn kẻ ấy đến gặp Người.
- Phát hiện. Vì
vậy hai môn đệ đến và nhìn thấy nơi Chúa ở. Sau khi đã lưu lại với Chúa tới
sáng hôm sau, họ tin chắc đã gặp Đấng Cứu Thế. Họ phát hiện Đức Giêsu là ai. Ta
có thể nghĩ xa hơn: Hai môn đệ đã phát hiện Đức Giêsu là ai đối với họ. Thật
vậy, không những họ nhận Đức Giêsu đúng là Đấng Cứu Thế, mà lại còn khám phá
thấy một liên hệ đặc biệt do Đức Giêsu thiết lập giữa Người với họ, Chúa kêu
gọi họ hãy trở nên môn đệ Người – đặc biệt Phêrô được Chúa gọi là “Đá” , tức là
đá tảng trên đó Đức Giêsu sẽ thiết lập Giáo Hội Người. Tới đây , ta nhận định:
Trong tiến trình ơn gọi, con người lúc đối diện với Đức Kitô không những phát
hiện Đức Kitô, trong bản thế là ai mà còn thấy rõ Đức Kitô là ai đối với người
được gọi. Mỗi người chúng ta cũng có thể tự hỏi: Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
Người gọi tôi làm việc gì? Ý muốn của Người ảnh hưởng trên tôi thế nào?
- Ưng thuận và thay đổi. Đoạn
Phúc âm kể lại đầy đủ: Sau khi gặp Đức Giêsu và ở lại với Người tơí hôm sau,
những môn đệ tình nguyện theo Chúa. Toàn bộ Phúc âm theo thánh Gioan cho biết
một việc: Sự ưng thuận theo Chúa đã đếm lại đổi thay trong đời họ. Họ bỏ lại
tất cả để theo Đức Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô xoay đổi đời sống con người theo
một hướng hoàn toàn khác với chiều hướng bình thường. Thậm chí, ở đây lại là
theo Chúa trong điều kiện sinh hoạt khác với mọi người. Kitô hữu được kêu gọi
hãy uốn sửa đời mình cho phù hợp với khuôn mẫu Đức Kitô. Đó là điều làm thay
đổi một đời người, thay đổi toàn diện.
Tóm lại, đoạn Phúc âm nói với chúng ta thế
này:
1) Có những người đi tìm Đấng Cứu Thế.
2) Thấy họ tìm thì Chúa đến với họ và kêu gọi
họ.
3) Những người ấy đáp ứng lời Chuá bằng một
câu đáp tích cực nó biến đổi đời họ. Ba câu hỏi chờ chúng ta: chúng ta có phải
là những Kitô hữu trên đường tìm Chúa không? Chúng ta có nghe thấy những lời
mời của Chúa không? Câu đáp của chúng ta, tức là nếp sống Kitô giaó thực tiễn,
có biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành môn đệ không?
Lựa chọn theo Chúa
“Một trong hai người… đã đi theo
Chúa Giêsu”.
Một thương gia người Mỹ, lúc chết
đã làm chúc thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên
Grace lúc đó 23 tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một
triệu đô la, với điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo.
Cuối cùng nữ tu Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô
đã mất cả phần tài sản to lớn đó.
Bước đường theo Chúa đôi lúc cũng đòi một sự
lựa chọn như vậy. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người đầu tiên xin làm môn
đệ Chúa. Trong giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa, chỉ có Gioan Tẩy Giả
được ban ơn đặc biệt nhận ra Chúa, ông giới thiệu Chúa: “Đây là Con Chiên Thiên
Chúa”. Người Do Thái nghe danh hiệu này theo ý nghĩa thường gặp trong Kinh
Thánh, là tôi tớ Thiên Chúa, một người tôi tớ âm thầm phục vụ lò sát sinh.
Những người nghe thánh Gioan lúc đó là những người thiện chí, muốn cải thiện,
họ quanh quẩn bên vị tiền hô để học hỏi sống chính trực. Họ biết Chúa Giêsu là
người tốt, nhưng không phải một ông vua, không hứa hẹn giàu sang vinh hiển, tuy
nhiên cũng có người quyết định đi theo Chúa.
Chúa Giêsu tiếp đón họ rất bình thường, chẳng
có gì là niềm nở. Chúa hỏi họ như hỏi người lạ: “Các anh kiếm gì?” Chúa không
phải một người quảng cáo hay tuyên truyền. Chúa bảo các ông: “Hãy đến mà xem”.
Việc tìm hiểu rất cần thiết, chứng tỏ một tâm hồn khát khao chân lý, một tâm
hồn có khả năng tiến bộ. Trong buổi đàm đạo đầu tiên này, có lẽ những người
theo Chúa không được hứa hẹn gì, ngoài việc nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng đã
được hứa ban trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh cũng đã nói trước Đấng Mêsia sẽ
chịu bạc đãi, khổ đau. Họ chưa hiểu cặn kẽ số phận Đấng Cứu Thế, nhưng cũng lờ
mờ thấy theo Chúa là phải chấp nhận khó khăn, hy sinh và có khi nguy hiểm nữa,
nhưng họ đã quyết định theo Chúa.
Các ông đi theo Chúa trong niềm vui phấn
khởi. Các ông vui không vì đã tìm ra một món lợi, nhưng vì từ lâu các ông vốn
khát khao ơn cứu độ, các ông tha thiết chia sẻ tâm tình mong chờ Đấng Cứu Thế
của Kinh Thánh, và bây giờ thấy lòng mong đợi đó được đáp ứng. Các ông có được
niềm vui lớn lao, và khi vui người ta thấy cần chia sẻ, niềm vui sẽ tràn đầy và
truyền lan. Các ông đi nói lại với bạn bè, với bà con thân thuộc: Chúng tôi đã
thấy Đấng Cứu Thế, cũng gọi là Đức Kitô. Các ông muốn người thân cũng vui với
mình, và muốn mọi người cùng đi theo Chúa như mình.
Đầu tiên Gioan Tiền Hô đã gửi Anrê và Gioan
đến với Chúa. Rồi Anrê và Gioan đi gọi Simon và Philipphê mời gọi Nathanael.
Khởi đầu là do Chúa. Ơn gọi của Chúa như một niềm vui lan tràn từ người nọ tới
người kia như nước chuyển qua những ống dẫn và ta có cảm tưởng như nếu không có
người hướng dẫn thì những người kế cận sẽ không nhận được ơn gọi của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết lắng
nghe lời Chúa gọi và luôn cố gắng truyền thông cho anh chị em, để mọi người sớm
thành môn đệ Chúa.
Giới thiệu
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi muốn chia sẻ
với anh em một bổn phận quan trọng, đó là: Bổn
phận giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
Thực vậy, Gioan Tiền Hô lúc bấy giờ xuất hiện
bên bờ sông Giordan, ông rao giảng về tâm tình ăn năn và trao ban phép rửa sám
hối. Mọi người đều kính trọng ông và coi ông như là một vị tiên tri. Thế nhưng
ông đã thẳng thắn xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn
đường Chúa đến.
Cũng chính ông đã long trọng giới thiệu Chúa
Giêsu cho các môn đệ của mình:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Rồi ông đã khiêm nhường thú nhận:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày
cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Nghe lời giới thiệu ấy, Andrê và Gioan đã
bước theo Chúa. Chúa Giêsu quay lại thấy hai ông liền phán:
- Các ngươi tìm chi.
Các ông thưa:
- Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Chúa Giêsu bảo:
- Hãy đến mà xem.
Hai ông đã đến cùng Chúa và ở lại với Ngài
ngày hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ này, Andrê đã đi tìm em mình là Simon và nói với
ông:
- Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế, tức là Đức
Kitô.
Và chính Andrê đã dẫn Simon đến cùng Chúa.
Thoạt nhìn thấy Simon, Chúa Giêsu liền phán:
- Con là Simon, kể từ nay con sẽ được gọi là
Kêpha, nghĩa là Đá.
Phúc âm còn kể tiếp, sau khi được Chúa gọi,
Philipphê, đã đến gặp Nathanael và nói:
- Chúng tôi đã gặp Chúa Giêsu, con ông Giuse
quê tại Nagiarét, là đấng Maisen mà các tiên tri đã nói tới trong lề luật.
Nhưng Nathanael đáp lại:
Ở Nagiarét nào có cái chi hay?
Philipphê liền nói:
- Hãy đến mà xem.
Cuối cùng Nathanael đã đi tìm gặp Chúa, đã
tin nhận Chúa với lời tuyên xưng:
- Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel.
Và ông đã trở nên một trong số 12 tông đồ của
Ngài.
Từ những chi tiết tôi vừa kể, chúng ta thấy:
Gioan Tiền hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, trong đó có
Gioan và Andrê. Rồi sau đó, Andrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là
Phêrô. Còn Philipphê, một khi đã đi theo Chúa, ông cũng đã giới thiệu Chúa cho
Nathanael. Còn chúng ta thì sao?
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng rằng,
bổn phận giới thiệu Đức Kitô, làm chứng về Ngài cũng như rao giảng Phúc âm là
một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân, thì
không cần phải vướng mắc chi vào chuyện đó.
Nghĩ như vậy là lầm. Đúng thế, với Bí tích
Rửa tội, chúng ta trở nên người Kitô hữu. Và như chúng ta thường định nghĩa.
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc
sống của mình, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và sống gắn bó mật
thiết với Ngài qua những tâm tình cầu nguyện.
Thế nhưng có Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta
còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa, phải đem Chúa đến cho những người chung
quanh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán:
- Các con là muối, là men, là ánh sáng. Các
con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Bởi đó, bằng một cuộc sống đạo đức, chúng ta
thực sự có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái yêu
thương, chúng ta đem Chúa đến và giới thiệu Chúa cho những người chung quanh
chúng ta.
Hoàn hảo
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái
hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng
đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái
hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì
đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thơ trào phúng
“Cha và con và… sự đời” của Nguyễn văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái
tâm trạng đó của con người.
Cha: Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới
mong sang giàu.
Chồng mà chức trọng quyền
cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau
rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng
như chơi.
Con gái: Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người
đời dèm pha!
Cha: Dèm pha mặc kệ dèm pha,
Có xe đời mới, có nhà tầng
cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui
vào… chui ra!
Con trai: Con quan phung phí xa
hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưới mà
làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi,
Môi son, má phấn… lấy gì
nuôi con?
Cha: Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn…
còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân…
hết tiền!
Trong bài Phúc âm hôm nay, khi Chúa Giêsu chú
ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các
ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của
Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như
chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng
ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời
sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy
của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
Có một chàng thanh niên đeo đuổi
một cô gái trẻ, đẹp đang đi dạo ngoài công viên. Chàng bắt đầu đi theo sát sau
lưng cô gái. Đi được một đoạn, cô gái quay lại đối chất với anh: “Tại sao anh
cứ đi theo tôi hoài vậy?” “Bởi vì cô đẹp quá”, anh trả lời thẳng thừng. “Tôi
yêu cô muốn điên dại và ước gì cô là của tôi”. Cô gái nhanh trí trả lời, “Nhưng
tại sao anh không quay lại nhìn về phía sau lưng anh xem. Cô em gái tôi còn đẹp
hơn tôi rất nhiều”. Chàng thanh niên bèn quay một vòng, nhưng chẳng thấy ai cả,
đành nói, “Cô đánh lừa tôi. Cô nói dối!” Cô gái trả lời, “Nếu anh thực sự yêu
tôi muốn khùng điên, tại sao anh quay lại nhìn về phía đàng sau làm chi?”
Hôm nay nếu Chúa Giêsu hỏi chúng ta: “Các
ngươi đi tìm gì?” thì câu trả lời của chúng ta là gì? Đẹp đẽ hơn? Giàu sang
hơn? Bằng cấp hơn? Danh vọng hơn? Hạnh phúc hơn? Hay thánh thiện hơn?
Trong một lớp giáo lý tân tòng,
một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn
của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi
điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và nàng
lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều
kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói:
“Tôi muốn có cái mà anh ấy có”. Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức
tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng.
Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm
kiếm thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều
tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận
hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin
đó.
Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của
tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô. Đây cũng chính là điều mà Anrê và
Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ
muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo
nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn
tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay
nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ
mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ
nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô. Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn
đệ: “Hãy đến mà xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến mà xem”, nhưng còn
“ở lại với Người” để trở nên môn đệ của Người.
“Vị La-ma ở phương Nam thỉnh cầu
vị Đại La-ma ở phương Bắc phái một tu sĩ khôn ngoan và thánh thiện đến để huấn
luyện tập sinh. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, vị Đại La-ma ở phương Bắc đã
phái đi năm tu sĩ thay vì một. Đối với những người muốn biết tại sao, ngài đã
nói một cách khó hiểu: “Nếu chỉ có một tu sĩ đến được với vị La-ma ở phương Nam
thì là may mắn lắm rồi”.
Năm tu sĩ lên đường được vài
ngày, một sứ giả chạy theo và nói: “Vị sư trụ trì làng xã chúng tôi vừa viên
tịch. Chúng tôi cần người thay thế”. Làng đó ở vào một nơi cảnh trí ngoạn mục
và bổng lộc cho sư trụ trì lại hậu. Một trong các tu sĩ cảm thấy ưu tư đối với
vấn đề mục vụ cho dân làng nên nói: “Tôi sẽ không phải là một Phật tử, nếu tôi
không phục vụ những người nầy”. Vì vậy, thầy đã tách ra khỏi đoàn.
Vài ngày sau, họ tạm trú trong
lâu đài của một vị vua có lòng hâm mộ một trong các tu sĩ nên ngài đã phán:
“Khanh hãy ở lại đây với trẫm và làm phò mã. Khi trẫm băng hà, khanh sẽ nối
ngôi”. Tu sĩ đó đã bị hấp dẫn bởi vẻ hào nhoáng của ngai vàng nên nói: “Có cách
nào tốt hơn để ảnh hưởng dân nước này cho bằng lên ngôi hoàng đế? Tôi sẽ không
phải là một Phật tử, nếu tôi không nhân cơ hội này để hoằng dương đạo pháp”.
Thầy cũng tách ra khỏi đoàn.
Một đêm kia, trong vùng đồi núi,
họ tới một chòi tranh lẻ loi mà chỉ có một cô gái trẻ đẹp tiếp đón họ và cảm ơn
Trời Phật đã cho họ có mặt. Cha mẹ của cô vừa bị bọn cướp ở trên núi xuống giết
chết, còn lại một mình cô sống trong phập phồng lo sợ. Ngày hôm sau, khi đến
giờ chia tay, một tu sĩ tuyên bố: “Tôi sẽ ở lại nơi đây. Tôi sẽ không phải là
một Phật tử, nếu tôi không có lòng trắc ẩn đối với cô gái này”.
Hai tu sĩ còn lại cuối cùng đã
tới một làng Phật giáo và cảm thấy đau lòng khi khám phá ra rằng dân làng đã
hoàn toàn bỏ đạo dưới ảnh hưởng của một thần học gia An Độ. Một tu sĩ nói: “Tôi
mang nợ đối với những người này và đối với chính Đức Phật Tổ nên tôi phải đem
họ trở về với đạo pháp”. Cuối cùng tu sĩ thứ năm đã tới được với vị La-ma ở
phương Nam.
Nhiều lần, tôi đã tách riêng ra
vì những lý do chính đáng nhất trên đời: nào là để cải tổ phụng vụ, để thay đổi
cơ cấu của Giáo Hội, để cập nhật hóa việc nghiên cứu Thánh Kinh và để thích
nghi hóa khoa thần học. Sinh hoạt đạo giáo là cách thoát ly khỏi Chúa Giêsu
được tôi thích nhất”. (Bản dịch của Đỗ Tân Hưng và Trần Duy Nhiên).
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa
giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời. Gặp gỡ
và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ. Sau đó những
công việc mục vụ và rao truyền Tin Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật
luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Giêsu. Ba lần Anrê được nhắc đến
trong Phúc âm của Gioan với vai trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu; đưa bé
trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu; đưa mấy người Hy Lạp
đến gặp Chúa Giêsu. Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa
Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài. Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào
cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta
với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, vua Henry III
của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã
chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài
ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà vua đi tới một tu viện gần đó để
xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã
quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống
trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên
tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài”. Vua Henry III nhận thấy
điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trên
trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho
nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong
ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài”.
Theo ý vua Henry III, “cái hơn” là vào tu
viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp
cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn
nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa
đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài:
xây dựng một xã hội công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn
phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của Ngài.
Giới thiệu
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng
hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn
nhỏ nào người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất
là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã
giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường
giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất
cả chúng ta đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy
Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: “Đây là Chiên Thiên
Chúa”. Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ
ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa
Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc
hai môn đệ đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người
kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả
bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình.
Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai
ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã
biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và
lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình là
Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong
truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng
và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được
đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi
tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ
mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng,
tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của
Giáo Hội sau này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên
ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó,
Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ
cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền
của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho
mọi người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu
phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa
cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích của
giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người
đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít,
nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai
muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó
và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải
biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa.
Chúng ta có biết Chúa không?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy
mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ
đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến
thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà
coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được
xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi,
không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng
với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng
chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn
được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan,
mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ,
nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu
Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính
đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và
có giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.
Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể làm
việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì
luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai
cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt,
vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta
cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới, chúng ta
hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một
cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
Cuộc gặp gỡ
Trong suốt quá trình của đời sống, chúng ta
có nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người. Hầu hết những cuộc gặp gỡ này đều ít có ý
nghĩa, và chẳng bao lâu, bị quên lãng.
Mỗi ngày, bạn có thể gặp gỡ một số người,
nhưng không bao giờ gần gũi với họ, mà chỉ ở bề ngoài mà thôi. Bạn có thể nói
chuyện với một số người hàng giờ, thậm chí hàng năm, mà vẫn không hề cảm thấy
bạn đã bộc lộ con người đích thực của bạn cho họ. Bạn có thể sống nhiều năm
trong cùng một cộng đoàn với người khác, mà vẫn không bao giờ biết về họ, hoặc
nói chuyện về những điều sâu xa hơn với họ. Một số quan hệ với người khác mà
thậm chí còn đưa chúng ta quay trở lại với chính mình, trở nên nghèo nàn hơn,
sau khi chúng ta ra đi. Đây là một trong những điều đáng buồn nhất trong cuộc
sống.
Nhưng có những cuộc gặp gỡ khác mang ý nghĩa
vĩ đại; chúng phong phú hóa, và đôi khi, còn dứt khoát làm thay đổi cuộc sống
của chúng ta nữa. Có thể bạn chỉ vừa mới gặp gỡ một người nào đó, và ngay tức
khắc, một mối quan hệ liền được hình thành. Bạn có thể bộc lộ bản thân mình,
một cách rõ ràng và thực sự. Đây là một trong những điều thú vị và thỏa mãn
nhất trong cuộc sống.
Khi một tình bạn được khai sinh, thì không có
một sự thay đổi nào rõ rệt trong cuộc sống con người – mà chỉ là một sự nhận
thức rằng cuộc sống của người đó trở nên khác hẳn, khả năng yêu thương và chăm
sóc của họ đã được mở rộng một cách lạ lùng, mà không hề có bất cứ sự nỗ lực
nào từ phía người đó.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu đến từ
tình bạn lâu dài và sự kiên nhẫn theo đuổi. Theo Kahlil Gibran “Tình yêu là kết
quả của sự thu hút về mặt tinh thần, trừ khi sự thu hút này được tạo ra trong
một chốc lát, theo năm tháng, hoặc thậm chí qua nhiều đời, người ta vẫn sẽ
không tạo ra được nó”. Nhiều cuộc gặp gỡ có ý nghĩa tình cờ xảy ra. Một số
người sẽ nói điều này với bạn, về cách họ gặp gỡ người bạn đời của mình: họ
không bao giờ quên được những sự kiện của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Một khi
chúng ta đã yêu mến hoặc căm ghét một người nào, thì hầu như chúng ta nhớ được
từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Điều này giúp chúng ta hiểu biết
được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và ba môn đệ sau
này trở thành các tông đồ của Người – Phêrô, Anrê và Gioan. Rõ ràng họ đã có
một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhiều năm sau, khi Gioan viết sách Tin Mừng, ông vẫn
có thể nhớ được chính xác về ngày giờ diễn ra cuộc gặp gỡ đó – đó là vào khoảng
giờ thứ 10 (4 giờ chiều).
Khi được gặp Đức Giêsu, Người đã lôi cuốn họ
ngay. Người dành cho họ nhiều thời gian theo lòng họ mong muốn. Họ nhận thấy
Người nồng nàn, thân thiện, hiếu khách. Họ biết rằng họ được gặp gỡ một nhân
vật quan trọng, và một tình bạn hiếm có được khai sinh. Họ cảm thấy hoàn toàn
được bình an nhờ sự hiện diện của Người. Thông qua cuộc tiếp xúc với Người, họ
bắt đầu khám phá ra chính con người của họ. Nhờ tính cách của Người, họ có được
tầm nhìn về con người mà họ có thể trở thành.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa quyền lực về
ảnh hưởng. Những người nắm quyền lực trên chúng ta áp bức chúng ta, cố gắng
biến chúng ta thành nô lệ, hoặc bản sao của con người họ. Những người gây ảnh
hưởng trên chúng ta thì lại không hề cố gắng xoay chuyển, thay đổi, hoặc đúc
khuôn chúng ta. Họ tạo ra cho chúng ta một khoảng không gian, trong đó chúng ta
có thể tìm thấy bản thân mình, và đường lối của riêng mình. Đức Giêsu không áp
đặt quyền lực trên các môn đệ của Người. Nhưng Người gây ra một ảnh hưởng sâu
xa trên họ. Cuộc gặp gỡ với Người mãi mãi thay đổi cuộc sống của Phêrô, Anrê và
Gioan.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu bằng
xương thịt. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Người một cách thiêng liêng trong lòng
tin, với tư cách là một Người bạn, một Người anh Cả, và một Đấng Cứu độ. Không
nhận biết Đức Giêsu là chưa khám phá được điều mà đạo Công giáo hướng tới. Đạo
Công giáo đưa đến một mối quan hệ nồng ấm, gần gũi với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mãi mãi ra đi rồi. Nhưng Người vẫn
luôn gần gũi với những ai chân thành tìm kiếm Người. Người không bao giờ áp đặt
bản thân Người trên bất cứ ai. Đối với kẻ nào thích được hiểu biết nhiều hơn
nữa, thì Người nói câu mà Người đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”.
Tất nhiên đó không phải là một cuộc gặp gỡ
một lần cho tất cả, nhưng chúng ta đang nói về một mối quan hệ đang phát triển
với Người.
Các môn đệ đầu tiên
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giêsu mà không
do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy bổn
phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là biết và
tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này có cần
được giới thiệu lại về Đức Giêsu để họ biết và tin Ngài đích thực hơn, nghĩa là
niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức Giêsu,
bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình - thay vì tìm Ngài và lợi ích
cho Ngài - trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ những ưu
đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giêsu cho
người chưa biết Ngài
Đức Giêsu nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ
được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Sự cần thiết và
quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b;
Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v.v...). Nhưng tin không phải chuyện ai
cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người
mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người - hay hơn nữa - mang
danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin
phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc
có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay “nhân
duyên” (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi
người. Về điều này thánh Phaolô cũng viết: “Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu
cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không
tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai
rao giảng” (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người
giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương
trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp
thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất
lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không
nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay,
ta thấy Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ
theo Ngài: hai môn đệ này một người là Anrê, và người kia chắc hẳn là Gioan
(nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân
mình). Nhờ Gioan Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của
Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giêsu
cho người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người
không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao
người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong
thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy
họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những
người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của
mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và
cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế
không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa
nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Giacôbê nói: “Một thân xác không hơi
thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc
2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét
cho nghiêm túc lại là thứ “đức tin chết”, những đức tin giả hiệu, là “hàng giả”,
loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói
đến vấn đề “phúc âm hóa mới”, hay “tái phúc âm hóa”, nghĩa là giới thiệu lại
Đức Giêsu cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin
Ngài một cách đích thực hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong
Giáo Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã
hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức
Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành “muối” (x. Mt
5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành “men” (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức
ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì:
hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt
thì chỉ cần “một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men” (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men
thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta chuyện
này: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc
8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: “Men Pharisêu tức là thói đạo đức giả” (Lc
12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề
ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có
tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn “men Hêrôđê”
có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý
mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự - kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn,
tội lỗi - để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại
“men” này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một
đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại “men” này đã làm Giáo Hội, xã hội và
thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc “tái phúc
âm hóa” này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định
thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức
được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe
thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp
lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và
rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng
không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ
lại gì cho mình
Thái độ của Gioan Tẩy giả cũng là một gương
mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. Anrê và Gioan (nhỏ) đều đang là môn đệ
của Gioan Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã
từng nói với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng
xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người
sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gioan
Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy
để mọi người - kể cả các môn đệ của ông - tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì
thế, khi Gioan Tẩy giả “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là
Chiên Thiên Chúa”“ thì có “hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”.
Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn
Gioan Tẩy giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được
hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng
đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí.
Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung,
thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người,
rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người
sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người
kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền
đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này,
nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu
cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc
lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện,
khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi
hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần
bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới
thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi
trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ
buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng
được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những
người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy giả. Thiết
tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao
người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu giới
thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con
được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được cứu độ.
Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những
người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và tin
đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy
cho người khác. Amen.
Chiến dịch Anrê
Lm. Mark
Link
Chủ đề: "Chúng
ta hãy nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa
Giêsu"
Cách đây mấy năm, có một ông lão
được nhận vào bệnh viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá
hỏi ông lão vài câu hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy
tờ thủ tục nhập bệnh viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông
quí chuộng hơn cả là tôn giáo nào?”. Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui
sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng
trước đây chưa có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu
ấy”.
Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một
vấn đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia
sẻ đức tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như
sau: Nếu chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta
lại không chia sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng
vĩ đại nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia
sẻ với người khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?
Điều này dẫn chúng ta đến với bài đọc ngày
hôm nay. Bài đọc thứ nhất tường thuật việc Samuel chia sẻ niềm tin của mình với
chàng Eli. Bài đọc thứ hai thuật lại việc thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình
với tín hữu Côrintô. Và bài Phúc Âm trình bày Gioan tẩy giả chia sẻ đức tin với
hai môn đệ của mình, và Andrê chia sẻ đức tin với anh em mình là Phêrô.
Chúng ta hãy chú ý vào bài Phúc Âm và đặc
biệt vào trường hợp Andrê. Sự kiện thánh Gioan nhắc đến Andrê những ba lần
trong Phúc Âm của ngài quả thực mang đầy ý nghĩ. Lần nào Andrê cũng dẫn đến với
Chúa Giêsu một người nào đó, lần nào ông cũng chia sẻ đức tin của mình với kẻ
khác, trong bài đọc hôm nay, Andrê dẫn Phêrô, anh mình đến với Chúa Giêsu, mà
Ngài đặt làm viên đá để xây dựng Giáo hội Ngài trên đó. Về sau, Andrê lại dẫn
đến với Chúa Giêsu một em bé có 5 ổ bánh và hai con cá (Ga 6: 8) và Chúa Giêsu
đã dùng bánh và cá này để thiết đãi đám đông đang đói một bữa no nê. Sau cùng,
chính Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu vài người Hy Lạp (Ga 12: 20-22), để rồi
Chúa Giêsu thừa cơ hội này dạy cho dân chúng những điều trọng đại.
Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi ban đầu; Nếu
quả thực chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà chúng ta có thể chiếm
hữu được, thì tại sao chúng ta lại không muốn chia sẻ kho tàng của chúng ta cho
kẻ khác?
Câu trả lời mà chúng ta thừơng nghe là: người
khác có thèm chú tâm đến Đức Giêsu đâu: câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi trên là
nhiều người nghĩ rằng ông lão kia cũng chả chú tâm gì đến Chúa Giêsu. Có lẽ họ
tự nghĩ; “Nếu ông lão chú tâm đến Chúa Giêsu hoặc nếu lão ta muốn trở thành một
người Công giáo thì lão ta đã lo liệu được việc đó từ lâu rồi!”
Vài năm trước, một giáo viên trung học ở
Chicago đã yêu cầu mỗi học viên trong lớp phỏng vấn ba người về vấn đề cầu
nguyện. Các học viên phải đặt cho họ 5 câu hỏi:
- Anh (chị) có cầu nguyện không?
- Anh (chị) cầu nguyện hằng ngày
hay chỉ thỉnh thoảng?
- Tai sao anh (chị) cầu nguyện?
- Khi cầu nguyện, anh (chị) cầu
nguyện như thế nào?
- Ai đã dạy anh (chị) cầu nguyện?
Cuộc phỏng vấn của các học viên đem lại ba
điều ngạc nhiên:
Thứ nhất, các học viên ngạc nhiên vì không
ngờ người ta lại sẵn lòng bàn luận đến vấn đề cầu nguyện như thế.
Thứ hai, họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều
người cầu nguyện hằng ngày.
Và thứ ba, họ ngạc nhiên vì có nhiều bạn bè
thân thiết của mình có cầu nguyện, thế mà trước đó họ chưa hề bao giờ bàn luận
với nhau vấn đề ấy.
Một sinh viên nói về cuộc phỏng vấn:
“Tôi cứ tưởng các bạn tôi sẽ chế nhạo cuộc
phỏng vấn, thế mà hoàn toàn khác hẳn, họ đã kính cẩn trả lời. Một trong các bạn
tôi nói rằng anh thực vui mừng khi bàn về một điều thực sự có ý nghĩa như thế.
Một cô gái kết luận: “Điều tôi thu lượm được
từ dự án phỏng vấn nói trên chính là:Người ta đã thực sự quan tâm đến vấn đề
cầu nguyện”
Tất cả chúng ta đều đã đọc các bài viết trong
các tạp chí bàn về cách thức trở nên một người nói chuyện có duyên hơn, hoặc
bàn về việc trau dồi nhân cách bằng cách trau dồi nghệ thuật nói chuyện của
mình. Các bài ấy luôn luôn nhấn mạnh điều này; Chúng ta nên nói đến những gì
thân thiết và quan trọng đối với chúng ta. Thế mà có gì thân thiết và quan
trọng hơn là niềm tin vào Chúa Giêsu? Ai còn nghĩ rằng người ta chả quan tâm gì
đến những việc này thì nên ghi nhớ cuộc khảo sát của các sinh viên nêu trên.
Người ta chẳng những ủng hộ cuộc khảo sát mà còn lấy làm hăng hái tham gia vào
đó là khác.
Điều này khiến chúng ta đi đến một điểm quan
trọng “chúng ta nên chia sẻ đức tin của chúng ta với kẻ khác”. Bất cứ ai nghĩ
rằng điều này không quan trọng thì người ấy nên ghi vào tâm trí câu chuyện về
ông lão nói trên. Giả như cô y tá chẳng hỏi ông về vấn đề tôn giáo thì chắc hẳn
ông đã qua đời trong tình trạng chưa thực hiện được giấc mơ trở thành một người
công giáo.
Và bất cứ ai nghĩ rằng việc chia sẻ đức tin
của mình với kẻ khác là chả quan trọng thì kẻ ấy nên ghi vào tâm trí bài Tin
Mừng hôm nay. Giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin với ông anh Phêrô thì có
lẽ chẳng bao giờ Phêrô trở nên tảng đá trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội
Ngài. Và giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin của mình với cậu bé có năm
chiếc bánh và hai con cá thì có lẽ đám đông trên đồi sẽ trở về nhà bụng đói meo
và Phúc Âm có lẽ đã không có được một trong những câu chuyện hứng khởi nhất của
toàn bộ Kinh Thánh rồi!
Để kết luận, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi
chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia
sẻ đức tin của mình với kẻ khác? Nếu chúng ta tin Phúc Âm là Tin Mừng và nếu
chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu,
thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con
cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những ai mà ta biết đang tìm kiếm một
niềm tin? đây là vấn nạn cực kỳ quan trọng mà Tin Mừng hôm nay đặt ra trước mỗi
người trong chúng ta. Không ai có thể trả lời dùm chúng ta. Chúng ta phải tự
mình trả lời lấy, mỗi người tuỳ theo cách thức riêng của mình. Và chúng ta bị
bắt buộc phải trả lời câu hỏi ấy. Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng
ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khấn nguyện.
Xin quí vị yên lặng hiệp ý cùng tôi.
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng
con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ đôi bàn tay
chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn, Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng
con để ôm ấp những kẻ cô đơn; Chúa chỉ nhờ giọng nói chúng con để chia sẻ sứ
điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết rằng ở
nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng
nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa."
Chú giải mục vụ của
Alain Marchabour
VIỆC KÊU
GỌI NHÓM MƯỜI HAI THEO TIN MỪNG GIOAN.
Trong chương 1, câu 35-51, Gioan trình bày
việc kêu gọi năm môn đệ: Anrê, một môn đệ không tên, Phêrô, Philipphê và
Nathanaen. Ngoài ra, ông còn nêu tên Giuđa Iscariôt: thêm một Giuđa nữa và
Tôma. Dù rằng đôi khi ông có nói đến nhóm Mười Hai (6,67; 20,24), nhưng trong
Tin Mừng không thấy có danh sách nhóm Mười Hai như trong các sách Tin Mừng Nhất
Lãm.
Việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên, nơi Gioan,
rất khác với điều mà các Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật cho chúng ta, theo đó
Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đang quăng chài xuống biển thì Chúa Giêsu đến kêu
gọi các ông. Nơi Gioan, các người được kêu gọi đầu tiên trước hết là các môn đệ
của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả được huấn luyện sống đời tu trì (Mc 2,18; Lc
5,33; 11,1). Mt 11, 2-6 thuật lại Gioan Tẩy Giả, lúc đang ngồi tù, đã sai vài
môn đệ của mìhh đến hỏi Chúa Giêsu. Thế nhưng chỉ có một thánh sử Gioan trình
thuật việc một số môn đệ của Gioan Tẩy Giả chuyển qua đi theo Chúa Giêsu. Hình
như Gioan có sẵn những thông tin trực tiếp về những mối quan hệ giữa Chúa Giêsu
và Gioan Tẩy Giả. Thực vậy, ông ám chỉ đến một hoạt động có thể có của Chúa
Giêsu như làm phép rửa (Ga 3,22; 4,1-2). Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả đã có thể
là thành viên của phong trào thanh tẩy rất phổ biến suốt thể kỷ I và xuất hiện
như một phong trào canh tân chống lại nền văn minh, mang tính đặc sủng và phổ
quát. Rõ ràng Gioan muốn lưu ý rằng bây giờ Gioan Tẩy Giả phải lu mờ đi trước
Đấng mà ông có sứ mạng loan báo.
Kể từ đây cho đến chương 2, câu 12, thánh sử
miêu tả, ngày qua ngày, diễn tiến đức tin của các môn đệ vào Chúa Giêsu. Ông đã
tập trung làm một bản tóm lược về Chúa Kitô, theo nhiều tước hiệu của Chúa
Giêsu: Rabbi và Mêsia (35-42); Đấng mà sách Luật và các ngôn sứ nói tới: Con
Thiên Chúa và Vua Israel (43-50); Con Người (51). Cuối cùng ở 2,11, “Chúa Giêsu
bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Một diễn tiến như
thế không thể thực hiện trong vài ngày: các Tin Mừng Nhất Lãm trình luật cho
chúng ta một cách thực tế hơn việc khai sinh đức tin của các môn đệ khó khăn và
trì trệ như thế nào. Về điểm này, các Tin Mừng đó sát thực hơn với điều gì đã
phải xảy ra.
HAI MÔN ĐỆ (cc. 35-49)
Gioan Tẩy Giả tuyên bố ông chỉ là tiếng người
hô loan báo Chúa đến: “Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi” (3,30).
Từ đó ông đi đến kết luận bằng cách hướng hai môn đệ của mình đến với Chúa
Giêsu. Lần thứ hai, ông lên tiếng nói về Chúa Giêsu như “Chiên Thiên Chúa”.
Tước hiệu này nhất định hấp dẫn trong cộng đoàn của Gioan Tẩy Giả (và cả trong Giáo
Hội), bởi vì nó khích động sự tò mò của hai môn đệ đối với Chúa Giêsu và khiến
họ lìa bỏ Thầy mìhh để theo Chúa Giêsu. Một trong hai người là Anrê (1,40). Còn
người kia không được nêu tên. Nhiều người cho rằng có thể đó là người môn đệ
được Chúa Giêsu thương mến, Gioan, con ông Giêbêđê.
Bốn câu tiếp theo rất súc tích bởi vì chúng
dẫn nhập Tin Mừng nhiều chủ đề quan trọng.
Đây là sự gắn bó đầu tiên với Chúa Giêsu
trong Tin Mừng: theo nghĩa này, quả là hệ trọng.
Ta gặp được từ ngữ đặc trưng miêu tả sự gắn
bó với Chúa Giêsu: “ Anh hãy theo Tôi” (các câu 37,38,40,43). Ta sẽ gặp lại từ
này trong 8, 12; 10,4.27; 12,26; 13,36;21,19.22.
Sự gắn bó với Chúa Giêsu không chỉ là kết quả
từ sự gợi ý của Gioan Tẩy Giả. Trước đó còn có sự tự do lựa chọn và lời Chúa
Giêsu kêu gọi các môn đệ. Gioan chỉ là một người trung gian. Đối với hai môn đệ
đang tìm hiểu (Các anh làm gì thế?). Chúa Giêsu bảo họ đến xe chỗ Người ở để
chính Người ban tràn đầy điều họ trông đợi (xem 15,16).
Môn đệ là người “ở lại” với Chúa Giêsu. Động
từ “ở lại” được dùng ba lần ở đây. Đối với Gioan, đó là một từ ngữ thần học
đánh dấu đức tin dược thực hiện và sự dứt khoát gắn bó với Chúa Giêsu (xem ví
dụ 6,56; 8,31; 10,40; 15,4). Tiến trình hình thành đức tin là như thế đó: đến
với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở, ở lại với Người.
Hai môn đệ ở lại với Chúa Giêsu từ khoảng bốn
giờ chiều. Nhưng lại không xác định lý do (thời điểm ngày Sabát?); sự kín đáo
này góp phần tạo cho bài trần thuật một chiều kích huyền nhiệm mà gợi mở: mỗi
tín hữu đều được mời gọi thực hiện một tiến trình như vậy. Tin thường thông qua
những trung gian loài người. Nhưng mà điều cốt yếu hệ tại ở lời kêu gọi của
Chúa cũng như ở sự tự do và bằng lòng gắn bó với Chúa Giêsu. Câu kế tiếp (1,41)
giúp chúng ta hiểu được lúc bấy giờ hai môn đệ nhận biết Chúa Giêsu là Đấng
Mêsia nghĩa là Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới (1,45).
CUỘC GẶP GỠ ÔNG SIMON PHÊRÔ (cc.
40-42)
Dù các tình huống thế nào đi nữa (Phêrô nhờ
qua trung gian Anrê, Nathanaen nhờ qua Philipphê, còn Philipphê được gọi trực
tiếp), thì luôn luôn chính Chúa Giêsu khởi xướng bằng cái nhìn thích đáng chính
lời nói quyết định của Người kêu gọi và xét xử mọi người. Thánh sử hoàn toàn
không nói gì về sự tiếp nhận của Phêrô. Ông đặc biệt chú ý đến lời Chúa Giêsu
loan báo cho Phêrô rằng ngày kia ông sẽ nhận một tên mới: “Kêpha”. Làm như vậy,
thánh sử hướng đến hai mục tiêu: trước tiên, như ông thường làm, nhấn mạnh
quyền năng của Chúa Giêsu tỏ hiện ở đây như Đấng mặc khải; tiếp theo, đặt để
Phêrô ngay từ bước đầu trong tư thế lãnh đạo, ngài sẽ là đại diện của nhóm Mười
Hai (6,67) và là mục tử của đoàn chiên (chương 2). Chính với Phêrô mà Chúa
Giêsu ngỏ lời đầu tiên đầy ý nghĩa theo Tin Mừng Gioan.
Chú giải của Noel
Quesson
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ
lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt" trên lại được một
thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau
bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời
gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường" hơn, đó là các Chúa Nhật
xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt,
kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt.
Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới,
hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội
trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng
với hai người trong nhóm môn đệ của ông".
Đây là biểu tượng cho "nếp sống thường
ngày", bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm
đạm... cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán
hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt
đó, thông thường xem như "không có cái gì xảy ra", thì lại sắp phát
sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một
điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất
Tin Mừng của ông, như một "Tuần lễ đầu tiên": chủ yếu là gây chú ý
"buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn
Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả
xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, "Hôm sau, Đức
Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, "Ba ngày sau”,
phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh
quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan
muốn báo cho chúng ta một "Tin Mừng": đây là một cuộc sáng thế mới,
một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh
Thánh. Toàn thể "mạc khải" như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời
gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra
điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ
thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một
điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến
những gì sắp gây ra đến "biến cố" sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho
con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông
lên tiếng nói: "Đây là chiên Thiên Chúa”.
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và
đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển
giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác.
Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được
coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là "Chiên Thiên
Chúa" sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại
trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan
Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc
đó. Tước hiệu này thực sự là bước "chuyển tiếp" từ Cựu ước sang Tân
ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào
ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa
nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc "giải
phóng" ít-ra-en. Ngoài ra, từ "con chiên" trong tiếng A-ra-mên,
ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng
đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu
“người Tôi tớ của Thiên. Chúa" hoàn hảo như "một con” chiên bị người
ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than". Vậy Đức Giêsu đã được
chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến
mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức
Giêsu, người ta thường nói tới một "con chiên Chúa", có thể mọc sừng
cừu đực và lãnh trách nhiệm "bảo vệ cả đoàn chiên". Ngoài ra, đó cũng
là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con
chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công
và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng "Đây Con
chiên vô cùng hiền lành" không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca
ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô
hại ... Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm
đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu
như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
"Hai môn đệ nghe ông nói đều
đi theo Đức Giêsu”.
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức
Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót
chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp... Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là
một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá "liều” khi theo một người lạ
như thế . Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại
đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông
đi theo mình, thì hỏi..."
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên
sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây
cũng là "cái nhìn đầu tiên" của Đức Giêsu đối với những người lạ
mặt...
“Các anh tìm gì thế?”
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi
nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi
người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. "Bạn tìm gì đó? Bạn đặt
cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của
Đức Giêsu không phải là một "khẳng định", nhưng là một "câu
hỏi'. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ "cởi mở",
không thể "khép kín" trong một hệ thống đóng khung, như các "tư
tế và trợ tế" đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại
người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’.
Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh
và đào sâu đức tin, phải là thái độ "tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là
thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. "Lạy Chúa,
Chúa là ai?", kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác
tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. "Không có Thiên Chúa! - Bạn
có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia -
Bạn có xác tín như thế không?". Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói:
"Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết "hồ nghi". Cũng vậy,
cần phải biết "đặt câu hỏi", như một thứ điều kiện để phát triển đức
tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: "Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín,
không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể
"thấm ướt" được, thì làm sao có thể tiếp thu... ".
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết
mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: 'Thưa Rapbi, (nghĩa là
thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem".
Tìm kiếm... bước theo... cư ngụ... đó là ba
thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết
chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng
mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn
trọng tự do của họ: "Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi
theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần
thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử
dụng để trình bày đức tin như thế nào?
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở
lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.
Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp
lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú
ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến
của "người môn đệ": "kiếm tìm"(1,38), "đến xem"
(1, 39 và 46), "quan sát" (l,39 và 41), "gặp thầy" (1,41 và
45), "bước theo” (l,37.38.40.43) "ở lại" (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước
theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của
hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc
"bốn giờ chiều', (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã
trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng,
những mong ước, thái độ "tìm kiếm" của họ. Còn Đức Giêsu, có thể
Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô,
là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết,
ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa
là Đấng Kitô".
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời
gọi của Thiên Chúa, hay "ơn gọi", thực tế được truyền đến tai con
người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên
Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường
hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và
Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn
một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có
lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức
Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan. Anh
sẽ được gọi là Kêpha", "tức là Phêrô".
Trở nên môn đệ, nghĩa là "thay đổi"
đời sống... đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một "con người
mới". Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên,
mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình
thật là phi thường .
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn
khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi
tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những
con người đó đã "tìm kiếm" Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu
cũng kiếm tìm họ... Chinh Người khởi xướng trước nhờ "ân sủng" kỳ
diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người... vừa là lời mời
gọi của Thiên Chúa.
Chú giải của Fiches
Dominicales
TỪ LỜI
CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU.
TỪ CUỘC
GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU ĐẾN LỜI CHỨNG CỦA NHỮNG MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ lời chứng của Gioan đến
cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu:
Người đọc có thể nhận ra ngay những điểm dị
biệt so với bài tường thuật về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên nơi các Tin Mừng
Nhất lãm.
Theo sự trình bày của Gioan, các môn đệ đầu
tiên, những con người sẽ tập hợp thành cái nhân ban đầu, của nhóm Mười Hai, quả
là dân gốc gác xứ Galilê. Nhưng câu chuyện họ được Chúa gọi ở đây lạt không xảy
ra ở ngay tại Galilê, bên bờ hồ nào đó thuộc miền ấy, mà lại ở bờ sông Giođan
nơi họ từng theo làm môn dê của Gioan Tẩy Giả.
Cũng vậy, trong lúc nơi các Tin Mừng Nhất
lãm, lời kêu gọi của Chúa mặc hình thức một lệnh truyền: "Các anh hãy theo
tôi", thì ở đây, hai môn đệ đầu tiên, là Anrê và chắc là Gioan, con ông
Giêbêđê, lại được khỏi động bởi lời chứng của Gioan Tẩy Giả: "Thấy Đức
Giêsu đi ngang qua, tác giả Tin Mừng viết, ông lên tiếng nói: "Đây là
Chiên Thiên Chúa”. Lời chứng xác nhận các điều đã hứa xưa, nay đã được thực
hiện nơi Đức Giêsu. Rồi thánh sử Gioan tiếp ngay: "Hai môn đệ nghe ông
nói, liền đi theo Đức Giêsu" ("đi theo", trong ngôn ngữ Kinh
Thánh có nghĩa là: làm môn đệ).
Tuy nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của lời
chứng ông Gioan trong quá trình gặp gỡ Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng
quan tâm không kém đến tư cách chủ động của Chúa trong suốt bài tường thuật.
Chính việc Đức Giêsu "đi ngang qua"
đó là cơ hội để Gioan Tẩy Giả làm chứng: "Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chính
Người đã "quay lại”, thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, mới hỏi:
"Các anh tìm gì thế? Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong
Tin Mừng Gioan. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục
Sinh sau này nói với Maria Mácđala: "Bà tìm ai?". Câu hỏi đó đã gợi
lên cho hai người môn đệ ý thức rõ điều thực sự họ đang tìm kiếm, và đồng thời
mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay, biết đặt mình trước
mặt Chúa, để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng
ta.
Anrê và người bạn kia đáp lại bằng cách hỏi
Chúa: "Thầy ở đâu?”. Câu hỏi vượt xa chuyện đơn giản chỉ liên can đến nơi
ăn chốn ở của Chúa, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giêsu với Chúa
Cha.
Và chính Đức Giêsu mời gọi các ông: "Đến
mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở,
mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết người một cách thâm
câu hơn, là "kiểm nghiệm bằng một thấy tai nghe, bằng con người xương
thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đúc tin" (x: P.E Jacquemin,
"Assemblées du Seigneur", số 33, trang 57). Chúng ta đọc thấy nơi Ga
1,1-3: "Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã, chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến... Chúng tôi loan báo cho cả
anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”.
2. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu
đến lời chứng của các môn đệ:
- Thế là có một cuộc gặp gỡ: “Họ đã đến xem
chỗ Người ở, thánh sử viết tiếp, và ở lại với Người ngày hôm ấy”.
A. Marchadour ghi nhận: "Cuộc gặp gỡ
được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều
kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đầu được mời gọi
thực hiện cùng một bước đi ấy" (L'evangile de Jean, Centurion, trang 48).
Việc láy đi láy lại động từ “ở (lại)"
("demeurer") lôi kéo chú ý của người đọc đến một yếu tố cốt thiết. A.
Marchadour nhận xét thêm: "ở (lại)" trong Tin Mừng của Gioan, vẫn
theo tác giả trên, là một thuật ngữ thần học chỉ sự hoàn tất trong Đức Tin, sự
gán bó trọn vẹn vào Đức Giêsu... Đó là những bước đi đúc kết nên Đức Tin: đi
theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ngồi ở, ở lại với người: (Sđd, trang 47).
Đàng khác, tác giả Tin Mừng dừng lại lâu để
mô tả cái phản ứng dây chuyền phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy với Đức Giêsu. Anrê
gặp em mình là Simon, và dẫn ông này đến gặp Đức Giêsu, người mà ông xưng là
"Đấng Mêsia'? Và rồi Đức Giêsu đặt cho ông em này một tên mới, mang ý
nghĩa tượng trưng, cái tên công bố và biểu lộ ơn gọi rất riêng của ông ta, giữa
hàng ngũ các môn đệ: “Anh là Sirnon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Képha
(tức là Phêrô) ”.
Theo truyền thống Nhất Lãm, Anrê và Simon cả
hai được Đức Giêsu kêu gọi cùng một lần. Theo Gioan, Simon đến gặp Đức Giêsu
qua trung gian giới thiệu của anh mình; một cách nào đó ông là "kẻ đến
sau”? Tuy nhiên điều đó không phủ nhận chút nào vị thế hàng đầu của Simon trong
nhóm các môn đệ, bởi chính ông này, theo tường thuật của Tin Mừng thứ tư, là
người được vinh dự Đức Giêsu ngỏ lời riêng đầu tiên.
Sau đó, Đức Giêsu gặp Philípphê và nói: “Anh
hãy theo tôi (Philípphê là người Bétxaiđa, đồng hương với Anrê và Phêrô). Và
Philípphê lại tiết lộ với Nathanaen: Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói
tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth"
(c.45).
Cứ như thế, theo lối diễn tả của X.
Léon-dufour, "ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người
khác" (Lecture de l'evangile selon Jean, tập 1, Seuil, trang 185). Phải
chăng cũng chính nhờ lời chứng của các môn đệ đầu tiên đó mà biết bao tín hữu
khác, đến lượt mình, cũng đã gặp gỡ được Đức Giêsu, là Đức Kitô? Làm sao Anrê
và người bạn kia của ông đã phát hiện được Đấng Mêsia, nếu không nhờ Gioan Tẩy
Giả? Simon Phêrô cũng thế, nếu không có anh mình là Anrê? Và cả Nathanaen, nếu
không có Philípphê? Đến lượt chúng ta cũng vậy chúng ta sẽ chẳng bao giờ lãnh
nhận được đức Tin nếu không nhờ sợi dây chuyền vĩ đại móc nối chúng ta với
những môn đệ đầu tiên ấy.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Những cuộc gặp gỡ đầu tiên”.
(Mgr. L.Daloz, Nous avons vu sa gloire,
Desclée de Brouwer, trang 2830).
"Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp
gỡ giữa Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả. Không một lời trao đổi nào giữa hai vị
được thuật lại. Gioan nhìn thấy Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, nói về Đức
Giêsu. Ông là nhân chứng, là bạn, là tiếng nói. Điều ông phải nói, ông đã học
được từ Đấng sai ông. Ông không phải là môn đệ của Đức Giêsu. Ông là vị tiền
hô. Sau ông, sau Đức Giêsu, là một thời mới đã khởi đầu. Sau phép rửa trong
nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực
tại mới mẻ, như ông Môsê được từ xa nhìn thấy đất Hứa, vừa đồng thời là người
hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giêsu: "thấy Đức Giêsu đi
ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời nói của Gioan tác
động ngay trên các môn đệ: Các ông đi theo Đức Giêsu. Gioan phải có được một
sức mạnh từ bỏ lớn như thế nào để có thể sẵn sàng gởi chính những môn đệ của
mình đến với Đức Giêsu. Ong không chỉ đã dọn đường cho Chúa, mà còn đã dọn lòng
những con người, để họ biết Chúa và theo Chúa. Ngay khi vừa tiếp nhận những môn
đệ của Gioan, Đức Giêsu khai trương sứ mạng của Người. Mẩu đối thoại thật ngắn
gọn, dứt khoát: "Các anh tìm gì thế? Thưa Rápbi, Thầy ở đâu? Đến mà xem?
Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Tác giả xác định giờ
giấc của cuộc gặp gỡ ban đầu ấy: Lúc đó là khoảng giờ thứ mười. Như vậy, bước
thứ nhất của những kẻ sau này sẽ là tông đồ và nhân chứng của Đức Giêsu là nhận
biết Người, đi theo Người, ở lại với Người. Vấn đề trước hết không phải là đi
đâu và làm gì. Điều này vẫn luôn luôn đúng cho chúng ta. Đức Giêsu là: Đấng đến
để hoàn tất công việc mà Chúa Chúa đã giao phó cho: Người loan báo Nước Trời,
Người chết cho mọng người, người cứu chuộc qua mầu nhiệm Vượt Qua của người.
Trước tiên, chúng ta cần phải bước vào Nước ấy, phải nhận biết Đức Giêsu, phải
làm môn đệ của Người. rồi sau đó chúng ta mới sẽ là nhân chứng của Người. Nếu
chúng ta tưởng rằng chính chúng ta sẽ ra đi cứu độ thế gian thì coi chừng lầm
to. Chỉ có một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu. Không ai có thể làm chứng nhân nếu
trước hết không là môn đệ.
Dù sao, cuộc gặp gỡ ban đầu này đã mau chóng
dẫn đến hành động làm chứng đầu tiên: Anrê đi gặp em mình trước hết: Chúng tôi
đã gặp Đấng Mêsia. Câu nói nghe thấy đơn giản làm sao! Chúng ta không còn được
nghe thấy âm thanh cảm xúc có thể đã dâng trào trong cõi lòng người thanh niên
Do Thái dám thốt lên lời đó. Đấng Mêsia, niềm khát vọng của Israel... Thánh sử
Gioan cho phép chúng ta cảm thấy điều lạ lùng trong việc Đấng Messia đọc được
điều thầm kín trong lòng con người, và ngay từ giây phút đầu đã ghi dấu đậm đà
trên cuộc đời những kẻ người gọi. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: "Anh là
Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Phêrô? Đức Giêsu luôn
biến đổi những ai đến với người. Người đặt cho họ một tên mới. Người trang bị
cho họ khả năng để nhận lãnh sứ vụ mà Người sẽ sai thực hiện.
Cả ba người môn đệ đầu tiên đến với Đức Giêsu
nhờ sự dẫn dắt của người khác. Điều đó có thường xảy ra cho chúng ta? Có được
bao nhiêu người trên đường đời đã giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu...?".
2. “Khởi đầu của một cuộc phiên
lưu lạ lùng" .
(F. Deleclos).
Có những phút giây hay những lần gặp gỡ mà
người ta không bao giờ quên được. Đó là những khoảng khắc của ánh sáng hay của
sự đồng cảm sâu xa sẽ mãi mãi ghi dấu và định hướng cuộc đời con người.
"Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười...? Năm mươi năm về sau, Gioan còn nhớ
chính xác cái ngày hôm đó, khi cùng với ông bạn Anrê, ông đã được nghe tiếng
người anh em bà con với Thầy mình đặt câu hỏi: "Các anh tìm gì thế?. Đó chính
là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng. Cuộc đời của các ông từ đây sẽ rẽ
sang một khúc quanh mới, một hướng đi mới (...).
Bắt gặp một cái nhìn qua đó biểu lộ cả một
con người. Cảm nghiệm được nhìn nhận, được tôn trọng và được kêu gọi. Cảm thấy
được trở thành chính mình và trờ nên khác, được lớn lên và tiếp tục vươn lên
thêm mãi. "Thầy ở đâu? Đến mà xem”? Họ đi theo và đến xem chỗ Người ở và ở
lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Tất cả chỉ đơn giản
thế thôi và gây ngỡ ngàng biết bao.
“Các anh tìm gì thế”?. Câu hỏi hệ trọng ấy
không chỉ đặt ra cho những "hiện tượng hiếm hoi" trong trời đất, hay
cho những nhân vật xuất chúng. Nó được dành cho tất cả chúng ta. Nó không chỉ
khai sinh ra các bậc ngôn sứ và các vị thánh được tôn phong, nhưng chủ yếu mọi
người tín hữu.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi nào đường trần
gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi người đi ngang qua giữa
chúng ta, như xưa Người đã "đi ngang qua" giữa các môn đệ bên bộ sông
Giođan .
Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao
giờ giăng bẫy rình bắt ai. - Người chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê
hoặc dụ dỗ người nào. Người ta vẫn có thể đi sát một bên
Người mà không hay không biết, vẫn có thể
thấy Người mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay
lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai: "Đây là Chiên
Thiên Chúa”? Tuy nhiên chỉ có những người nào biết tìm kiếm và khao khát chân
lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt mới có thể lay động và lắng nghe. Ngoài ra
còn phải có thái độ sẵn sàng để đi theo Người và đến mà xem.
Đức Tin chớm nở từ lời hỏi đáp: “Thầy ở
đâu?”. Thế là bắt đầu cuộc trao đổi với Chúa. Con người còn cần phải đi theo
Người, đồng hành với Vị Thầy và ở lại với Người để hiểu biết thêm”.
Chú giải của Giáo
Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁC MÔN
ĐỒ TIÊN KHỞI
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Gioan Tẩy giả còn đứng đó với
hai trong nhóm môn đồ của mình": Về sự
hiện hữu của nhóm môn đồ thường trực quanh Gioan Tẩy Giả, xem Mc 2,18 tt, Mt
11,2; 14,1; Lc 1,1; Ga 3,25. Lát nữa, bản văn sẽ xác định một trong hai môn đồ
là Anrê, anh của Simon (câu 41); lai lịch của môn đồ kia vẫn còn bí ẩn. Có lẽ
là "môn đồ Chúa Giêsu yêu dấu" (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20), tức
Gioan, con ông Giêbêdê, người được truyền thống cho là tác giả Tin Mừng thứ 4
và muốn giữ tính chất vô danh của mình dưới cách gọi đó.
"Hai môn đồ... đi theo Chúa
Giêsu": Lời tuyên bố của Gioan Tẩy giả đã khiến hai
ngươi quyết định rời bỏ sư phụ mà theo Chúa Giêsu. Một lần nữa, như trường hợp
Samuen, ơn gọi của họ đã được gợi lên cho một kẻ khác, do một người không phải
là "ánh sáng", nhưng là "chứng nhân ánh sáng" (1,8; 3,3)
Chẳng một chi tiết giai thoại hoặc tâm lý, chẳng một chi tiết về nơi chốn, hoàn
cảnh hay tâm tình các nhân vật người kể lã thu tóm tất cả trong một lược đồ giản
đơn, với những ghi chú và đối thoại vắn gọn.
"Hãy đến mà xem, Người bảo
họ": Chúa Giêsu chẳng muốn cho một chỉ dẫn địa
hình. Nói cách khác, không thể biết Chúa Giêsu "ở" đâu nếu không đích
thân “đến xem" Người. Động từ hy lạp “thấy" được dùng ở đây (hoàn)
không chỉ nói lên việc xem thấy thể lý (mà người ta vẫn thường diễn tả qua
tiếng emblopein (ngó) như ở c.36). Nó bao hàm sự nhận thức và thấu hiểu một
thực tại thiêng liêng. Nhưng nhận thức và thấu hiểu này đòi hỏi một sự dấn thân
trước. Câu “Ai từ chối tin vào Con sẽ chẳng thấy sự sống" (3,36) hiểu theo
ý nghĩa như vậy. Thành ra "thấy" không có nghĩa là chứng kiến từ bên
ngoài một quang cảnh, nhưng chính là kết quả của cuộc hành trình đi theo Chúa
Giêsu: "Phàm khi trở lại với Chúa, màn mới được cất đi " (2Cr 3,16).
“Họ đã lưu lại với Người":
Đây là giai đoạn đầu của một cuộc sống chung sẽ được triển nở trong sự hiệp
thông sâu xa nhất: Hãy lưu lại trong Ta như Ta trong các ngươi. Như cành nho
không thể tự sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho, thì các ngươi cũng
vậy, nếu không lưu lại trong Ta" (15, 4).
Lúc đó khoảng chừng giờ thứ mười!:
Với mỗi ưu tư đặc biệt luôn ghi chú chính xác những khoảng thời gian (4,25;
18,28; 19, 14. 20, 19), Gioan bảo lúc đó là chừng giờ thứ mười (theo lối phân
chia vận hành của mặt trời thành 12 giờ từ bình minh đến hoàng hôn), tức lối 4
giờ chiều. Ghi nhận này phải chăng là một hồi tưởng cá nhân hay một chi tiết
biểu tượng? Trong vài bản văn Cựu ước hay Do thái giáo đương thời, số 10 tượng
trưng con số hoàn hảo, nên giờ thứ mười ở đây có lẽ là giờ của sự hoàn thành và
đánh dấu khởi đầu công việc của Chúa Giêsu. Thật vậy, ở 11,9, ngày là một hình
ảnh đặc trưng thời Gioan sứ vụ tại thế của Chúa Giêsu (x. 9,4t; 12,35).
“Anrê, em của Simon Phêrô, là một
trong hai...": Tên Hy lạp Andreas, cũng như
tên Simon (là cách viết theo hy ngữ của tên Himéon), chứng tỏ hai anh em có
nguồn gốc hy lạp. Đúng vậy, hai anh em là người vùng Bethsaiđa-Guilia, ngày nay
là Et-Tell, phía đông bắc hồ Tibêria, trong đồng bằng được con sông El-Ebtebah tưới
gội, thuộc quyền Phillp quận vương. Những hoài vọng- thiên sai vẫn còn sống
động ở đấy Người Galilê luôn được chú ý vì lòng nhiệt thành của họ. Lời rao
giảng của Gioan Tẩy giả đã vang dột đến miền này và ông có nhiều môn đồ người
Galilê.
"Lúc ban sáng":
cách đọc này không chắc. Nhiều thủ sao đáng tin (Sinaiticus, L.W ...) lại viết
prôtos (premier, thứ nhất). Nếu cách đọc sau là đúng, thì câu văn muốn nói:
Anrê là người thứ nhất đã tìm gặp anh của mình (idion) -Hiểu ngầm rằng người
bạn của ông sau đó cũng đã tìm gặp anh của y, tức là Gioan đã dẫn Giacôbê đến
và như thế là ở đây ta mặc nhiên có tên 4 môn đồ đầu tiên được gọi tên bờ hồ
(theo Tin Mừng Nhất lãm). Cách đọc này có vẻ tinh vi quá! Đa số các thủ sao
đáng tin khác (P.66, P.75, Sinaiticus col Úrecteur A. B. X...) lại viết là
prôton (trước tiên, d'abord). cách đọc này có ý nghĩa hơn và được giải thích dễ
dàng là để chỉ cuộc gặp gỡ đầu hết trước cuộc gặp gỡ ở câu 43 và 45: Trước tiên
Anrê đi tìm Phêrô (nghĩa là trước lúc làm bất cứ chuyện gì khác), còn môn đồ
kia làm chi, chẳng thành vấn đề. Sau cùng, hai bản dịch cổ kính nhất là bản Cựu
Latinh và Cựu Syriát lại viết mano (lúc ban sáng), tương ứng với prôi trong
nguyên bản.
Cách đọc này được giữ lại trong BJ (Mollat),
Boismard, pernard... Cho dù ít được xác nhận, nó vẫn là tuyệt vời nhất vì xác
định thời gian theo tinh thần của cả phần này, phần mà nhiều đoạn khởi đầu với
một ghi chú thời gian: ngày hôm sau, lúc còn sớm hay lúc tảng sáng, Anrê vội vã
đi thông báo tin vui rằng ông đã khám phá được Đấng Messia. Dẫu sao, về phương
diện phê bình văn bản, cách đọc prôi quá ít chắc chắn, đến nỗi người ta phải
ngạc nhiên khi thấy vài tác giả nổi tiếng chuộng nó hơn. Do đâu vậy?
Cách đọc Prôi hiển nhiên ám chỉ là người ta
đã đi sang một ngày mới trong cái "tuần, khai mạc mở đầu Tin Mừng Gioan:
đúng thế, các câu đi trước xác định công chuyện đã xảy ra vào lúc 4 gtờ chiều,
thành thử ghi chú "lúc còn sớm" đưa về ngày hôm sau. Điều này giúp
đạt được con số bảy trúng cách tính thời gian ở những trang đầu Tin Mừng Gioan,
cách tính gợi lên sự đối xứng biểu tượng giữa lúc khởi đầu việc sáng tạo (trong
7 ngày) và lúc khởi đầu việc tái tạo do sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Theo ý
chúng tôi, đấy là lý do chính khiến Boismard và nhiều tác giả khác chọn cách
đọc prôi thay vì protos hay prôton. Nhưng quả là luôn luôn nguy hiểm nên chỉ
dựa vào những giả thuyết thần học để chọn một cách đọc cho bản văn. Trên quan
điểm khoa học, cách đọc prôi hầu như không thể chấp nhận được. Nhưng phải chăng
vì thế mà phải loại bỏ sự đối xứng thật hấp dẫn giữa Gioan và Sáng thế, sự đối
xứng được tăng cường do việc Tin Mừng thứ 4 cũng chấm dứt bằng một tuần lễ được
tính toán kỹ lưỡng? (Ta có thể so sánh thêm: cuối tuần đầu tiên của sứ vụ,
“Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang người'' bằng việc làm phép lạ đầu tiên trong 7
dấu chỉ thánh sử kể lại; cũng thế, cuối tuần sau cùng của sứ vụ trần gian. Chúa
Giêsu "biểu lộ vinh quang" bằng việc hoàn thành dấu chỉ thứ 7, dấu
chỉ lớn nhất, là cuộc phục sinh của Người): phải chăng phải loại bỏ tính cách
biểu tượng tuyệt vời đó chỉ vì lý do là cách đọc prôi không thể chấp nhận? Vài
tác giả hình như nghĩ vậy, nên đành hy sinh cách đọc chắc chắn hơn. Tuy nhiên,
chúng tôi thiết tưởng rằng có thể loại bỏ cách đọc prôi để khỏi cưỡng ép bản
văn mà vẫn giữ được lối biểu tượng như ta vừa trình bày.
Đúng thế, dù đọc protos hay prôton, thì cũng
phải có một quãng thời gian giữa câu 39 là 43. Hình như Anrê và người môn đồ vô
danh đã đàm thoại lâu giờ với Chúa Giêsu, khá lâu đủ để có được xác tín hồ hởi
rằng Chúa Giêsu là Đấng Messias. Thế mà ta biết cuộc đàm thoại đã chỉ bắt đầu
từ 4 giờ chiều và, đàng khác, rằng ngày tiếp theo chỉ bắt đầu 2 giờ sau đó (vì
ngày hôm sau, theo người Do thái đương thời, là luôn bắt đầu lúc mặt trời lặn).
Thành ra thực là hữu lý khi giả thiết cuộc đàm thoại đã kéo dài trong đêm khuya
và nhu vậy giai thoại tiếp theo liên quan đến Anrê và Simon có lẽ đã xảy ra vào
sáng hôm sau. Và lúc đó Anrê vội vàng tìm anh trước khi làm việc gì khác (cái
chữ trước tiên này quay về prôton là cách đọc đáng tin hơn cả). Như vậy ta có
thể giữ được cách tính 7 ngày, dù phải loại bỏ cách đọc lúc ban sáng (prôi) của
BJ.
"Chúng tôi đã gặp Đức
Messia": "Gặp (heuriskein) sẽ được lồng nhiều
lần trong phần này và phần kế tiếp (ch.2-4). Anrê "gặp" Phêrô, báo
với ông rằng họ đã "gặp" Đấng Messia; cả hai gặp" Philíp, Philíp
lại gặp Nathanaen và báo tin là mình đã "gặp" Đấng Messia. Việc lặp
lại cùng một động từ để diễn tả một thực tại hoàn toàn khác với ý nghĩa thứ
nhất của động từ, chứng tỏ một cách nào đó sự nghèo nàn của ngữ vựng Gioan. Tuy
nhiên việc này hình như muốn ngụ ý: sự gặp gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho
những ai đã gặp được Người đều muốn làm cho những kẻ mình gặp sau đó cũng khám
phá ra Người. Ở trong Tân ước, chữ Messias (hy hóa chữ Mâsiah) chỉ được Gioan
dùng nơi đây và 4,25 thôi. Nhưng thì thánh sử dịch ra Hy lạp là Christos.
"Ngươi sẽ được gọi là Kêpha": Kêphas (hy hóa chữ kêphâ, tảng đá) là
một tên biểu tượng mà ý nghĩa sẽ được hiện rõ về sau. Cũng như chữ rabbi (c.38)
và Messias (c.41), tên của Phêrô được trích dẫn bằng tiếng Aram một cách ngoại
thường, khiến chợt trong đoạn văn này đã có đến 3 tiếng Aram. Ta có cảm tưởng
là Gioan suy nghĩ bằng tiếng Aram hay ít nhất quen với những thành ngữ Aram.
KẾT LUẬN
Trong trình thuật này có các yếu tố chính của
một cuộc trở lại: sự gặp gỡ với đích thân Chúa Giêsu (chứ không phải là một
trần thuyết về (Chúa Kitô), sự khám phá nơi Người một con người có cái gì khác
hẳn, và cuối cùng là sự thay đổi vận mạng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. "Các ngươi tìm gì? (1,38).
Trong Tin Mừng thứ 4, đây là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu: một câu hỏi. Cũng
là lời đầu tiên Người ngỏ với chúng ta. Nó đưa chúng ta về lại với chính mình,
mời gọi, chúng ta sáng suốt, tự do lựa chọn. Chúa Giêsu không để ta đi theo
Người lâu ngày chỉ vì lời chứng của một kẻ khác (dù là của Gioan Tẩy giả), vì
hiếu kỳ hay vì thói quen; Người muốn ta lưu tâm, ý thức, và vì thế Người hỏi
ta: "Các người tìm gì?". Dĩ nhiên người biết ta tìm gì, nhưng trước
khi trả lời những thắc mắc hay khát vọng của ta, Người bắt ta hãy ra khỏi sự lãnh
đạm, vô tình tự nhiên. Câu hỏi đầu tiên Hội Thánh đặt cho ta khi lãnh bí tích
Rửa tội cũng tương tự: "con xin gì?” và ta đã thưa "Xin đức
tin". Đó cũng là điều là hai môn đồ đã trả lời tự thâm tâm khi muốn đi
theo Chúa Giêsu đến nơi ở củ a Người.
2. "Họ thưa Người: Rabbi,
Ngài ở đâu?". Lờl đáp trả của ta cũng phát
biểu dưới hình thức câu hỏi. Nhưng một điểm căn bản bây giờ đã sáng tỏ: chúng
t.a tìm nơi Người lưu trú. Người là ai, chúng ta còn chưa biết hay chúng ta chỉ
lờ mờ linh cảm: ít nhất là một vị thầy. Ta trực giác tiên khởi của ta phải được
xác định hay đào sâu hơn; việc tiếp xúc đầu tiên phải được bén rễ sâu trong một
mối thân tình càng lúc càng đậm. Kẻ đối thoại gặp gỡ trên đường trở thành vị
thầy mà ta thăm hỏi nơi cư trú, mà ta muốn đến làm môn đồ. Trước hết, ta phải
đi theo Người tới nơi Người ở đã, rồi con người của Người sẽ được mặc khải cho
ta.
3. Sau khi theo Chúa Giêsu và ở
lại bên Người một ngày, Anrê đã thấy, đã gặp được kẻ
ông đi tìm: không phải một Rabbi, nhưng là Đấng Messia. Ông chẳng giữ riêng cho
mình khám phá đó, nhưng trở thành tông đồ thừa sai cho anh và đem anh tới gặp
Chúa (c.42). Không một tranh luận nào giữa hai anh em, không một lý luận nào
của Anrê nhằm thuyết phục Simon, nhưng chỉ là một lời quả quyết đơn giản. Như
Anrê đối với Gioan Tẩy giả, Simon tín nhiệm vào em mình. Như các môn đồ, đức
tin của ta vào Chúa Giêsu cuối cùng đặt cơ sở trên một cuộc gặp gỡ thân tình
với Chúa; nhưng đức tin đó luôn khởi phát từ đức tin của một người anh em, của
một cộng đoàn gia đình và Giáo Hội, từ sinh chứng của một người ta tín nhiệm và
mến yêu. Tín nhiệm và đức tin là hai chữ cùng một gốc.
4. "Chúa Giêsu nhìn ông và
bảo: Ngươi là Simon, con của Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là
Đá" (c.42).
Một cách dễ dàng, tức khắc, cái nhìn của Chúa Giêsu thấu suốt nơi sâu thẳm của
con người mới đến. Ơn gọi của kẻ này ngay từ phút đầu tiên đã được xác định:
ông đổi tên và như vậy, theo quan điểm Thánh Kinh, đổi cả nhân cách, cả con
người. Ông trở thành kẻ Chúa Giêsu gọi tên Phêrô (Đá). Đó là quyền ưu tiên
tuyệt đối của lời Chúa mời gọi trên tất cả những thiên tư tự nhiên hay giải
thích chủ quan của con người. Cũng thế, ngay từ lời đầu tiên Người ngỏ với ta.
Chúa Kitô biến đổi ta tận gốc và, bắt lấy tương lai ta ngay tức khắc và toàn
diện mà có lẽ ta còn chưa ý thức. Từ những Simon, những cá nhân mang một nhãn
hiệu như mọi người, chúng ta nhận đức tin gọi đích thực, cá tính độc đáo và sứ
mệnh đặc biệt của ta. Chúng ta trở thành kẻ phục vụ nơi người: Kêpha, nghĩa là
Đá, là nền tảng và rường cột của Giáo Hội. Ai trong ta dám đoán trước được điều
này? Khi gọi ta, Chúa Giêsu mặc khải cho ta biết đối với Ngài ta là ai, có thể
là ai, phải là ai: là người tốt hơn và đẹp hơn ta tưởng.
5. Đã lần nào ta có ý nghĩ sẽ đưa
một người đến gặp gỡ Chúa Giêsu chưa? Như
Gioan Tẩy Giả, ta biết Chúa Giêsu là ai; như Anrê, ta đã gặp Đấng Cứu thế. Ta
có ưu tư để đừng giữ riêng cho ta sự khám phá này không?. Để có thể mời gọi một
người trong anh em ta, có lẽ Chúa đang chờ đợi ta đem họ đến gặp Người.
Như Con
Chiên Hiền Lành
Ga 1, 35
- 42
An Phong,
OP
Cho đến
lúc này Gioan Tẩy giả chưa nói gì về chính con người Ðức Giêsu. Nhưng đoạn Tin
mừng hôm nay, ông đã mạnh mẽ tuyên xưng "Ðây là Chiên Thiên Chúa";
Ngài sẽ "gánh lấy tội trần gian" và "làm phép Rửa trong Thánh
Thần".
Phụng vụ
hôm nay kêu gọi chúng ta cùng tuyên xưng đức Tin vào Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ
trần gian, như thánh Gioan Tẩy giả đã tuyên xưng.
* Biểu
tượng là một ý nghĩa của một sự vật, và được mọi người chấp nhận, như chim bồ
câu biểu tượng hòa bình; chó là sự trung thành… Thông thường người ta thích
chọn những con vật mạnh mẽ, hùng dũng để đặt tên cho một đoàn thể, đội nhóm;
chẳng hạn như : "đại bàng", "báo đen", "sư tử
hùng"… Trong Kinh thánh Cựu ước, chi tộc Giuđa được biểu tượng bằng con sư
tử (St 49,8); chi tộc Benjamin với con sói đói (St 49,27); chi tộc Giuse với
con bò rừng (Tl 33,17)…
* Nhưng
tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng phàm nhân. Ðức
Giêsu là Con Chiên. Hình ảnh con chiên gợi lên sự hiền lành, dễ dạy, thậm chí
có vẻ quá yếu đuối và dễ bị đàn áp. Ðức Giêsu, Người Tôi Tớ Ðau Khổ của Giavê,
cư xử hiền lành "như con chiên bị đem đi giết mà không một lời oán trách
thở than".
Chính với thái độ vâng phục đó, Ngài thi hành trọn vẹn
Thánh Ý Chúa Cha; với thái độ "yếu đuối" đó, Ngài gánh lấy mọi tội
lụy trần gian; với thái độ hiền lành đó, Ngài tẩy rửa tất cả nhân loại bằng
tình yêu và lòng thương xót.
"Con người là chó sói với nhau" (Homo homini
lupus), một câu thành ngữ latinh đã mô tả cách cư xử của con người với nhau như
thế; và thái độ "cấu xé nhau" như thế cũng chính là bản án của con
người tự tìm lấy cho chính mình. Bởi vì khi con người cấu xé nhau, gia đình trở
thành địa ngục, xã hội trở thành chiến trường; và nhân loại đang lôi nhau xuống
hố sâu của họa diệt vong.
Phải chăng chính hình ảnh con chiên hiền lành của Ðức
Kitô cũng phải trở nên một biểu tượng cho hòa bình, cho tình thân ái, cho lòng
bao dung mà mọi người kitô hữu phải thể hiện trong xã hội loài người ?
Lạy
Chúa Giêsu
Trong hình bánh và rượu mà Chúa đã dùng
để nuôi dưỡng tâm hồn chúng con.
Trong hình bánh và rượu mà Chúa đã dùng
để nuôi dưỡng tâm hồn chúng con.
Xin
cho chúng con nhận ra lòng nhân hậu của Chúa.
Và cho chúng con cũng biết sống nhân ái với mọi người.
Và cho chúng con cũng biết sống nhân ái với mọi người.
CHÂN DUNG NGƯỜI MÔN ÐỆ
Ga 1, 35-42
Như Hạ, OP
Hình ảnh con chiên rất quen thuộc trong cả văn học lẫn
cuộc sống Tây Phương. Con chiên đã thành một đề tài hấp dẫn trong Thánh Kinh,
nhất là từ tiên tri Isaia. Người Tôi tớ Ðau khổ "giống như con chiên bị
đem đi giết" (Is 53). Con chiên vô tội chính là Con Thiên Chúa xuống trần
chết thay cho muôn dân, như thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu : "Ðây là Chiên
Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1:29).
Hình ảnh con chiên không hề xuất hiện trong văn chương và
dân gian Việt Nam. Nếu Kitô giáo không du nhập Việt Nam, chắc hình ảnh con
chiên không bao giờ lọt vào văn học. Trái lại con dê lúc nào cũng có sẵn trong
nền văn học dân gian. Con dê là một trong 12 con giáp. Con dê thành đề tài đàm
tiếu cho bao câu truyện dân gian.
Chiên hay dê, mỗi con một vẻ. Nhưng nếu đặt chiên và dê
bên nhau, tự nhiên một hình ảnh đầy ý nghĩa xuất hiện. Chiên càng đơn sơ bao
nhiêu, dê càng phá phách, càng dê bấy nhiêu. Hình ảnh con chiên đạt tới ý nghĩa
phong phú nhất nơi Chiên Thiên Chúa. Vì Chiên Thiên Chúa đã trả lại cho nhân
loại tất cả những giá trị cao đẹp nhất.
CHIÊN
THIÊN CHÚA
Ngay từ trong Cựu Ước, con chiên đã chiếm một địa vị
trung tâm. Con chiên trong bụi gai mắc sừng đã trở thành mồi ngon cho lưỡi dao
Abraham, chết thay Isaac (x.Stk 22:13). Chiên Vượt Qua mang một chiều kích lớn
lao trong lịch sử dân thánh (x. Xh 12:21). Các tiên tri như Isaia và Giêrêmia đều
nhắc tới con chiên hiền lành bị đem đi giết (x. Is 53:7; Gr 11:19). Hình ảnh
con chiên tràn ngập trong sách Khải Huyền. Ðặc biệt chỉ trong một đoạn ngắn,
Tin Mừng Gioan đã nhắc tới Chiên Thiên Chúa hai lần (Ga 1:29,36). Như thế Thiên
Chúa đã chuẩn bị một hình ảnh thật đẹp và ý nghĩa cho Ðức Giêsu cả ngàn năm
trước khi Chúa nhập thể.
Chiên Thiên Chúa đã hi sinh để cứu nhân loại và qui tụ
một cộng đoàn dân Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả không ngần ngại giới thiệu với các
môn đệ con người đến với sứ mạng lớn lao. "Hai môn đệ nghe ông nói, liền
đi theo Ðức Giêsu"(Ga 1:37). Theo lời mời của Chúa,"họ đã đến xem chỗ
Người ở, và ở lại với Người"(c.39). " Ở lại" để đi vào tương
quan tình yêu thâm sâu với Người, như "Thày ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thày" (Ga 14:10). Từ hiệp thông sự sống với Chúa Cha và Chúa Con nhờ
Chúa Thánh Linh đó, hai ông đã trở thành môn đệ đích thực của Ðức Giêsu
(x.Fahey 1994:103). Họ đã "xem" thấy tất cả nét huyền nhiệm và cao cả
của Chiên Thiên Chúa. Mạc khải đã hé lộ dần dần. Lần lượt Ðức Giêsu được nhận
diện là "Thày" (c.38), "Mêsia" (c.41), "Con Thiên Chúa
và Vua Israel" (c.49). Sứ mệnh Người vượt quá lãnh thổ một dân tộc. Người
đến nối kết đất trời (c.51). Các ông đã "xem" thấy tất cả ý muốn của
Thiên Chúa khi kêu gọi các ông. Ðó là dấu chứng tỏ các ông luôn tỉnh thức như
Samuel khi nghe tiếng Chúa gọi. Ông đã sẵn sàng đáp lại và vâng phục ý Chúa
(x.1 Sm 3:10). Ðó chính là kết quả sau bao tháng năm "ở lại" trong
nhà Chúa. Các ông đã sống và chết vì chân lý vô cùng phong phú đó. "Ðặc
điểm người môn đệ Ðức Giêsu trong Tân Ước là luôn luôn làm chứng và gắn bó với
con người Ðức Giêsu" (Walter 1994:295).
Khi "ở lại" với Ðức Giêsu, các môn đệ Gioan đã
thấy những nét gì đặc biệt nơi Ðức Giêsu ? Chắc chắn các ông đã thấy nét đơn sơ
và khó nghèo của Chúa. "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người
không có chỗ tựa đầu" (Mt 8:20). Các ông cũng đã thấy những nét đó nơi sư
phụ Gioan. Nhưng hơn Gioan, Ðức Giêsu cho các ông thấy tương quan với những
người nghèo và những người bị áp bức trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. "Kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11:5) và "phúc thay ai bị bách hại vì
sống công chính, vì Nước Trời là của họ"(Mt 5:10).
CỘNG
ÐOÀN MÔN ÐỆ
Chính vì địa vị ưu tiên của người nghèo trong Tin Mừng,
nên Giáo hội được thành lập để phục vụ người nghèo. Khi phục vụ như thế, người
môn đệ làm cho Nước Trời thành hiện thực hoàn toàn. "Tự bản chất, Giáo hội
là cộng đoàn các môn đệ" (Rausch 1993: 282). Nhưng "quá nhiều khi
trong quá khứ đời sống đạo đức đã lấy thánh hóa bản thân làm mục đích chính
yếu, trong khi việc phục vụ hay thừa tác vụ lại bị coi là thứ yếu" (Rausch
1993:284). Bản chất Kitô hữu là phục vụ. Coi việc phục vụ đánh mất phẩm giá
Kitô hữu tức là chưa hề biết Chúa Kitô là ai. Chúa có mất nhân phẩm khi quì
xuống rửa chân cho các môn đệ không ? Người không công bố Tin Mừng cho một
thiểu số ưu đãi. Nhưng linh đạo Kitô thực hiện ngay trong đời sống cụ thể hằng
ngày của mọi người. Tinh thần Kitô đòi người môn đệ phải hi sinh tới cùng, sẵn
sàng coi mọi người hơn mình và phục vụ mọi người, không trừ ai (x.Mc 9:35).
Người môn đệ không biết đến lối sống kiểu cách và cô độc.
Trái lại họ luôn "sống đơn sơ và liên đới với người nghèo và bị áp
bức" (Rausch 1993:283). Ðó là đặc điểm dễ nhận thấy nhất của một người môn
đệ Kitô đích thực. Trong một xã hội đầy nhóc những người giàu bên cạnh những
người đói nghèo, môn đệ Chúa Kitô luôn đứng về phe người nghèo. Mẹ Têrêsa
Calcutta đã hòa mình với những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo.
Thời Ðệ Nhị Thế Chiến, Dietrich Bonhoeffer, một mục sư người Ðức, đã rời bỏ nếp
sống bình yên tại Mỹ, trở về Ðức sát cánh với dân tộc chống lại Hitler. Ông đã
chết vì tình liên đới với người cùng khốn.
Người môn đệ chân chính của Ðức Kitô khởi hành từ niềm
tin. Không tin
không thể dấn thân cho tha nhân. Vì dấn thân phát xuất từ một con tim xác tín
và nồng cháy tình yêu Chúa. Không có sự gắn bó bền chặt đó, không thể hoạt động
hay tạo nổi giá trị đích thực Kitô giáo. Cụ thể hơn, làm môn đệ Ðức Kitô nghĩa
là cùng chết và phục sinh với Người trong bí tích Thanh Tẩy và lớn lên nhờ bí
tích Thánh Thể (x.Egan 1995: 420). Chính nơi nguồn mạch này, người môn đệ Ðức
Giêsu có khả năng đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của thời đại và lên đường
theo tiếng gọi của Ðức Kitô. Người môn đệ lúc nào cũng cần đổi mới nội tâm để
thấy rõ những nhu cầu và nghe rõ tiếng gọi đó. Ðây là một cố gắng trường kỳ
mang lại cho cuộc đời Kitô hữu một ý nghĩa sâu đậm và một giá trị thực sự.
Cộng đoàn
môn đệ Ðức Giêsu chính là "một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi,
thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ đứng trước Con
Chiên"(Kh 7:9). Phải chăng hình ảnh lý tưởng đó chỉ kiếm được trên thiên
đàng ? Không, Ðức Giêsu muốn thấy hình ảnh đó ngay trên trần thế. Cho tới công
đồng Vatican II quần chúng vẫn quan niệm chỉ những tu sĩ và giáo sĩ mới là các
môn đệ Chúa Kitô. Nhưng "từ thời Cải Cách, anh em Tin Lành đã quan niệm
toàn thể cộng đoàn Kitô hữu là môn đệ Ðức Giêsu" (Egan 1995:420). Nếu thế,
tất cả đều phải theo Chúa Kitô. Không còn cảnh một bên là chủ chăn và bên kia
là đoàn chiên thụ động. Không môn đệ nào có quyền khoanh tay đứng nhìn người
khác dấn thân. Tất cả đều thuộc về Chúa Kitô, chứ "đâu còn thuộc về mình
nữa" (1Cr 6:19). Nếu "đã kết hợp với Chúa, thì (chúng ta) nên một
tinh thần với Người"(c.17). Ðã đến lúc người giáo dân phải thực sự ý thức
giá trị cao quí của mình, "vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc anh em
về" (c.20). Bởi đó tất cả đều hoạt động "để phụng sự Chúa" (c.
13) và "tôn vinh Thiên Chúa". Ðừng đợi tới lúc "mục tử tách biệt
chiên với dê" (Mt 25:32) chúng ta mới bừng tỉnh ! Vì "đêm đến, không
ai có thể làm việc được" (Ga 9:4)
Con thích
làm theo thánh ý Chúa
(Tv 40,
2-4, 7-10)
Fr. Jude
Siciliano, OP
Thưa quí vị.
Bất cứ quí vị nào theo dõi những bài suy gẫm Tin mừng
Chúa nhật mấy năm nay, đều nhận ra tôi cố ý bỏ qua một phần quan trọng của
phụng vụ lời Chúa. Ðó là phần Thánh vịnh đáp ca. Nó rất hữu ích cho các bài suy
niệm của chúng ta. Lỗi hoàn toàn về phần tôi. Nhưng cũng có một vài lý do khách
quan. Số là tôi thuộc thành phần những người rao giảng lưu động, lang thang
khắp xứ đạo này đến xứ đạo khác. Bài đáp ca trong các nhà thờ tôi đến giảng
thường được ca đoàn thay đổi tuỳ tiện. Có khi đọc nguyên văn trong sách các bài
đọc, có khi thay thế bằng bài hát tương đương, có khi lại chẳng ăn nhằm gì với
bài đọc một. Thành thử tôi hay bị bất ngờ. Nếu tôi sửa soạn một bài suy niệm
cho đáp ca, thì phần nắm chắc là tôi sẽ bị hụt hẫng ở một vài giáo xứ. Dầu vậy
lần này cũng xin có một vài suy nghĩ về thánh vịnh để tạ tội. Trước hết chúng
ta bàn chung về các thánh vịnh, rồi đến bài đáp ca tuần này: Thánh vịnh 40. Tôi
cũng đã được đọc một số sách rất hay về thánh vịnh. Quý vị có thể tìm thấy
trong các thư viện chung.
Sách Thánh vịnh vừa là một cuốn sách hát vừa là sách để
cầu nguyện. Nó được sử dụng trong các buổi phụng vụ tại đền thờ Giêrusalem.
Cộng đoàn Do thái cầu nguyện bằng cách hát lên các Thánh vịnh. Khi đền thờ bị
phá huỷ và dân Do thái bị phát vãng lưu đầy thì họ phải bỏ lại mọi sự tại quê
hương : đền thờ, bàn thờ, các đồ cúng tế. Tuy nhiên các Thánh vịnh có thể theo
đi với họ vì phần đông đã thuộc lòng. Và ở nơi đất lạ, những Thánh vịnh lại
càng cần thiết hơn. Theo thời điểm, họ tụ họp, nhớ về quê cha đất tổ và ca hát
Thánh vịnh để bày tỏ trước tôn nhan Thiên Chúa những khắc khoải và ước vọng của
lòng mình. Thực tế Thánh vịnh được thành hình trong một thời gian lâu dài,
phỏng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ II trước Công Nguyên. Chúng nảy lên từ những
nhu cầu cần thiết của dân tộc Israel. Nó phản ánh kinh nghiệm khác nhau của
cuộc sống đời thường: gian truân, vui mừng, tạ ơn, cầu khẩn, các dịp lễ
trọng... Nó bao trùm hầu hết mọi lãnh vực thiêng liêng, xã hội, cá nhân… cho
nên nó là một kho tàng để chúng ta khai thác trong xứ vụ rao giảng. Cũng như
dân Do thái chúng ta có thể sử dụng Thánh vịnh ở hầu hết các buổi phụng vụ và
cầu nguyện, nhất là trong hành trình lưu đầy của kiếp sống trần gian.
Thánh vịnh không được xếp sắp theo một thứ tự hay chủng
loại nào cả : như tạ ơn, tha vãn, ngợi khen… Trái lại nó thay đổi liên tục từ
kinh nghiệm này sang kinh nghiệm khác nhau của cuộc sống con người. Ðiều đó nói
lên quá trình hình thành của nó: thời gian lâu dài, hoàn cảnh khác nhau: Lúc
này thì ca ngợi Thiên Chúa, tiếp theo lại là lời khắc khoải, lo âu. Phải chăng
cuộc sống con người cũng kinh qua những giây phút tương tự mà không cần lời
giải thích hợp lý đó sao? Một Thánh vịnh vui tiếp theo một Thánh vịnh buồn. Một
giây phút bình an tiếp theo giây phút khác đầy sóng gió. Ðời có những khúc
ngoặt bất ngờ, không ai đoán trước được.
Ða số tín hữu không mấy khi đọc Kinh thánh, nhưng ai cũng
thuộc vài câu Thánh vịnh. Ví dụ: "Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng
thiếu thốn chi. Thiên Chúa là thành luỹ che chở tôi, tôi còn sợ người
nào?…" Tóm lại, Thánh vịnh là loại văn chương dễ đọc nhất trong Kinh
thánh, phần lớn chúng nói rõ tình cảm của con người bằng ngôn ngữ bình dị.
Chúng dùng rất nhiều hình ảnh, ẩn dụ, nhịp điệu, dụ ngôn để bộc lộ cảm xúc phổ
thông của nhân loại. Chúng bày tỏ khát vọng, ước mong, đợi chờ từ những hoàn
cảnh khác nhau của mỗi cá nhân. Chúng ta có thể sử dụng dễ dàng các Thánh vịnh
để cầu nguyện, ngợi khen, xin ơn, tạ lỗi v.v…
Có một điểm chung nhất cho 150 Thánh vịnh là chúng ở thể
thơ, thể thơ bằng ngôn ngữ Do thái. Loại văn thơ này khác với văn thơ của chúng
ta bây giờ. Nhưng đã là thơ thì phong độ chúng cao hơn văn xuôi, súc tích và
nhịp nhàng hơn. Cách ngắt câu và đặt vần đòi hỏi nhiều nghệ thuật hơn. Vì vậy
chúng rất giầu tưởng tượng, dễ thuộc lòng và hay lập lại. Thánh vịnh là ngôn
ngữ thơ phú, nhiều cảm xúc và âm điệu, cho nên phải hát mới bộc lộ hết ý vị của
nó, nếu có nhạc khí đệm thì càng hay. Tương tự như thi phú các nước, đọc không
thì chỉ được một nửa ý nghĩa. Ngâm to với đàn, sáo, cồng, chiêng… mới diễn tả
hết cái hay của nó. Vì vậy thơ phú luôn đi đôi với âm nhạc. Thơ Do thái có
những tính chất riêng của ngôn ngữ đó. Ấy là hay dùng thể song hành. Một cảm
xúc được diễn tả ở vế trên, vế dưới lập lại nhưng mở rộng hơn. Ðôi khi vế dưới
là phản đề của vế trên. Ví dụ Thánh vịnh 40 hôm nay : "Tế phẩm và lễ vật
Chúa không thích - Nhưng đã mở tai con để con vâng giữ. Lễ toàn thiêu và lễ xá
tội, Chúa không đòi - con liền thưa : Này con xin đến."
Cho nên Thánh vịnh rất thích hợp cho việc rao giảng, hùng
biện. Nó giúp đỡ rất nhiều để người giảng thuyết diễn đạt tư tưởng, tình cảm
của mình. Nó tỏ lộ những chiến đấu, vật lộn của cá nhân hay cộng đoàn hầu có
thể giữ vững, tin tưởng vào Thiên Chúa giữa một xã hội, thế giới không tin, đầy
cạm bẫy hay thù địch. Ðến đây xin mời nhìn kỹ hơn vào bài đáp ca để thấy rõ khả
năng rao giảng của tập Thánh vịnh.
Thánh vịnh 40 khởi sự trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn, tức từ một nhu cầu cấp bách, phụng vụ bỏ mất một câu : "Người kéo
tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi vũng lầy nhơ nhớt" (40,2). Tác giả đang ở
trong thời kỳ cực khổ và ơn trợ giúp của Thiên Chúa chưa thấy đến, kỹ thuật lặp
đi lặp nhấn mạnh lòng mong chờ trong thời buổi ngặt nghèo. Chẳng phải tác giả
chỉ đợi chờ, nhưng bài ca xem ra muốn nói : "Thiên hạ vẫn hằng mong
đợi." Vì vậy khi ca lên nghe như có tiếng phụ hoạ của nhiều người văng
vẳng sau hội trường : "Lạy Chúa bao lâu nữa?" Ðây là lời khẩn cầu tha
thiết của biết bao linh hồn khốn khổ chờ mong Thiên Chúa cứu giúp, chẳng hạn
của những gia đình tan vỡ, con cái đi hoang, vợ chồng chia lìa, của những người
mắc bệnh nan y, những kẻ tàn tật v.v…
Phần tôi, tôi nghe như tiếng bà già hàng xóm vừa mới về
trời hôm qua. Bà liệt giường liệt chiếu hàng chục năm, phải được chăm sóc toàn
thời gian. Bà luôn miệng (và cả gia đình nữa): "Lạy Chúa, con hằng mong
đợi, xin giải thoát con, giải thoát con khỏi những khổ cực, đoạ đầy này."
Trên bình diện toàn cầu, chắc chắn lời nguyện còn có âm vang rộng lớn hơn nữa,
thí dụ ở Do thái, Palestin, Afganishtan, ở Iraq, ở Venezuela, ở Nam Phi, ở
những nơi đang chết đói vì rét mướt, hạn hán, ở những bệnh viện Sida, bệnh viện
lao, ở các trại phong cùi… "Lạy Thiên Chúa, chúng con hằng mong đợi, hằng
mong đợi cho đến khi nao?" Người tín hữu thường khi bị dồn ép đến độ gần
như thất vọng, chẳng còn dám tin tưởng vào Thượng đế nữa.
Nhưng mặc dù vậy qua đức tin của tác giả Thánh vịnh chắc
chắn Thiên Chúa sẽ đến trợ giúp, tuy không như ý chúng ta muốn. Thiên Chúa hoàn
toàn tự do hành động theo đường lối khôn ngoan của Ngài. Nhất định "Ngài
nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu." Ngài sẽ đáp ứng rộng rãi hơn
lòng mong ước, bởi lẽ chúng ta phải bật tiếng kêu lên: "Chúa cho miệng tôi
hát bài ca mới, bài ca ngợi khen Thiên Chúa chúng ta." Liệu chúng ta, đang
họp nhau trong thánh lễ này, còn có thể nhớ lại những cơ hội trong cuộc sống đã
được Thiên Chúa "nghiêng mình lắng tai nghe" sau thời gian dài chờ
đợi ? Nếu có được những ân huệ như vậy, thì đây là giây phút thuận tiện để hát
vang lên những bài ca mới, cảm tạ Thiên Chúa vì đã nâng đỡ đức tin của chúng ta
qua những khắc khoải đợi chờ và dẫn đưa đến thành công ! Cùng với tác giả Thánh
vịnh, chúng ta nhân cơ hội này tăng cường lòng tin cậy Thiên Chúa trong nguyện
cầu, bởi lẽ biết chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ từ chối những nhu cầu chính
đáng của con cái Ngài.
Thánh vịnh 40 chỉ rõ Thiên Chúa không đáp ứng tế phẩm và
lễ vật bề ngoài, hoàn toàn có tính cách nghi thức, như của lễ tạ ơn. Dĩ nhiên
đôi khi chúng ta cũng phải dâng hiến lễ vật, nhưng chính yếu là tấm lòng chúng
ta hướng về Ngài và dấn thân thi hành những điều Ngài truyền dạy. Câu Ngài
"đã mở tai con" song song với "này con xin đến" mạnh mẽ nói
lên ý tưởng đó. Kinh nguyện theo lễ nghi, rất cần thiết cho đời sống đức tin
của từng cá nhân cũng như cộng đoàn. Nhưng không phải chỉ có vậy. Thiên Chúa
đòi hỏi nhiếu hơn nữa tức toàn thời gian. Chúng ta phải dâng mình cho Ngài,
ngày cũng như đêm, không cắt xén, không đòi lại. Nếu chỉ theo lễ nghi, chương
trình, công việc sẽ trở nên máy móc, nhàm chán. Tác giả Thánh vịnh nói :
"Con thích làm theo thánh ý Chúa và ấp ủ luật Chúa trong lòng." Phụng
sự Chúa bán thời gian hoặc nửa vời không chu toàn việc đó được!
Nếu chúng ta đã từng nghiệm ra Thiên Chúa đã lắng tai
nghe lời khẩn cầu của mình, thì trong thánh lễ hôm nay, xin hãy trào dâng tâm
tình tri ân cảm tạ, hát lên những khúc tân ca tự đáy con tim. Thiên Chúa thực
sự ngự trong cuộc đời mình. Cầu nguyện và các nghi lễ sẽ được cử hành một cách
tự phát, chẳng cần tế phẩm và lễ vật, chỉ cần tấm lòng thành muôn thuở :
"Này con xin đến."
Tư tưởng cuối cùng của bài đáp ca hôm nay : "Giữa
lòng đại hội" mà tác giả Thánh vịnh tuyên bố được Thiên Chúa giải thoát.
Chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội để phổ biến như vậy. Giữa lòng Hội thánh, đại
hội của Thiên Chúa, chúng ta siêng năng và chăm chỉ thi hành các phần việc
phụng vụ dân Chúa như đọc sách, dạy giáo lý, dọn bàn thờ, đốt nến, tổ chức các
lễ trọng… với đầy lòng biết ơn. Như vậy chúng ta chu toàn nhiệm vụ người tín
hữu tốt. Ngoài ra, còn có một "đại hội" khác chúng ta cũng phải loan
truyền lòng Thiên Chúa yêu thương : Ðó là thế giới chung quanh mình, như những
đứa con đã được Chúa chăm lo, săn sóc, chúng ta cũng phải quan tâm đến anh chị
em mình đang sống khắc khoải, lo âu vì nghèo đói, chiến tranh, áp bức, bóc lột,
họ cũng là con Thiên Chúa đáng Ngài nghiêng mình lắng tai nghe. Chỉ lúc ấy
chúng ta mới thực sự "thích làm theo thánh ý và ấp ủ luật Chúa trong lòng."
Amen.
Hành Trình
hay là Biến Đổi
Ga
1,35-42
G. Nguyễn
Cao Luật, OP
Lời mời
gọi làm biến đổi cuộc đời
Giai đoạn
từ sau khi Ðức Giêsu chịu phép rửa đến tiệc cưới Ca-na là một thời kỳ chuyển
tiếp giữa Cựu và Tân Ước. Ðối với các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, đây là
những ngày có tầm quan trọng đặc biệt, có tính cách quyết định : các ông sẽ trở
thành môn đệ của Ðức Giêsu, các ông sẽ nhìn thấy nước được biến thành rượu, các
lời hứa được thực hiện. Ðêm trở thành ngày, nghi ngờ biến thành đức tin.
Bên bờ
hồ, ông Gioan đang đứng với các môn đệ của mình, như tượng trưng cho quá khứ đã
dừng lại. Còn Ðức Giêsu đi ngang qua và các môn đệ ông Gioan tiến đến với Ðức
Giêsu : hình ảnh của tương lai. Qua lời giới thiệu của ông Gioan, hai người môn
đệ bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chiên Thiên Chúa, và sau đó chia sẻ cuộc sống với
Người : họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Con đường
của các môn đệ đến với Ðức Giêsu được mở rộng thêm với lời mời gọi "Hãy
đến mà xem" , kèm theo một tình thân mật mà không có gì có thể lật ngược
lại. Con đường này diễn ra không phải bằng lời nói nhưng bằng cuộc tiếp xúc với
thực tại, bằng việc đi sâu vào cuộc sống và chia sẻ cuộc sống đó.
Ði theo
Ðức Kitô, các môn đệ đã xem và đã ở lại với Người. Tuy vậy, các ông không ở lại
luôn đó Trong truyền thống Do-thái, việc đặt tên cũng có nghĩa là ban tặng cuộc
sống.
Ðức Giêsu
ban cho ông Simon một đời sống mới, kiện toàn đời sống đang có sẵn. Ðời sống
mới này được diễn tả qua một nhiệm vụ mới : "Phêrô - Ðá". Như thế
Simon Phêrô vẫn là con người đó nhưng đồng thời cũng là một người khác : ngay ở
bên trong con người, có một đời sống mới, một trách nhiệm mới. Kê-pha : đó là
tên gọi đầy yêu thương mà Con Người dành cho ông Simon. Từ nay trở đi, người
thợ chài lưới tên là Phêrô sẽ phải nỗ lực để xứng đáng với tên gọi đó, qua đời
sống làm môn đệ Ðức Giêsu, cho đến một ngày chính ông sẽ gọi Người là Con Thiên
Chúa.
Câu
chuyện về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Ðức Giêsu với các môn đệ là khởi đầu cho
một con đường dài, cho mầu nhiệm hiệp thông : trời cao đã thầm thì những tên
gọi vẫn được giấu kín, và ngược lại, trời cao chờ đợi trái đất khám phá và gọi
lên danh hiệu của Thiên Chúa.
Một sự
gắn bó
Xưa kia,
trong Ðền Thờ, cậu bé Sa-mu-en đã nhanh nhẹn đáp lại khi nghe được tiếng nói bí
ẩn đang gọi cậu. Cậu đã chỗi dậy, sẵn sàng đón nhận tấm lòng ưu ái giúp cậu
nhận ra chính Ðấng đã gọi cậu.
Con đường
dài của các ông Phêrô, Anrê, Gioan - và của tất cả mọi người - đã được bắt đầu
từ xa xưa với cuộc di cư của tổ phụ Áp-ra-ham và cuộc xuất hành khỏi Ai-cập của
dân Ít-ra-en.
Con đường
này có đích điểm là Giêrusalem thiên quốc, là tận cùng thế giới. Ðó là một cuộc
ra đi đòi phải có lòng kiên trì ; đó là một hành trình rất dài trong sương mờ
để dần dần các ông nhận ra người thợ mộc khiêm tốn của làng Na-da-rét cũng chính
là Chiên Thiên Chúa.
Một hành
trình như thế, một cuộc biến đổi như thế không chỉ là nỗ lực của trí óc, nhưng
là một bước nhảy của tâm hồn. Tuy thế, vẫn cần phải có thời gian, phải có sự
quen thuộc. Chính vì vậy, Ðức Giêsu đã quay lại nhìn những người đang e dè bước
đi theo mình và đưa ra lời đề nghị : "Hãy đến mà xem".
Có thể
giải thích lời đề nghị ngắn ngủi này như sau : "Anh em hãy đến ở với tôi,
chia sẻ cuộc sống của tôi. Hãy tiếp xúc với tôi và loại bỏ mọi thành kiến, mọi
ý tưởng có sẵn, rồi các anh sẽ dần dần quen thuộc với con người lạ kỳ của tôi,
hiểu được con người được sai đến đầy bí nhiệm, con người mang nhiều tước hiệu
mâu thuẫn : kẻ bịp đời và Thầy, con loài người và con Thiên Chúa, Chúa và Con
Chiên.
Như vậy,
quả là một hành trình khó khăn đối với các môn đệ cũng như cho tất cả mọi
người. Người ta không thể lấy làm thoả mãn vì những điều đã có. Ðức tin chỉ
sáng tỏ dần vào cuối một con đường, nó mọc lên như bình minh rực rỡ thêm dần
theo bước chân của người đi săn.
Phải nói
thêm rằng, hành trình này là một khát vọng, một sự biến đổi không ngừng. Sau
một chặng đường tìm kiếm, ông Anrê đã nói với em mình là ông Simon :
"Chúng tôi đã gặp thấy Ðấng Mêsia". Lời giới thiệu này khởi đầu cho
cuộc hành trình của ông Simon để "sẽ được gọi là Kêpha", đồng thời
cũng đưa tất cả các ông vào một chặng đường mới. Ðức Giêsu luôn nhấn mạnh với
các ông về sự thay đổi, về sự hoán cải dựa trên những xác tín đã có. Nếu người
ta đã tìm thấy Ðấng Mê-si-a, thì vẫn chưa phải là lúc nghỉ ngơi, vẫn chưa có
quyền ở lại một chỗ ; trái lại, đó là lúc chấp nhận cách mãnh liệt hơn, cách
tin tưởng hơn thân phận của Ðấng Mê-si-a theo cách thức của Thiên Chúa, và cũng
là dám phiêu lưu trong niềm tín thác để vừa là chính mình vừa là một người
khác, vừa là con người vừa là con Thiên Chúa.
Gặp gỡ để
đáp trả
Vậy, bài
Tin Mừng này khích lệ và củng cố chúng ta.
Trước
hết, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và trao tặng cho mỗi
người một tên gọi riêng phù hợp với con người và sứ mạng của chúng ta. Mỗi
người đều có một tên gọi riêng, tên gọi vĩnh cửu được khắc vào một viên sỏi
trắng mà chỉ chúng ta mới biết (x. Kh 2,17). Mỗi chúng ta có nhiệm vụ khám phá
tên gọi đó và đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng một đời sống phù hợp. Ðó
chính là hành trình của chúng ta.
Ngoài ra,
bài Tin Mừng còn an ủi chúng ta nếu chúng ta gặp thấy những vấn đề trong đời
sống đức tin. Ðó là chuyện bình thường. Tuy vậy, chúng ta không được khép kín
nơi chính mình, không được đứng yên một chỗ và thoả mãn với những điều đã tìm
được. Ðức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy đến mà xem căn nhà của Người, hãy đến
gặp gỡ Người. Hãy đến mà xem Người sống thế nào và múc nước từ nguổn mạch nào.
Hãy đi sâu vào bí mật của Người và hãy để lòng mình được sưởi ấm nhờ sự hiện
diện của Người. Hãy tiếp xúc với Người và mắt của chúng ta sẽ bừng sáng.
Ngạn ngữ
cổ có câu : "Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh
là ai". Chúng ta có thể áp dụng câu ngạn ngữ này vào bài Tin Mừng hôm nay
và thấy thật là thích hợp. Nếu chúng ta thường xuyên tiếp xúc với Ðức Giêsu,
nếu chúng ta sống trong tình thân mật với Người, thì chúng ta sẽ dần dần nên
giống như Người, sẽ trở nên môn đệ đích thực của Người.
Sống với
Ðức Giêsu, đó là nhìn xem với cặp mắt của Người, yêu thương với tấm lòng của
Người và hành động với sức mạnh của Người.
Hãy dành
những khoảnh khắc để nghe được lời mời yêu thương của Ðức Giêsu. Hãy
dành thời gian để đến xem chỗ Người ở. Mỗi lần hãy ở lại lâu hơn. Hãy trở lại
đó thường xuyên và dần dần chúng ta sẽ được biến đổi.
* * *
Lạy
Chúa,
Chúa muốn chúng con đưa Chúa đi
trên mọi hành trình của cuộc sống
trên những lối quen thuộc hằng ngày.
Chúa muốn chúng con đưa Chúa đi
trên mọi hành trình của cuộc sống
trên những lối quen thuộc hằng ngày.
Chúa
muốn chúng con thưa lên với Chúa :
Xin hãy đến và bước đi cùng với chúng con,
xin đừng chậm trễ,
xin đến và nhìn xem
nơi chúng con đang ở ;
xin ở bên chúng con
để mắt chúng con bừng mở
và hy vọng được nảy sinh.
Xin hãy đến và bước đi cùng với chúng con,
xin đừng chậm trễ,
xin đến và nhìn xem
nơi chúng con đang ở ;
xin ở bên chúng con
để mắt chúng con bừng mở
và hy vọng được nảy sinh.
Bấy
giờ, nếu Chúa muốn,
chúng con sẽ bước đi theo Chúa
đến những miền xa xăm.
(theo J.Y.Quellec)
chúng con sẽ bước đi theo Chúa
đến những miền xa xăm.
(theo J.Y.Quellec)
Điều quan trọng là lòng tin kiên vững
Ga 1,35 – 42
Vinh sơn Trần Xuân Bình, OP
Kính thưa cộng đoàn !
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và
Sa-mu-en đã đáp lời : “Xin
Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang
lắng nghe.” Chính
lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của
Người ra vô hiệu.”
Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân
xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao ?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên
một tinh thần với Người.”
Còn
bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông
Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín
vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu
là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Như
vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư
ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ
trong suốt cuộc đời.
Cũng
vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ
đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức
Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và
thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín
hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu
nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn
mỗi con người.
Để
có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm
nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện
và hằng quan tâm ủi an chúng ta ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên
Chúa là ánh sáng cho trần gian ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là
đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một
Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta ?
…
Điều
quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không
phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của
Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi
sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không
lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một
chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại
xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong
ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà
của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói : "Trong Người, chúng ta sống,
cử động và hiện hữu" (Cv
17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta
tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "Lạy
Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở". Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe
tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên
Chúa "đang ở giữa các
ngươi" (Lc 17:21).
Khi
Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng
được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu
thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy
lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng
ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như
vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong
sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.
Đức Kitô
đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với
Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên
Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa
một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao
qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của
Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy
theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý
muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa
qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.
Tất cả
những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta
phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất
cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở
nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất
cả những điều đó là cao cả nhất ? Thưa ! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm
hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa
trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức
Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa
ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy
cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn.
Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta
chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức
Giêsu đã nói : "Ai yêu
mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta
sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga
14,23).
Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận
ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.
Giới Thiệu
Ga 1,35-42
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu
tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào người ta vẫn
thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới thiệu những
chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng
vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như
vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết
mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy Giả giới thiệu
Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói : “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời
giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ ông ý thức
sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây
là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc hai môn đệ
đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người kia, tuy Tin
Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả bài Tin Mừng
này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình. Họ đến nói
chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai ông nói gì
với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã biểu lộ
lòng tin : tin nhận Chúa là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và lòng
đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông An rê lại đưa em mình là Si-môn đến gặp
Chúa. Vừa gặp Si-môn, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong truyền thống
của Do Thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng và là một cách
minh chứng : người đổi tên là người có uy quyền, và người được đổi tên sẽ được
trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên cho Si-môn,
minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ mệnh mới, một
nhiệm vụ đặc biệt. Si-môn được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, tức là ông
sẽ làm nền móng của Giáo hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của Giáo hội sau
này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên ông đã giới
thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó, Anrê đã giới
thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ cũng như tất
cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền của Chúa đi
giới thiệu Chúa cho muôn dân : “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho mọi
người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu phép Rửa tội và
gia nhập vào Giáo hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho anh em.
Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào ? Mục đích của giới thiệu
là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó, tùy
theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít, nếu không
biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai muốn người
khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó và cũng
mắc lỗi với ngươi mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ
về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa. Chúng ta có
biết Chúa không ?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy mình non yếu
về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ đức tin để giữ
đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến thức về giáo
lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà coi : hồi nhỏ,
chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được xưng tội rước
lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi, không còn ai lo
phải học, phải thi giáo lý gì nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng với vốn liếng
giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng chẳng ai bắt
buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn được học hỏi,
được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, mặc cảm,
nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ, nhưng
Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa
Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời
sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và có
giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.
Xin hãy nhớ : không phải ai cũng có thể làm việc lớn,
nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì luôn có
trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai cũng là
thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt, vì thế,
với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta cũng
hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo hội và thế giới , chúng ta hãy cố
gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một cuộc
đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
Thánh Thể và Lời Chúa
Họ đã xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Ga 1, 35 – 42
Có người ví đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, qua ánh mắt tất cả
cảm xúc, tình cảm của con người đều được biểu lộ : sợ hãi và niềm vui, nụ cười
và nước mắt, khinh bỉ và dịu dàng, van xin và an ủi… Chỉ cần một cái nhìn
thoáng qua cùng với lời giới thiệu của Gioan Tiền Hô : “Đây là Chiên
Thiên Chúa”, đã làm cho hai người môn đệ của Gioan đi theo Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, lời mời gọi “đến mà xem” của
Chúa đã khơi lên niềm khát vọng tìm kiếm nơi hai người môn đệ Gioan. Ánh mắt và
lời mời gọi của Chúa vẫn luôn được gửi đến cho mỗi người chúng con ngày hôm
nay. Bởi Chúa vẫn đang chờ đợi chúng con đến với Ngài để sống gần gũi hơn nữa
với Chúa. Nhưng trong cuộc sống nhiều lúc chúng con lại sợ hãi khi bắt gặp ánh
mắt Chúa nhìn chúng con bởi vì chúng con đã không sống theo lối sống Chúa đã
dạy, chúng con không dám đặt cuộc đời của mình dưới ánh sáng Lời Chúa để nhìn
thấy những bất toàn của bản thân. Vì, lạy Chúa, chúng con biết rằng cái nhìn
của Chúa không bao giờ là cái nhìn tố giác, nhạo báng hay trả thù nhưng luôn là
cái nhìn biến đổi và làm lớn lên mọi sự bởi Ngài luôn yêu thương chúng con.
Vai trò Tiền Hô củaThánh Gioan Tẩy Giả đã được Thiên Chúa
chuẩn bị ngay khi ngài còn ở trong lòng mẹ để một khi Đấng Cứu Thế xuất hiện
ông sẽ là người giới thiệu Con Thiên Chúa cho mọi người. Qua lời giới thiệu của
Gioan về Đức Giêsu, hai người môn đệ của Gioan đã rời bỏ thánh nhân để đi theo
Đức Giêsu, họ đã đến xem chỗ Người ở, để được sống và sống kết hiệp mật thiết
với Đấng Mêsia.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi người Kitô hữu chúng con
cũng được Thiên Chúa chuẩn bị và mời gọi đến gặp gỡ và trở thành con cái Thiên
Chúa nhờ tình thương của Người. Trong vai trò một người Kitô hữu, xin dạy chúng
con ý thức hơn trách nhiệm phải trở nên một lời giới thiệu về Đức Kitô cách
sống động cho mọi người qua chính cuộc sống và những việc làm hàng ngày của
chúng con. Bằng thái độ sống chan hòa đầy tình thân ái đối với mọi người xung
quanh, tất cả sẽ là những chứng từ sống động để chúng con giới thiệu với người
khác về một Thiên Chúa Tình Yêu, vì yêu thương con người nên đã sai Con Một của
Mình xuống thế gian để chết và phục sinh nhằm cứu độ loài người chúng con đang
phải sống trong tội lỗi.
Từ cái nhìn đầu tiên cho đến khi được tận mắt nhìn thấy
những việc Đức Giêsu làm, hai người môn đệ của Gioan đã quyết ở lại để được
cùng sống và chia sẻ cuộc sống tốt lành bên Thầy Chí Thánh. Nhưng họ không giữ
niềm vui đó lại cho riêng mình mà đã ra đi để đem tin vui này đến với người
khác.
Lạy Chúa Giêsu, hai người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay
đã gặp được cái nhìn “giải thoát” từ Chúa và các ông đã được biến đổi. Mỗi
người chúng con cũng được mời gọi gặp gỡ Chúa hằng ngày nơi bàn tiệc Thánh Thể,
học hỏi và sống với Chúa trong từng lời Kinh Thánh. Nhưng đời sống chúng con
chưa thực sự được đổi mới bởi Lời Chúa vì còn đó những lo toan, tính toán hơn
thiệt trong cách hành xử của chúng con đối với những người xung quanh.
Lạy Chúa, Ngài luôn mời gọi, chờ đợi chúng con đến và ở
lại với Ngài như hai người môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả. Chúng con chỉ thực
sự ở lại và ở trong Chúa khi can đảm để Lời Chúa và nhất là Thánh Thể ngự trong
tâm hồn biến đổi chúng con thành con người mới. Một khi được biến đổi thành con
người mới, chúng con sẽ có cái nhìn mới về người anh em, người chị em đang hiện
diện xung quanh chúng con. Đó sẽ là một cái nhìn của Tình Yêu. Và khi đó chúng
con sẽ can đảm ra đi giới thiệu Chúa đến với mọi người qua cuộc sống chứng tá
của mình. Amen.
Hãy Đến Mà Xem
Ga 1, 35-42
Phaolô Nguyễn Cao Thắng, OP
Trình thuật Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay gợi mở bài
học thật ý nghĩa cho chúng ta là những người lữ hành bước theo Chúa : Hãy đến
sống với Chúa và nói cho mọi người về Chúa.
Sau khi được thầy mình là ông Gioan giới thiệu về Đức
Giêsu: “Đây là chiên Thiên Chúa”, hai môn đệ của ông cất bước đi theo Người.
Tuy Đức Giêsu không nghe hoặc dừng lại khi đi ngang qua
nơi thầy trò ông Gioan đang trao đổi, nhưng Ngài biết câu chuyện vừa xảy ra.
Chúa biết có hai người đi theo đàng sau mình và Chúa biết rõ tâm trạng của hai
ông. Chúa không thờ ơ hay bỏ mặc, nhưng Ngài đã tỏ lòng thương mến và quay lại hỏi
hai ông với tâm tình thân mật: Các anh tìm gì? Được Chúa hỏi đến, hai ông thưa:
“Lạy Thầy, Thầy ở đâu?”
Hai môn đệ không hỏi Thầy dạy những gì, cũng không
hỏi chúng tôi có thể theo Thầy được chăng hoặc đặt bao câu hỏi khác để biết rõ
về Đức Giêsu. Nhưng họ hỏi: Thầy ở đâu? Hai ông có ý đến tận nơi người ở. Đến
để tận mắt thấy cuộc sống của Người, đến để được nghe tận tai lời Chúa nói.
Nghĩa là họ muốn biết tường tận, xác thực bằng chính tai mắt của mình về Đấng
mà thầy mình là ông Gioan giới thiệu. Họ hiểu rằng, để theo Chúa phải biết Chúa
và sống như Chúa dạy, sống như Chúa đã sống.
Nghe hai ông thưa : Thầy ở đâu ? Chúa Giêsu nói với hai
ông “ hãy đến mà xem”. Hai ông liền đi theo Chúa về nhà.
Mặc dầu Kinh Thánh không thuật lại nhà Chúa ở đâu, nhà
Chúa như thế nào, ở với ai,… Nhưng một điều chúng ta biết chắc chắn là Chúa nói
gì, bảo gì với hai ông và Chúa đã cho hai ông xem gì trong thời gian hai ông ở
lại. Một điều chúng ta không nghi ngại là hai ông đã nhìn thấy cảnh sống khó
nghèo nhưng tận tình của Chúa, hai ông thấy Chúa mến thương con người như thế
nào, hai ông hẳn rằng cũng đã cầu nguyện với Chúa,… Nhờ đó, sáng ngày sau, ra
khỏi nhà Chúa, hai môn đệ chạy đi tìm bà con để nói cho họ biết. Anrê, một
trong hai môn đệ đã giới thiệu Chúa cho em mình là Simon. Ông Simon đã bỏ mọi
sự mà theo Chúa và ông được đặt làm đá tảng, trên tảng đá ấy Chúa xây Hội Thánh
của Người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Sống đạo là phải gặp Chúa, phải thấy Chúa và sống trong
Chúa. Nhưng lạy Chúa ! Nhiều lần, đời sống đạo của chúng con dường như chỉ đọc
năm ba kinh, đi xem thánh lễ mỗi ngày như một thói quen hoặc giữ đạo vì luật
buộc mà tuân giữ. Và thế, cuộc đời chúng con mãi dạt trôi, lênh đênh, mơ hồ
trên con đường đến với Chúa.
Thường ngày, chúng con hiện diện trong Thánh đường,
nguyện kinh, lãnh các bí tích,… nhưng trong cuộc sống, chúng con lại chẳng làm
theo lời Chúa; chúng con đến với Chúa nhưng không học nơi Chúa, không sống như
Chúa. Và rồi ngày tháng của chúng con trôi đi mà chẳng cảm nghiệm được tình
thương Chúa dành cho chúng con. Một khi như thế, chúng con đã chẳng nói được gì
cho mọi người về Chúa hoặc chia sẻ cho tha nhân lòng Chúa xót thương.
Xin Chúa
thánh hóa và ban Thánh Thần Chúa trên chúng con, để chúng con biết gẫm suy lời
Chúa, biết sống sao như lòng Chúa mong ước. Nhờ đó, trong đời sống đạo
của chúng con, trong cầu nguyện, trong thánh lễ chúng con được gặp Chúa, được
nhìn thấy Chúa trong anh em, trong mọi biến cố cuộc đời như hai môn đệ xưa đã
đến và xem Chúa, để rồi Chúa sống trong các ông và các ông đã loan báo về
Chúa cho mọi người. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét