Đón nhận hay chối từ Lời Chúa theo 2 V 22-23 và Gr 36
Khi đọc sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, một cuốn sách dài nhất trong cuốn Kinh Thánh xét về số từ, chắc hẳn ai cũng sẽ có ấn tượng thật đặc biệt về chương 36. Theo R.P. Carroll, chương 36 «là một trong những câu truyện tuyệt hay không chỉ của sách Giê-rê-mi-a mà còn của toàn bộ Kinh Thánh»[1].
Nhiều vấn đề được đề cập đến trong chương này, nhưng có lẽ điều ghi dấu sâu đậm nhất nơi tâm trí độc giả chính là thái độ bất kính của một vị vua trước Lời Chúa. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã «xé» và «đốt» cuộn sách ghi lại Lời Chúa. Thái độ của vua Giơ-hô-gia-kim càng khó chấp nhận hơn nếu ta đọc chương 36 của sách Giê-rê-mi-a trong tương quan với chương 22 và 23 của sách Các Vua quyển thứ hai. Vì 2 V 22-23 cũng kể về thái độ của một vị vua trước Lời Chúa. Vua này không ai khác, chính là Giô-si-gia, cha của Giơ-hô-gia-kim. Khi nghe đọc Lời Chúa, ông đã có những thái độ hoàn toàn trái ngược với con trai của mình.
Đón nhận hay khước từ Lời Chúa, đây là một đề tài quan trọng được đề cập trong hai câu truyện. Bởi thế, bài viết này xin được đề cập đến thái độ của hai vua trước Lời Chúa, và hai thái độ khác nhau sẽ dẫn đến những hệ luỵ khác nhau.
Trước tiên, ta cùng nhìn thoáng qua nội dung của hai câu truyện : Gr 36 và 2 V 22-23.
1. Cuộn sách ngôn sứ bị đốt : Gr 36
Theo chương 36 của sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vào năm thứ tư triều Giơ-hô-gia-kim làm vua Giu-đa, tức năm 605 tcn., Giê-rê-mi-a nhận được lệnh của Đức Chúa, yêu cầu ông viết lại tất cả những lời mà Ngài đã phán với ông, liên quan đến Ít-ra-en, Giu-đa và tất cả các nước. Đức Chúa hy vọng rằng, nhờ được nghe những lời này, mà dân chúng sẽ hối cải, từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, để rồi sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Để làm việc này, Giê-rê-mi-a nhờ đến Ba-rúc, một ký lục. Ông đọc cho Ba-rúc viết tất cả mọi lời Đức Chúa đã phán với ông từ thời vua Giô-si-gia cho đến lúc này, tức năm 604 tcn., vào một cuộn sách (c.1-4).
Vì không thể đến Đền Thờ (c. 5), Giê-rê-mi-a yêu cầu Ba-rúc đọc cuộn sách này cho mọi người nghe tại Nhà Đức Chúa, tức là Đền Thờ (c. 6-7). Vào «năm thứ tư triều vua Giơ-hô-gia-kim», tức năm 604 tcn., Ba-rúc thi hành lệnh của Giê-rê-mi-a : ông đọc cuộn sách tại Đền Thờ (c. 9-10). Mi-kha-giơ-hu nghe được mọi lời Đức Chúa khi Ba-rúc đọc, nên đã xuống đền vua, vào phòng thư ký và kể lại cho các thủ lãnh đang hội họp ở đó (c. 11-13). Khi biết chuyện, các thủ lãnh sai Giơ-hu-đi đến gặp Ba-rúc và xin ông cầm cuộn sách đến đọc trước mặt các ông. Khi nghe đọc sách, các ông sợ hãi và quyết định đi báo cho vua hay biết sự việc (c. 16). Nhưng trước khi vào chầu vua, các ông đã nói Giê-rê-mi-a và Ba-rúc đi trốn (c. 19).
Qua báo cáo của các thủ lãnh, vua Giơ-hô-gia-kim yêu cầu mang cuộn sách đến. Giơ-hu-đi được lệnh vua đi lấy cuộn sách về và đọc trước mặt vua. Khi đó vua đang ngự tại cung mùa đông, trước mặt vua có lò sưởi đang cháy (c. 21-22). Nghe đọc cuộn sách, vua và các thuộc hạ chẳng những không kinh hãi mà vua còn lấy con dao gọt bút của ký lục xén dần từng cột của cuộn sách và ném vào lò sưởi, cho đến khi cả cuộn sách bị thiêu rụi (c. 23). Cho dù đã có ba thủ lãnh khẩn khoản xin vua đừng đốt cuộn sách, nhưng vua cũng chẳng thèm nghe (c. 25). Sau khi đốt cuộn sách, vua sai người đi bắt ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ký lục Ba-rúc, nhưng Đức Chúa đã «che giấu» các ông (c. 26). Sau đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại nhận được lệnh của Chúa đi lấy một cuộn sách khác và viết vào đó không chỉ những lời trong cuộn sách trước mà còn thêm những lời sấm chống lại vua Giơ-hô-gia-kim (c. 29-31). Một lần nữa, Giê-rê-mi-a lại triệu tập Ba-rúc và đọc cho viên ký lục này viết tất cả những Lời trong cuộn sách trước và còn nhiều lời khác nữa được thêm vào cuộn sách thứ hai này (c. 32).
2. Cuộn sách Luật được tìm thấy trong Đền Thờ : 2 V 22-23
Theo chương 22 và 23 sách Các Vua quyển thứ hai, vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-gia, tức năm 622 tcn., vua sai ký lục Sa-phan đến Đền Thờ gặp thượng tế Khin-ki-gia-hu, để nói với thượng tế cộng lại số bạc dâng vào Đền Thờ và chuẩn bị cho việc tu sửa Đền Thờ (2 V 22,3-8). Việc bất ngờ xảy đến, đó là trong khi tu sửa Đền Thờ, thuợng tế đã tìm thấy cuộn sách Luật và đưa cho Sa-phan. Là một ký lục, Sa-phan đọc cuộn sách đó. Khi đọc xong, ông thấy cần đi trình bày với vua Giô-si-gia và trước mặt vua, ông lại đọc cuốn sách Luật một lần nữa (22,8-10). Khi nghe những lời trong sách, vua Giô-si-gia xé áo mình ra và truyền lệnh cho một số tư tế và ký lục đi gặp nữ ngôn sứ Khun-đa để thỉnh ý Đức Chúa (c.11-13). Sau khi nhận được ý của Chúa, chính vua đã đọc cuộn sách Luật tại Đền Thờ, trước toàn dân (2 V 23,1-2). Sau đó, vua lập giao ước trước nhan Đức Chúa, cam kết đi theo Chúa và hết lòng, hết dạ tuân theo mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người và toàn dân cũng chấp nhận giao ước (c. 3). Và sau đó vua Giô-si-gia đã làm một cuộc cải cách sâu rộng về tôn giáo tại Giu-đa, ông đã cho đốt hết những đồ vật hay những nơi thờ cúng các ngẫu tượng (23,4-25).
3. Những điểm tương đồng giữa hai câu truyện
Từ khoảng bốn mươi năm trở lại đây, nhiều nhà chú giải đã nghiên cứu Gr 36 trong tương quan với 2 V 22-23, và đề nghị đọc bản văn này dưới ánh sáng của bản văn kia, bởi vì hai bản văn có rất nhiều điểm tương đồng cũng như tương phản[2].
Trước tiên, ta thấy hai câu truyện đều kể về sự xuất hiện khá bất ngờ của hai cuộn sách. Thính giả không được biết trước về sự có mặt của cuộn sách ngôn sứ, vì bây giờ nó mới được viết ra (Gr 36). Vua Giô-si-gia và dân chúng cũng ngỡ ngàng vì cuộn sách Luật bất ngờ được tìm thấy (2V 22-23). Trong hai câu truyện, ta cũng thấy vai trò quan trọng của các ký lục, nhất là của dòng họ Sa-phan gắn liền với hai cuộn sách[3]. Ta cũng thấy cuộn sách Luật cũng như cuộn sách của Giê-rê-mi-a đều được đọc đến ba lần (2V 22,8.10 ; 23,2 ; Gr 36,10.15.21). Về nội dung, một đề tài nổi bật trong hai câu truyện cũng được đề cập, đó là cơn thịnh nộ của Đức Chúa, Đấng yêu cầu mọi người hoán cải mới có thể tránh được tai hoạ (2V 22,13.16-17 ; Gr 36,3.7).
4. Điểm tương phản giữa hai câu truyện
Có nhiều điểm giống nhau giữa hai câu truyện, đó là những đề tài thú vị nếu tìm hiểu sâu thêm. Ở đây, chỉ xin đề cập đến một điểm rất đặc biệt, đó là thái độ của hai vua khi đối diện hai cuộn sách. Khi nghe đọc sách, cả hai vua đều có phản ứng. Tuy nhiên, trong khi vua Giô-si-gia xé áo mình ra và thiêu hủi mọi đồ thờ cúng bất kính đối với Đức Chúa, thì người con của ông là vua Giơ-hô-gia-kim lại xé và đốt hết cả cuộn sách ngôn sứ. Thái độ của hai vua khi nghe đọc sách là điểm tương phản rõ ràng của hai câu truyện. Nói cách khác, trước Lời Chúa, vua Giô-si-gia đã hoán cải, còn vua Giơ-hô-gia-kim đã không hoán cải. Thái độ tương phản của hai vua được thể hiện rất rõ qua những từ khoá trong hai bản văn mà chúng ta cùng tìm hiểu sau đây.
a. קרע «xé»
Khi nghe Sa-phan đọc cuộn sách Luật vừa được tìm thấy tại Đền Thờ (22,10), vua Giô-si-gia đã xé áo mình ra (בגדיו את קרע)[4] (22,11b.19). Cử chỉ này cho thấy vua đã có một cảm xúc rất mạnh, có lẽ vì vừa nghe biết «cơn thịnh nộ bừng bừng của Đức Chúa sắp giáng xuống, như lời ông nói với các quan chức khi sai họ đi thỉnh ý Đức Chúa : «Hãy đi thỉnh ý Đức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì Đức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi việc đã viết trong đó» (c. 13).
Khi xé áo như thế, vua Giô-si-gia cũng cho thấy ông muốn hoán cải[5] vì nhận ra lỗi lầm của tất cả các bậc tổ tiên : “Bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó” (2V 22,13b). Chính Đức Chúa cũng đã nhận ra lòng hoán cải của vua Giô-si-gia khi nói rằng: “Bởi vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình trước nhan Đức Chúa khi nghe những gì Ta nói chống lại nơi đó và dân cư ở đó,…. Và bởi vì ngươi đã xé áo mình ra (קרע) và khóc lóc trước nhan Ta” (c. 19). Rồi sau đó, như chúng ta biết, vua Giô-si-gia đã cho thấy lòng hoán cải của ông bằng một cuộc cải cách tôn giáo sâu rộng tại Giu-đa và còn vươn tới tận phía Bắc (x. 2 V 23,4-23).
Ngược với vua Giô-si-gia là người đã xé áo tỏ lòng ăn năn sám hối khi nghe đọc sách Luật, con của ông là vua Giơ-hô-gia-kim và các quần thần không tỏ ra đau khổ hay sám hối gì cả. Quả thật, như Kinh Thánh ghi lại, khi nghe tất cả những lời này, vua và tất các các thuộc hạ «chẳng kinh hãi, cũng chẳng xé áo mình ra (בגדיהם קרעו לא)» (Gr 36,24). Trái lại, thay vì xé áo, thì vua đã xé cuộn sách ngôn sứ : «Mỗi khi ông Giơ-hu-đi đọc được ba hay bốn cột, thì vua lấy con dao gọt bút của ký lục xé đi (קרע) và ném vào lửa trong lò sưởi, cho đến khi cả cuộn sách bị thiêu rụi trong lò ấy» (Gr 36,23).
Như vậy, ta thấy rõ thái độ trái ngược của hai vua khi nghe và đáp lại Lời Chúa. Về vấn đề này, C.D. Isbell cho rằng, bằng cách dùng từ «xé» (קרע), tác giả của Gr 36 chắc chắn muốn đặt hành vi xấu xa của vua Giơ-hô-gia-kim đối lập với thái độ tốt lành của vua cha là Giô-si-gia[6]. Đặt những câu từ của hai bản văn bên cạnh nhau, ta thấy rõ hơn thái độ tương phản của hai vua :
2 V 22,11 : «Khi nghe những lời trong sách Luật, vua (Giô-si-gia) đã xé áo mình ra»
בגדיו את ויקרע התורה ספר דברי את המלך כשׁמע ויהי
Gr 36,23 : Khi Giơ-hu-đi đọc được ba hay bốn cột, thì vua (Giơ-hô-gia-kim) đã lấy con dao gọt bút của ký lục mà xén đi»
Gr 36,23 : Khi Giơ-hu-đi đọc được ba hay bốn cột, thì vua (Giơ-hô-gia-kim) đã lấy con dao gọt bút của ký lục mà xén đi»
הספר בתער יקרעה וארבעה דלתות שׁלשׁ יהודי כקרוא ויהי
Gr 36,24 : «Họ (vua Giơ-hô-gia-kim và các quan cận thần) chẳng kinh hãi cũng chẳng xé áo mình khi nghe tất cả những lời này»
האלה הדברים כל את השׁמעים עבדיו וכל המלך בגדיהם את קרעו ולא פחדו ולא
b. שׁרף « đốt »
Một từ khoá khác là שׁרף (đốt), xuất hiện bảy lần trong 2 V 23[7] và năm lần trong Gr 36[8], cũng cho thấy rõ phản ứng hoàn toàn trái ngược của hai vua khi nghe đọc sách[9].
Gr 36,24 : «Họ (vua Giơ-hô-gia-kim và các quan cận thần) chẳng kinh hãi cũng chẳng xé áo mình khi nghe tất cả những lời này»
האלה הדברים כל את השׁמעים עבדיו וכל המלך בגדיהם את קרעו ולא פחדו ולא
b. שׁרף « đốt »
Một từ khoá khác là שׁרף (đốt), xuất hiện bảy lần trong 2 V 23[7] và năm lần trong Gr 36[8], cũng cho thấy rõ phản ứng hoàn toàn trái ngược của hai vua khi nghe đọc sách[9].
Quả thật, sau khi chính mình đọc sách Luật, vua Giô-si-gia đã ký kết giao ước với Đức Chúa dựa theo tất cả những lời đã viết trong cuộn sách (23,3). Rồi vua ra lệnh (צוה) cho các tư tế lôi ra (הוציא) khỏi Đền Thờ, «mọi đồ vật đã làm để kính thần Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh» và cho thiêu huỷ (שׁרף) tất cả các đồ vật đó ở ngoài Giê-ru-sa-lem, tại Kít-rôn[10] (2 V 23,4). Vua cũng cho lôi «cột thờ» ra khỏi Giê-ru-sa-lem và mang đốt (שׁרף) tại thung lũng Kít-rôn (23,6.15). Vua cũng dẹp bỏ những con ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng kính mặt trời và phóng hoả đốt (שׁרף) «xe của mặt trời». Vua còn cho phá và thiêu huỷ (שׁרף) tế đàn ở nơi cao tại Bết-en mà vua Gia-róp-am đã lập (23,15), cho đốt (שׁרף) những xương cốt trên tế đàn để làm ô uế nơi đó (23,16). Tại Sa-ma-ri, vua cũng dẹp bỏ tất cả các đền thờ tại nơi cao, ra lệnh sát tế các tư tế của các tế đàn và cũng cho thiêu huỷ (שׁרף) xương người trên đó (23,20).
Về phần vua Giơ-hô-gia-kim, vừa nghe đọc cuộn sách, thì đã lập tức ra lệnh (צוה) bắt Ba-rúc là ký lục và Giê-rê-mi-a là ngôn sứ (Gr 36,26). Vua đã muốn «lôi» hai tác giả của cuộn sách ra ngoài để xét xử, thay vì lôi những đồ thờ cúng các thần dân ngoại để đốt đi. Nhất là vừa nghe đọc Lời Chúa nói qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông vừa đốt (שׁרף) cuộn sách đó : «Mỗi khi ông Giơ-hu-đi đọc được ba hay bốn cột thì vua lấy con dao gọt bút của ký lục xén đi và bỏ vào lửa trong lò sưởi, cho đến khi cả cuộn sách bị thiêu rụi trong lò ấy» (36,23)[11]. Dù cho En-na-than, Đơ-la-gia-hu và Gơ-mác-gia-hu đã khẩn khoản xin vua đừng đốt (שׁרף) cuộn sách ấy, nhưng vua vẫn cứng lòng và quyết tâm đốt (36,25). Việc vua Giơ-hô-gia-kim đốt (שׁרף) cuộn sách còn được lập lại bốn lần ở phần tiếp theo của câu truyện (Gr 36,27.28.29.32).
Theo T. Römer, trong hai bản văn, từ «đốt, hay thiêu huỷ» (שׁרף) được lặp đi lặp lại như một điệp khúc, điều này có mục đích nhấn mạnh việc hoán cải của vua Giô-si-gia và sự ương ngạnh của vua Giơ-hô-gia-kim trước Lời Chúa[12]. Còn theo C.D. Isbell, từ «đốt» (שׁרף) được dùng đúng năm lần (sic)[13] trong 2 V 23 và trong Gr 36 chính là ý muốn của tác giả Gr 36, vì hạn từ này cũng được lặp lại năm lần trong Gr 36. Cũng như từ קרע (xé) đã làm nổi bật hành vi tương phản của hai vua thế nào, thì từ שׁרף (đốt) cũng làm nổi bật sự khác biệt căn bản giữa hai câu truyện như thế. Việc vua Giô-si-gia «đốt» có ý nghĩa tích cực : đó là một cuộc cải cách, một sự thay da đổi thịt về tôn giáo và chính trị. Những đám cháy mà Giô-si-gia tạo ra cho thấy vua đã thực sự nghe Lời Chúa trong cuộn sách Luật. Trái lại, việc Giơ-hô-gia-kim «đốt cuộn sách» là một hành động tiêu cực, đây là một dấu chỉ cho thấy ông từ chối cải cách và không chịu khuất phục lời Chúa nói qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a[14].
Sự tương phản của hai vua còn được chứng thực qua hạn từ שׁמר «nghe».
c. שׁמר «nghe»
Khi Sa-phan đến gặp vua Giô-si-gia, ông chỉ thưa với vua rằng : «Tư tế Khi-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách» (2 V 22,10). Làm vậy, Sa-phan đã không nói cho vua biết đó là cuốn sách gì và được tìm thấy ở đâu. Ông như muốn để vua tự mình khám phá ra căn tính của cuốn sách này. Theo J.P. Sonnet, vua Giô-si-gia như được đặt trước thử thách : liệu vua có nhận ra đây là cuộn sách gì không ?[15] Thế mà ngay khi Sa-phan đọc cuộn sách trước mặt vua (המלך לפני), thì như bản văn ghi lại : vua đã «nghe những lời trong sách Luật» (22,11a). Như thế, vua đã nghe (שׁמר) và nhận ra ngay rằng đây là những lời của sách Luật. Vua Giô-si-gia đã biết «nghe» (שׁמר) nên đã «đã xé áo mình ra» (22,11b). Và ngay sau đó, vua phái năm người đi thỉnh ý Đức Chúa (2 V 22,12). Vì biết nghe, nên vua cũng đã nhận ra rằng sở dĩ «Đức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ» là vì «tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe (שׁמר) các lời trong sách này mà làm (עשה) theo mọi điều đã viết trong đó» (2 V 22,13). Qua lời nói này của ông, ta nhận ra rằng, đối với vua Giô-si-gia, «nghe» (שׁמר) và «làm hay thực hành» (עשה) những gì viết trong sách Luật là điều thiết yếu để có thể tránh cơn thịnh nộ của Đức Chúa. Việc vua biết nghe đã được chính Đức Chúa chứng nhận ngang qua lời của nữ ngôn sứ Khun-đa như ta thấy trong 2 V 22,18b-19 :
«Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này :
«Ngươi đã nghe (שׁמר) những lời này,
bởi vì ngươi đã mềm lòng
và ngươi đã hạ mình trước nhan Đức Chúa
khi ngươi nghe (שׁמר) điều Ta nói…
vì ngươi đã xé áo mình,
vì ngươi đã khóc lóc trước nhan ta,
thì Ta, Ta cũng đã nghe (שׁמר),
Sấm ngôn của Đức Chúa».
Nhìn vào cấu trúc của sấm ngôn này, ta nhận thấy động từ שׁמר (nghe) có vai trò đóng khung, nghĩa là động từ «nghe» nằm ở phần đầu và phần cuối trong Lời của Đức Chúa : Giô-si-gia đã «nghe» Lời Chúa, thì Ngài cũng «nghe» ông. Ta có thể suy ra thế này : bởi vì ngươi đã nghe (שׁמר) lời của Ta, thì Ta, đến lượt Ta, Ta cũng nghe (שׁמר) ngươi. Hơn nữa, việc «nghe» của vua Giô-si-gia được đặt giữa bốn khẳng định của Đức Chúa, mà theo C.D. Isbell, những khẳng định này thể hiện rất rõ tâm tình của một đôi tai biết lắng nghe :
1) bởi vì ngươi đã mềm lòng ;
2) ngươi đã hạ mình trước nhan Đức Chúa ;
3) vì ngươi đã xé áo mình ;
4) vì ngươi đã khóc lóc trước nhan ta.
Trước đó, bản văn không nói đến việc vua Giô-si-gia «hạ mình», hay « khóc lóc » khi nghe đọc sách Luật, nhưng những khẳng định này của Đức Chúa cho phép ta nghĩ rằng, khi nghe Lời Chúa, phản ứng của Giô-si-gia không chỉ hệ tại ở việc «nghe» bằng đôi tai bên ngoài, mà còn hệ tại ở «chất lượng» của việc lắng nghe, tức là để Lời Chúa đụng chạm đến tâm hồn ông. Nói cách khác, vua Giô-si-gia đã để cho những gì ông nghe được thấm vào và biến đổi lòng dạ ông[16].
Như thế Giô-si-gia đã biết «nghe» và việc «nghe» của ông cũng rất chất lượng. Điều này được thể hiện qua việc vua đã «xé áo mình» và «đốt» những đồ vật dùng cho việc thờ ngẫu tượng thần ngoại. Sau khi nghe đọc Lời Chúa, Giô-si-gia đã «là người khởi xướng của một cuộc cải cách lớn về chính trị và tôn giáo (2 V 22-23) [17]. Ngược với vua cha là Giô-si-gia, vua Giơ-hô-gia-kim đã không biết nghe, ta không thấy một «chất lượng nghe» nào nơi ông. Quả thật, khi Giơ-hu-đi đọc cuộn sách «vào tai của vua» (המלך באזני), bản văn đã không nói vua «nghe» những lời đang được đọc giống như vua cha là Giô-si-gia đã nghe (2 V 22,10). Tệ hơn nữa, trong khi Giơ-hu-đi đọc, thì vua đã «xé» và «ném» những cột sách vào trong lò lửa (Gr 36,23). Chỉ có một chỗ nói đến việc vua Giơ-hô-gia-kim và các đầy tớ của ông «nghe tất cả những lời này», tuy nhiên, việc «nghe» này lại đi sau hai hành động ở thể phủ định, đó là vua và các đầy tớ «không run sợ» và « không xé áo mình» khi «nghe tất cả những lời này» (c. 24).
Như vậy, trong Gr 36, không có một dấu hiệu nào cho thấy vua Giơ-hô-gia-kim đã «nghe» những gì được đọc vào tai ông. Ta cũng không thấy một khẳng định nào cho thấy ông giống với vua cha là Giô-si-gia trong 2 V 22,19. Một lần nữa, hạn từ שׁמר, cũng như hai hạn từ קרע (xé) và שׁרף (đốt), về mặt hình thức, đã nối kết hai bản văn lại, nhưng nội dung thì khác nhau. Cách tổng quát, ta có thể tóm gọn thái độ trái ngược của hai vua trước việc nghe Lời Chúa như sau :
2 R 22-23 | Giô-si-gia 2 V 22-23 | Giơ-hô-gia-kim Gr 36 | Gr 36 |
22,10b | Sa-phan đọc sách «trước mặt vua» (המלך לפני) | Giơ-hu-đi đọc cuộn sách «vào tai vua» (המלךבאזני) | 36,23a |
22,11a | Giô-si-gia «nghe» (שׁמר) những lời trong sách Luật | ||
22,11b | Giô-si-gia «xé» (קרע) áo mình | Giơ-hô-gia-kim «xé» (קרע) những cột sách và ném vào lửa | 36,23b |
23,4.6.11.15.15.16.20 | Giô-si-gia cho «đốt» (שׁרף) những đồ thờ phượng của tượng thần. | Giơ-hô-gia-kim «đốt» (שׁרף) cuộn sách | 36,25.27.28.29.32. |
Như thế, ngang qua ba hạn từ שׁמר (nghe), קרע (xé) và שׁרף (đốt), mà thoạt nhìn, có vài trò nối kết hai bản văn, ta thấy rất rõ thái độ tương phải của hai vua khi nghe Lời Chúa. Thái độ của hai vua sẽ dẫn đến những lời đáp trả khác nhau của Đức Chúa dành cho hai ông. Đó là điều sẽ được đề cập sau đây.
5. Lời đáp trả của Đức Chúa
5. Lời đáp trả của Đức Chúa
Trong 2 V 22-23 và Gr 36, ta không chỉ thấy phản ứng trái ngược của hai vua khi nghe Lời Chúa, nhưng còn thấy sự tương phản rất rõ trong lời đáp trả của Đức Chúa đối với số phận của hai vua.
a. Sấm ngôn kép
Tương lai của vua Giô-si-gia và của vua Giơ-hô-gia-kim được miêu tả song song, nhưng một lần nữa theo cách thức đối lập[18]. Nhìn bề mặt, hai vua cùng nhận từ Đức Chúa sấm ngôn kép, do nữ ngôn sứ Khun-đa[19] và Giê-rê-mi-a nói lại. Hơn nữa, những công thức dẫn nhập vào sấm ngôn liên quan đến tương lai của hai vua cũng gần giống nhau :
1 : Sấm ngôn thứ nhất cho Giô-si-gia : 2 V 22,15
Đức Chúa phán thế này : «Hãy nói với người đã cử các ngươi đến gặp ta…»
אלי אתכם שׁלח אשׁר לאישׁ אמרו יהוה אמר כה
2 : Sấm ngôn thứ hai cho Giô-si-gia : 2 V 22,18
Liên quan đến vua Giu-đa người sai các ông đi thỉnh ý Đức Chúa, hãy nói với nó : Đức Chúa phán thế này
יהוה אמר כה אליו תאמרו יהוה אמר כה יהוה את לדרשׁ אתכם השׁלח יהודה מלך אל
1 : Sấm ngôn thứ nhất dành cho Giơ-hô-gia-kim : Gr 36,29
Liên quan đến Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, ngươi hãy nói: «Đức Chúa phán thế này
יהוה אמר כה תאמר יהודה מלך יהויקים ועל
2 : Sấm ngôn thứ hai dành cho Giơ-hô-gia-kim: Gr 36,30
Bởi thế, Đức Chúa phán thế này, với Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa :
יהודה מלך יהויקים על יהוה אמר כה לכן
Các sấm ngôn trên đây đều đậm tính ngôn sứ, thể hiện qua thể thức « Đức Chúa phán thế này » (יהוהאמר כה) và tương lai của hai vua đều được các ngôn sứ loan báo, chứ không được nói trước trong cuộn sách. Nhưng qua nữ ngôn sứ Khun-đa, vua Giô-si-gia nhận được sấm ngôn hứa ban điều tốt lành. Trái lại, qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vua Giơ-hô-gia-kim nhận được sấm ngôn báo hiệu tai hoạ.
Bởi thế, Đức Chúa phán thế này, với Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa :
יהודה מלך יהויקים על יהוה אמר כה לכן
Các sấm ngôn trên đây đều đậm tính ngôn sứ, thể hiện qua thể thức « Đức Chúa phán thế này » (יהוהאמר כה) và tương lai của hai vua đều được các ngôn sứ loan báo, chứ không được nói trước trong cuộn sách. Nhưng qua nữ ngôn sứ Khun-đa, vua Giô-si-gia nhận được sấm ngôn hứa ban điều tốt lành. Trái lại, qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vua Giơ-hô-gia-kim nhận được sấm ngôn báo hiệu tai hoạ.
b. Sấm ngôn cứu độ
Đối với vua Giô-si-gia, như chúng ta đã đề cập, rõ ràng là, sở dĩ Đức Chúa lắng nghe Giô-si-gia, đó là vì vua đã biết «nghe» những lời của Đức Chúa ghi trong sách Luật. Lời đáp trả của Thiên Chúa cho sự hối cải của Giô-si-gia được thể hiện qua sự việc là «tai hoạ» (רעה) mà Đức Chúa muốn giáng xuống thì nay được biến đổi thành «bình yên» (שׁלום) như lời Ngài nói : «Vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình trước nhan Đức Chúa khi nghe những gì Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở đó… vì ngươi đã xé áo mình và đã khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe. Bởi thế (לכן), này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi[20], ngươi được bình yên (בשׁלום) sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai hoạ (הרעה בכל) Ta sắp giáng xuống nơi này» (2 V 22,19-20).
c. Lời sấm báo tai hoạ
Đức Chúa đã nghe vua Giô-si-gia. Trái lại, Đức Chúa không nghe Giơ-hô-gia-kim. Quả thật, trong Gr 36, «tai hoạ» (רעה) không những không được lấy đi, mà còn trở nên nguy hại hơn. Điều này được thấy rõ trong việc vua sẽ không có con cháu nối ngôi trên ngai vàng Đa-vít, thân xác của vua sẽ bị ném ra ngoài, chịu phơi nắng ban ngày và ướp lạnh ban đêm (Gr 36,30). Vua đã «ném» (שלך) cuộn sách Lời Chúa vào lò lửa, thì sẽ đến một lúc, thân xác vua cũng sẽ bị «ném» (שלך) ra bên ngoài. Cái chết không được chôn trong mồ - nhất là xác chết bị ném ra ngoài (משׁלכת) – thực sự trái ngược với cái chết «an bình» (בשׁלום) trong phần mộ của vua Giô-si-gia (2 R 22,20b)[21]. Theo T. Römer, lời đáp trả của Đức Chúa với hai vua thật là rõ ràng và hoàn toàn đối lập. Vua Giô-si-gia nhận được lời sấm cứu độ, nghĩa là «vua sẽ chết mà không phải thấy Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ và dân phải đi lưu đày». Trái lại, với vua Giơ-hô-gia-kim, Đức Chúa tiên báo sự kết thúc của triều đại của vua sẽ kết thúc, và ông chết mà không được chôn trong mộ, điều này theo não trạng Do Thái, là một sự trừng phạt kinh khủng nhất (36,30b)[22].
Hơn nữa, nhờ vào việc biết nghe của mình mà vua Giô-si-gia đã được tách khỏi số phận của dân chúng như Đức Chúa phán : «Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai hoạ (הרעה בכל) Ta sắp giáng xuống nơi này» (2 V 22,19-20). Trái lại, vì không những không nghe mà còn đốt Lời Chúa, vua Giơ-hô-gia-kim phải chịu cùng với dân chúng hình phạt của Đức Chúa và «tất cả những tai hoạ» (הרעהבכל) : «Còn về Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, người sẽ nói : «Đức Chúa phán thế này : ngươi đã đốt cuộn sách ấy… Vì thế, Đức Chúa phán về Giơ-hô-gia-kim vua Giu-đa, như sau : nó sẽ chẳng có người nào nối ngôi trên ngai vàng Đa-vít nữa, thây nó sẽ bị vất ra phơi nắng ban ngày, và ướp lạnh ban đêm. Ta sẽ trừng phạt nó, dòng dõi và cả tôi tớ nó, vì các tội chúng phạm. Ta sẽ giáng xuống trên chúng, cũng như dân cư tại Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa, mọi tai hoạ Ta đã nói cho chúng mà chúng chẳng thèm nghe» (Gr 36,29-31). Về điểm này, J.P. Sonnet viết : «Trong khi ở 2 V 22,15.18, nữ ngôn sứ Khun-đa dành cho vua Giô-si-gia sấm ngôn kép để tách biệt vua ra khỏi số phận của dân chúng, thì ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại được kêu gọi để lên án vua Giơ-hô-gia-kim hai lần (Gr 36,29.30), vua sẽ là người đầu tiên chịu hình phạt mà Đức Chúa sẽ cho rơi xuống mọi người » [23].
Tạm kết
Nếu nhìn kỹ hơn giới từ לכן (bởi thế) được đặt ngay đằng trước hai sấm ngôn trái ngược nhau liên quan đến tương lai của hai vua, ta sẽ thấy rõ hơn hệ luỵ của việc nghe hay chối bỏ Lời Chúa. Quả thật, Đức Chúa đã đáp trả hai vua ngay khi thấy phản ứng của họ trước Lời Ngài.
Sấm ngôn dành cho vua Giô-si-gia :
« Bởi thế (לכן), Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên, ngươi sẽ được bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi » (2 V 22,20).
Sấm ngôn dành cho vua Giơ-hô-gia-kim cũng bắt đầu bằng לכן :
« Bởi thế (לכן), chống lại vua Giơ-hô-gia-kim, nó sẽ chẳng có người nào nối ngôi trên ngai vàng Đa-vít… » (Gr 36,30).
Theo lô-gích của bản văn, ta có thể hiểu rằng, đối với vua Giô-si-gia thì לכן có nghĩa là : « Bởi vì ngươi đã nghe, bởi vì những gì ngươi đã làm… » (cc. 18-19). Nhưng đối với Giơ-hô-gia-kim, לכן có nghĩa là : « Bởi vì ngươi đã xé và đốt cuộn sách » (Gr 36,29). Nói cách khác, đối với vua Giô-si-gia, sấm ngôn cứu độ là kết quả của việc ông đã biết nghe, trong khi đối với Giơ-hô-gia-kim, sấm ngôn đau khổ là hậu quả đương nhiên của việc ông đã đốt cuộn sách. Tất nhiên, Đức Chúa sẽ nói rằng, không chỉ vua, mà toàn dân Giu-đa đã không để tâm đến tai hoạ mà Ngài đã tiên báo (c. 31b), nhưng theo lô-gích của câu truyện, dường như nguyên nhân thực sự thúc đẩy Đức Chúa tuyên lời sấm tai hoạ chống lại Giơ-hô-gia-kim và toàn dân, đó là do vua đã đốt cuộn sách. Theo ý nghĩa này, ta hiểu tại sao tác giả của chương 36 đặt câu truyện ông kể vào năm thứ tư của triều đại vua Giơ-hô-gia-kim, nghĩa là năm 605 tcn. Vì chính vào năm đó đã diễn ra trận chiến tại Các-kê-mít và sau đó đế quốc Ba-by-lon bành trướng, nổi lên như một ông chủ mới tại vùng Cận Đông. Ý tác giả muốn nói, ngay khi vua xé và vứt bỏ Lời Chúa, thì những sấm ngôn ở đầu sách Giê-rê-mi-a loan báo quân thù sẽ từ phía Bắc mà đến (Gr 2-6) bắt đầu trở thành hiện thực[24]. Việc vua xé và đốt Lời Chúa đã nhanh chóng mang đến tai hoạ cho toàn dân.
Đặt để hai câu truyện của vua Giô-si-gia và của vua Giơ-hô-gia-kim trong tương quan với nhau, ta thấy rõ hơn cho câu hỏi được đặt ra : cần có thái độ nào trước Lời Chúa ? Ngang qua thái độ tương phản của hai vua và những lời sấm của Đức Chúa về tương lai của họ, ta cũng thấy rõ Lời Chúa được viết ra có giá trị là thế nào. Vua Giô-si-gia biết nghe đối lập với vua Giơ-hô-gia-kim không biết nghe. Hai câu truyện này đưa ra hai kiểu mẫu về thái độ đối với việc nghe Lời Chúa : một thái độ thích đáng thì dẫn tới ơn cứu độ, đó là thái độ của vua Giô-si-gia, và một thái độ không thích đáng thì gây ra tai hoạ, đó là thái độ của Giơ-hô-gia-kim. Nói cách khác, trước Lời Chúa, người ta có thể vâng phục hay chối từ. Giơ-hô-gia-kim trở thành kiểu mẫu của tất cả các vị vua xấu xa, có trách nhiệm về tai hoạ giáng xuống Giu-đa, vì đã « đốt » Lời Chúa. Trái lại, tuân phục sách Luật như vua Giô-si-gia thì sẽ làm hài lòng Đức Chúa và sẽ nhận được sấm ngôn cứu độ.
Phú Tảo ngày 25 tháng 08 năm 2019
Lm. Giu-se Nguyễn Văn Hội, CSsR. Chuyên môn Kinh Thánh.
[1] R.P. Carroll, « Manuscripts don’t Burn - Inscribing the prophetic tradition. Reflection on Jeremiah 36 », trong : M. Augustin et K. DietrichSchunck (éd.), « Dort ziehen Schiffe dahin... » : Collected Communications to the XIVth Congress of the International Organization for the Study of the Old Testament, Paris 1992, Frankfurt am Main, Peter Lang, 1996, tr. 31.
[2] Cf. C.D. Isbell, « 2 Kings 22,3-23,24 and Jeremiah 36. A Stylistic Comparison », JSOT 8 (1978), tr. 33-45.
[3] X. J.A. Dearman « My Servants the Scribes. Composition and Context in Jeremiah 36 », JBL 109/3 (1990), tr. 403-421.
[4] « Xé áo » là hành vi diễn tả một cảm xúc rất mạnh, có thể do quá thất vọng, quá đau khổ, hay quá giận dữ… và đây cũng là tập tục liên quan đến tang chế. Chẳng hạn, khi nhận ra mình không thể cứu em là Giu-se, thì Rưu-vên đã xé áo mình ra (St 37,29). Khi được tin con mình là Giu-se bị thú dữ ăn thịt, thì Gia-cóp đã « xé áo mình ra » (x. Gn 37,31-35). Khi biết tất các con cái mình đều chết hết, thì Gióp đã « xé áo mình ra » (G 1,18-20). Để báo tin cho thượng tế Ê-li-a rằng quân Ít-ra-en bại trận, hai người con trai của ông bị giết và hòm bia Thiên Chúa thì bị lấy đi, người đưa tin đã trình diện trước vị thượng tế qua bên ngoài là « áo quần xé rách, đầu thì rắc đất » (x. 1 Sam 4,12-17). Sau khi nghe những lời ngôn sứ Ê-li-a tố cáo tội của mình thì vua A-kháp « xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thểu não » (1 R 21,27). X. W. Thiel, « קרע », TDOT13, tr. 175.
[5] X. C.D. Isbell, « 2 Kings 22,3-23,24 and Jeremiah 36. A Stylistic Comparison », tr. 37.
[6] X. C.D. Isbell, op. cit., tr. 37.
[7] Jr 36,4.6.11.15.15.16.20.
[8] Jr 36,25.27.28.29.32.
[9] X. T. Römer, Jérémie, du prophète au livre, Poliez-le-Grand, Moulin, 2003, tr. 88 ; J. Erzberger, « Jr 36 : Moïse et Jérémie en dispute sur la tradition », Transversalités 129 (2014), tr. 36.
[10] Kít-rôn là tên của thung lũng và dòng suối nằm ở phía đông Giê-ru-sa-lem, giữa thành Giê-ru-sa-lem và núi Ô-liu. Đây là nơi thiêu huỷ và vứt bỏ các đồ vật, tượng thần kính các thần ngoại giáo (x. 1 V 15,13; 2 Sb 15,16; 29,16; 30,14)
[11] Hạn từ שׁרף không xuất hiện trong câu 23 này, nhưng việc vua Giơ-hô-gia-kim xé và ném cuộn sách vào lò lửa cho thấy rõ ông đốt cuộn sách.
[12] T. Römer, Jérémie, du prophète au livre, Poliez-le-Grand, Moulin, 2003, tr. 88.
[13] Thực ra hạn từ này được lặp lại bảy lần trong 2 V 23 (vv. 4.6. 11.15.15.16.20).
[14] X. C.D. Isbell, op. cit., tr. 37
[15] X. J.P. Sonnet, « "Le livre trouvé" : 2 Rois 22 dans sa finalité narrative », NRT 116 (1994), tr. 848.
[16] « Dans le langage biblique, le rapport entre le lecteur et le texte est exprimé par la catégorie de l’écoute (שׁמר) : une écoute qui ne relève pas tant de l’activité sensorielle que de l’inclination du cœur et qui ordonne l’action (עשה) ». A.K. Mukenge, « Les derniers rois de Juda et la lecture du "Livre": Josias (2 R 22-23), Joiaqim (Jr 36) et Jékonias (Ba 1,1-14) », RTL 30 (1999), tr. 11.
[17] X. T. Römer, Jérémie, du prophète au livre, tr. 87.
[18] X. J. Erzberger, « Jr 36 : Moïse et Jérémie en dispute sur la tradition », tr. 36.
[19] Trong Kinh Thánh, ta còn gặp một số nữ ngôn sứ khác (Xh 15,20; Tl 4,4; Nkm 6,14; Lc 2,36; Kh 2,20).
[20] Đây là cách nói dành cho các tổ phụ (x. St 25,8.17; 35,29; 49,29-33; Ds 20,24.25; 27,13; 31,2; Đnl 25,30)
[21] X. C.D. Isbell, « 2 Kings 22,3-23,24 and Jeremiah 36. A Stylistic Comparison », tr. 40.
[22] X. T. Römer, Jérémie, du prophète au livre, tr. 88.
[23] J.P. Sonnet, « "Le livre trouvé" : 2 Rois 22 dans sa finalité narrative », ghi chú số 44, tr. 855.
[24] T. Römer, Jérémie, du prophète au livre, tr. 87.89 ; J. Ferry viết : « Les narrateurs nous présentent deux archétypes de comportement face à la parole divine dans ce qu’on peut appeler un récit de réforme et un récit d’anti-réforme. Josias montre ce qui aurait dû être fait pour éviter la catastrophe. Jr 36 montre que cette chance n’a pas été saisie », « Le livre dans le livre. Lecture de Jérémie 36 », trong : J.D. Macchi, C. Nihan, T. Römer (éd.), Les recueils prophétiques de la Bible, Genève, Labor et Fides, 2012, tr. 295 ; J. Erzberger cũng viết : « les deux oracles interprètent le comportement du roi vis-à-vis du message du rouleau lu devant eux. L’oracle de malheur contre Yoyaqîm reprend les motifs de l’oracle de salut pour Josias ». « Jr 36 : Moïse et Jérémie en dispute sur la tradition », tr. 37.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét