Hạnh Các Thánh Tháng 9
01/9 – Thánh
Giles (qua đời năm 710?)
Mặc dù nhiều điều về cuộc
đời thánh Giles vẫn là bí ẩn, nhưng chúng ta có thể nói rằng ngài là một trong
các vị thánh nổi danh nhất thời Trung cổ. Có thể ngài sinh vào giữa thế kỷ VII
ở Đông Nam Pháp quốc. Đó là nơi ngài đã xây một tu viện nổi tiếng được nhiều
khách hành hương dừng chân để tới Compostela ở Tây Ban Nha và Thánh Địa.
Tại Anh quốc, nhiều nhà
thờ và bệnh viện cổ được dâng kính thánh Giles. Một trong các giáo phái của
thành phố ở Bỉ đã đặt theo tên ngài. Tại Đức, thánh Giles là một trong 14 vị
thánh bảo trợ, một số thánh mà người ta cầu nguyện, nhất là xin khỏi bệnh và
xin sức mạnh trong giờ chết. Trong 14 vị thánh đó có thánh Christopher, thánh
Barbara và thánh Blase. Trong đó, thánh Giles là vị thánh duy nhất không tử
đạo. Lòng sùng kính các thánh này rất mạnh ở khắp Đức quốc, Hungary và Thụy
Điển. Lòng súng kính như vậy lan rộng rất nhanh. Thánh Giles được nhận là thánh
bổn mạng của người nghèo và người khuyết tật.
02/9 – Chân
phước Gioan Phanxicô Burté và các bạn tử đạo (qua đời năm 1792; qua đời năm
1794)
Các linh mục này là nạn
nhân của cuộc Cách mạng Pháp. Thời điểm tử đạo mỗi vị khác nhau, nhưng Giáo hội
kính nớ chu ng vì họ đều hiến mạng sống vì cùng một mục đích. Hiến pháp Dân sự
về Giáo sĩ (The Civil Constitution of the Clergy) năm 1791 buộc các linh mục
phải thề hứa từ bỏ đức tin. Họ đều cương quyết giữ đức tin và lần lượt bị xử
tử.
Lm Gioan Phanxicô Burté
vào Dòng Phanxicô lúc 16 tuổi. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học
cho các tu sĩ trẻ. Sau đó ngài là người giám hộ của Hội đồng Tu sĩ Paris cho
đến lúc bị bắt và bị giữ trong Dòng Camêlô (Carmelites).
Lm Appolinaris Posat sinh năm 1739 tại Thụy Sĩ. Ngài
vào Dòng Phanxicô và có tiếng là giảng thuyết giỏi, giải tội và dạy học các
giáo sĩ. Được sai tới truyền giáo ở Đông phương, ngài đang học tiếng Đông
phương ở Pháp quốc thì cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ. Không chịu thề bỏ đạo, ngài
bị bắt và bị giam giữ tại Dòng Camelô.
Lm Severin Girault là tuyên úy của một nhóm nữ tu ở Paris . Ngài bị tù với một
số người khác, và là người bị xử tử đầu tiên.
Ba vị này và 182 vị khác – có cả các giám mục, tu sĩ
và linh mục triều – bị giết ngay tại Dòng Camêlô ở Paris vào ngày 2-9-1792. Học được phong thánh
năm 1926.
Lm John Baptist
Triquerie, sinh năm 1737, là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ngài là tuyên úy cho các tu viện của thánh Clara khó
nghèo ở 3 thành phố trước khi bị bắt vì không chịu bỏ đức tin. Ngài và 13 linh
mục triều khác bị chém ở Laval
vào ngày 21-1-1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.
03/9 – Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng Tiến
sĩ (540?-604)
Coming events cast their shadows before: Grêgôriô là
Giám mục Rôma khi chưa đầy 30 tuổi. Sau 5 năm, ngài từ chức, thành lập 6 tu
viện ở điền trang Sicilian và vào tu Dòng Biển Đức tại Rôma.
Ngài là một trong 7 phó tế của ĐGH, và phục vụ 6 năm ở
Đông phương với tư các sứ thần Tòa thánh tại Constantinople .
Ngài được chọn làm Viện phụ, rồi ngài được bầu làm giáo hoàng lúc 50 tuổi.
Ngài thẳng thắn và cương quyết, cách chức các
linh mục bất xứng, cấm lấy tiền từ nhiều loại lễ, lấy
tiền của Tòa thánh giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc
những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các
nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài rất quan tâm việc trở lại của
Anh quốc nên đã sai 40 tu sĩ từ Dòng của ngài để đi thương thuyết. Ngài nổi
tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Ngài còn nổi tiếng về Bình ca
(gọi là nhạc Gregorian), loại nhạc đặc trưng của Giáo hội Công giáo. Khi Rôma
bị tấn công, chính ngài đã đi chất vấn vua Lombard .
Sách của ngài, cuốn Pastoral Care (Chăm sóc Mục vụ),
viết về nhiệm vụ và phẩm chất của giám mục, được đọc nhiều trong những thế kỷ
sau khi ngài qua đời. Ngài mô tả các giám mục chủ yếu là những thầy
thuốc với trách nhiệm chính là rao giảng và củng cố kỷ cương. Cách
giảng của ngài thức tế, không viễn vông. Ngài qua đời khi đang soạn bài giảng
Phúc âm. Ngài được gọi là “cả” vì ngài được đặt ngang hàng với thánh Augustinô,
Ambrôsiô và Giêrônimô, và trở thành một trong 4 vị thánh tiến sĩ chủ lực của
Giáo hội Đông phương.
04/9 – Thánh Rose Viterbo (1233-1251)
Ngay từ còn rất trẻ Rose đã say mê cầu nguyện, giúp đỡ
người nghèo, và sống đền tội. Bà rất nghiêm khắc với chính mình là phải hào
phóng với người nghèo. Lúc 10 tuổi, bà đã vào Dòng Ba Phanxicô và sớm biết nói
về tội lỗi và đau khổ của Chúa Giêsu khi ra các đường phố.
Bà sinh tại thành phố Viterbo, hồi đó có cuộc chống
đối ĐGH. Khi bà ủng hộ ĐGH và phản đối hoàng đế, bà và gia đình bị trục xuất
khỏi thành phố. Khi dân thành phố Viterbo ủng hộ ĐGH, bà mới được phép trở về.
Lúc 15 tuổi, bà muốn lập dòng nhưng không thành công, bà lại tiếp tục cầu
nguyện và đền tội ngay tại nhà, và cũng là nơi bà qua đời khi mới 28 tuổi. Bà
được phong chân phước năm 1269, và được phong thánh năm 1457.
05/9 – Chân phước Têrêsa Calcutta, Nữ tu
(1910-1997)
Mẹ Têrêsa Calcutta là một
phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu
thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.
Ngày 19-10-2003, trong
một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa
là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô,
trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity)
mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn
phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục.
Trong bài giảng, CP GH
Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của
thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng
cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được
phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời.
Bà sinh tại Albani (nay
là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên “cúng cơm”
của bà là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một
thời gian sống thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng
cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.
Trong những năm còn đi
học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở
ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. Năm 1928, cô Agnes từ
giã mẹ lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes
được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó bà lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho
đời sống phục vụ. Bà được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy
lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Bà không thể không chú ý tới
xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực.
Năm 1946, khi đi xe lửa
tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau bà giải
thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Bà kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện
để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Bà cũng nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng
nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột để phục vụ Ngài
giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”.
Sau khi được phép rời
Dòng Loreto, bà lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Bà học y tá vài
tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây bà sống trong những khu nhà ổ chuột và mở
trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật)
và đi dép, bà mau chóng được người ta biết là hàng xóm của họ – nhất là những
người nghèo và bệnh tật, bà biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ.
Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng.
Công việc mệt nhọc, nhưng
bà được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của bà, và đó
là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái. Những người khác giúp đỡ
bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… Năm 1952, thành phố
Calcutta tặng bà một khách sạn nhỏ và cũ, bà dùng làm nhà cho những người hấp
hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi,
các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.
Suốt 40 năm bà làm việc
không biết mệt mỏi chỉ vì người nghèo. Tình yêu của bà không biên giới. Bà đi
khắp thế giới để xin tài trợ và mời người ta đến xem gương mặt của Chúa Giêsu ở
những người nghèo nhất trong nhưng người nghèo. Năm 1979, bà được trao giải
Nobel Hòa bình. Nhưng Thiên Chúa đã gọi bà từ giã thế gian vào ngày 5-9-1997.
06/9 – Chân
phước Claudio Granzotto, Tu sĩ (1900-1947)
Ngài sinh tại Santa Lucia del Piave gần Venice , ngài là con út
trong 9 người con và quen làm việc cực nhọc ngoài đồng. Lúc 9 tuổi, ngài mồ côi cha. 6
năm sau ngài vào quân đội Ý và phục vụ hơn 3 năm.
Ngài có khiếu về điêu
khắc và được học tại Viện Nghệ Thuật Venice, và đậu hạnh nhất năm 1929. Đặc
biệt ngài rất quan tâm nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio vào Dòng Phanxicô năm
1933, linh mục xứ viết: “Nhà dòng không chỉ nhận một nghệ sĩ mà còn nhận một vị
thánh”. Cầu nguyện, bác ái với người nghèo và tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện
cuộc sống của ngài. Ngài bị ung thư não và qua đời vào lễ Mẹ Mông Triệu. Ngài
được phong chân phước năm 1994.
07/9 – Chân
phước Frederick Ozanam (1813-1853)
Ngài phục vụ người nghèo
ở Paris và thu hút những người khác cùng phục vụ người nghèo khắp thế giới. Qua
Hội Thánh Vincent de Paul, công việc của ngài vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.
Frederick là con thứ 5
trong 14 người con của ông bà Jean và Marie Ozanam, và cũng chỉ mình ngài còn
sống. Khi còn là thiếu niên, ngài bắt đầu nghi ngờ tôn giáo. Đọc sách và cầu
nguyện cũng có vẻ không giúp ích cho ngài, nhưng vừa đi dạo vừa thảo luận với
Lm Noirot (Đại học Lyons) giúp ngài sáng tỏ nhiều vấn đề.
Ngài thích văn chương, nhưng cha
ngài là bác sĩ và muốn ngài làm luật sư. Ngài chiều theo ý cha, và năm 1831
ngài đến Paris để học luật tại ĐH Sorbonne. Khi một số giáo sư mỉa mai các giáo
huấn Công giáo trong khi giảng bài, Frederick đã bảo vệ Giáo hội.
Ngài lập một câu lạc bộ
gồm người Công giáo, người vô thần và lạc giáo cùng tranh luận các vấn đề của
thời đó. Có lần sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô giáo trong văn minh,
một thành viên câu lạc bộ nói: “Chúng ta hãy thẳng thắn. Anh làm gì ngoài việc
nói để chứng tỏ đức tin?”. Do đó ngài quyết định thể hiện qua hành động. Không
lâu sau cả nhóm cùng giúp đỡ người nghèo dưới sự bảo trợ của thánh Vincent de
Paul. Cảm thấy đức tin Công giáo cần người có tài ăn nói để giải thích các giáo
huấn, ngài thuyết phục Đức TGM Paris mời Lm Lacordaire, nhà giảng thuyết tài
giỏi nhất Pháp quốc thời đó, đến giảng mùa Chay tại Nhà thờ Đức Bà. Điều này đã
trở thành truyền thống tại Paris.
Sau khi có bằng cấp về
luật tại ĐH Sorbonne, ngài dạy luật tại ĐH Lyons. Ngài còn có bằng cấp về văn
chương. Sau khi kết hôn với Amelie Soulacroix ngày 23-6-1841, ngài trở lại
Sorbonne để dạy văn chương. Ngài là một giảng viên uy tín, luôn vì lợi ích của
sinh viên. Trong khi đó, Hội Thánh Vincent de Paul phát triển khắp Âu châu. Chỉ
tại Paris đã có tới 25 hội.
Năm 1846, ngài cùng vợ và
con gái Marie tới Ý để chữa bệnh. Họ trở về quê năm 1847. Cuộc cách mạng năm
1848 khiến nhiều người nghèo không được Hội Thánh Vincent de Paul phục vụ. Số
người thất nghiệp lên tới 275.000 người. Chính phủ yêu cầu ngài và các cộng sự
giám sát tài trở của chính phủ dành cho người nghèo.
Ngài thành lập báo The
New Era (Tân Kỷ Nguyên), chuyên về bảo toàn công lý cho người nghèo và giới lao
động. Các bạn Công giáo của ngài thường không vui với những gì ngài viết vì
ngài gọi người nghèo là “linh mục của quốc gia”, ngài nói rằng người
đói khát và mồ hôi của người nghèo đã làm nên sự hy sinh có thể cứu lòng nhân
đạo của một dân tộc.
Năm 1852, sức khỏe yếu
kém khiến ngài phải về Ý với vợ và con gái. Ngài qua đời ngày 8-9-1853. Trong
bài giảng tại lễ an táng ngài, Lm Lacordaire đã diễn tả: “Ông Frederick Ozanam
là một trong những người được đặc ân trực tiếp từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã kết
hợp nơi ngài sự dịu dàng tới thiên tài để thắp sáng thế giới”. Vì ngài viết một
cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Các Thi sĩ Dòng Phanxicô của Thế kỷ XIII”
(Franciscan Poets of the Thirteenth Century) và vì sự xứng đáng của ngài dành
cho mỗi người nghèo nên ngài rất gần gũi với cách suy nghĩ của thánh Phanxicô,
rất xứng đáng kể ngài vào những người vĩ đại của Dòng Phanxicô. Ngài được phong
chân phước năm 1997.
08/9 – Sinh
nhật Đức Mẹ
Giáo hội mừng sinh nhật
Đức Mẹ ít nhất từ thế kỷ VI. Được chọn vào tháng 9 vì Giáo hội Đông phương bắt
đầu Năm Giáo hội từ tháng 9. Ngày 8-9 giúp xác định lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vào ngày
8-12 (9 tháng trước).
Kinh thánh không nói tới
sinh nhật Đức Mẹ. Tuy nhiên, ngụy kinh Protoevangelium của Giacôbê khỏa lấp
khoảng trống này. Tác phẩm này không có giá trị lịch sử, nhưng phản ánh sự phát
triển của lòng sùng mộ của Kitô giáo. Theo cách mô tả này, bà Anna và Gioakim
son sẻ và cầu xin có con. Họ nhận được lời hứa là sẽ có con làm lợi cho kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Câu chuyện như vậy (cũng như các truyện khác trong
Kinh thánh) nhấn mạnh sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời Đức
Mẹ ngay từ đầu.
Thánh Augustinô liên kết sinh nhật Đức Mẹ với việc cứu độ
của Chúa Giêsu: “Mẹ là đóa hoa trong cánh đồng mà từ đó nở đóa huệ quý giá
trong thung lũng. Nhờ mẹ sinh ra, bản chất thừa kế từ cha mẹ đầu tiên được biến
đổi”. Lời nguyện nhập lễ nói về việc sinh ra Con của Mẹ là bình minh của công
cuộc cứu độ và xin gia tăng hòa bình.
09/9 – Thánh
Phêrô Claver, Linh mục (1581-1654)
Ngài là người Tây Ban
Nha, vào Dòng Tên năm 1610 và truyền giáo ở thuộc địa của Tân Thế Giới. Ngài đi
Cartagena (nay là Colombia) và thụ phong linh mục năm 1615.
Thời đó, việc buôn bán nô
lệ đã xảy ra ở người Mỹ gần 100 năm, Cartagena là trung tâm của nạn này. 10.000
nô lệ bị đưa vào cảng mỗi năm sau khi vượt Đại tây dương từ Tây Phi trong điều
kiện khắc nghiệt và dã man, ước tính có tới 1/3 số nô lệ bị chết trong khi vận
chuyển. Dù nạn buôn bán nô lệ đã bị ĐGH Phaolô III lên án, và sau đó bị ĐGH Piô
IX gọi là “cực kỳ côn đồ” (supreme villainy), tệ nạn này vẫn phát triển.
Tiền bối của thánh Peter
Claver là Lm Alfonso de Sandoval đã dấn thân phục vụ người nô lệ suốt 40 năm
trước khi thánh Claver đến tiếp tục công việc, và ngài tự nhận mình là
nô lệ của người da đen mãi mãi.
Ngay khi tàu chở nô lệ
cặp bến, ngài lẻn vào để giúp đỡ những người bị xử tệ. Sau khi các nô lệ phải
sắp hàng như thú vật, ngài len vào giữa họ để giúp đỡ bằng thuốc men, đồ ăn,
thức uống, chanh và thuốc hút. Suốt 40 năm làm như vậy, ngài đã rửa tội cho
khoảng 300.000 nô lệ.
Ngoài ra, ngài còn rao
giảng ở các công viên, giao sứ vụ cho các thủy thủ và thương gia để giúp các nô
lệ. Sau 4 năm bị bệnh, ngài qua đời ngày 8-9-1654. Chính quyền địa phương cảm
kích, ra lệnh tổ chức táng lễ trang trọng và an táng ngài ở nơi công cộng.
Ngài được phong thánh năm
1888, và ĐGH Lêô XIII tuyên bố ngài là thánh bổn mạng của các nhà truyền giáo
làm việc giữa những người da đen.
10/9 –
Thánh Thomas Villanova, Giám mục (1488-1555)
Ngài sinh tại Castile , Tây Ban Nha, học ĐH Alcala
và là giáo sư triết học nổi tiếng tại đây.
Ngài vào Dòng Augustinô ở Salamanca , được thụ phong linh mục dù kém trí
nhớ, rồi lại được bầu làm bề trên và giám tỉnh. Ngài được hoàng đế chọn làm
giám mục giáo phận Granada ,
nhưng ngài từ chối. Khi tòa giám mục trống ngôi, ngài đành phải chấp nhận. Tiền
bạc ngài được hưởng theo luật thì ngài trao hết cho bệnh viện, vì ngài giải
thích: “Thiên Chúa sẽ được phục vụ tốt hơn bằng tiền cho những người nghèo ở
bệnh viện”.
Ngài vẫn dùng áo dòng từ khi vào nhà tập và tự may vá
quần áo. Mỗi ngày có hàng trăm người nghèo đến với ngài và được ngài cho ăn
uống và tiền bạc. Những người giàu noi gương ngài sống yêu thương và bác ái
hơn.
Bị phê bình vì ngài không khắt khe khi sửa lỗi người
khác, ngài nói: “Hãy bảo người đó (người chê trách) hỏi xem thánh Augustinô và
thánh Gioan Chrysostom có nguyền rủa và phạt vạ người có lỗi hay không”.
Khi hấp hối, ngài bảo đem hất tiền bạc của ngài cho
người nghèo, còn đồ dùng của ngài đem cho thầy hiệu trưởng của ngài. Ngài trút
hơi thở cuối cùng sau khi dự thánh lễ và rước lễ, khi đó ngài nói: “Lạy Chúa,
con phó thác linh hồn con trong tay Chúa”. Ngài được mệnh danh là “người làm
việc bác ái” và là “cha của người nghèo”. Ngài được phong thánh năm 1658.
11/9 – Thánh Cyprianô, Giám mục
(qua đời năm 258)
Cyprianô là người quan trọng trong việc phát triển và
thực hành tư tưởng Kitô giáo, nhất là tại Bắc Phi.
Ngài học cao hiểu rộng, có tài hùng biện, gia nhập
Kitô giáo khi đã trưởng thành. Ngài phân phát của cải cho người nghèo, làm mọi
người ngạc nhiên bằng cách khấn sống khiết tịnh trước khi lãnh nhận bí tích
Thánh Tẩy. Trong vòng 2 năm, ngài được thụ phong linh mục và được chọn làm giám
mục giáo phận Carthage (gần Tunis ngày nay), dù ngài không muốn.
Ngài than phiền rằng sự bình an của Giáo hội đã làm
suy yếu tinh thần của nhiều Kitô hữu và đã khiến cho các tân tòng không có niềm
tin thực sự. Khi cuộc bách hại bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng bỏ Giáo hội.
Điều đó tạo ra những cuộc tranh luận lớn hồi thế kỷ III, giúp Giáo hội hiểu về
bí tích Hòa giải. Novatus, một linh mục phản đối việc bầu chọn giám mục
Cyprianô, đã nổi dậy khi vắng mặt ĐGM Cyprianô (ngài ẩn mặt để điều hành Giáo
hội – khiến người ta phê bình ngài) và nhận lại những người bội giáo mà không
bắt đền tội theo giáo luật. Cuối cùng ngài bị kết án. Ngài giải quyết dung hòa,
những người đã hy sinh cho các thần tượng chỉ được rước lễ khi hấp hối, nhưng
những người chỉ có giấy chứng nhận cho biết đã hy sinh thì có thể được chấp
nhận sau khi đền tội.
Trong đại dịch ở Carthage ,
ngài thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ người khác, kể cả kẻ thù và những người
bách hại. Là bạn của ĐGH Corneliô, thánh Cyprianô phản đối ĐGH kế vị là
Stêphanô. Ngài và các giám mục Phi châu không nhận tính hiệu quả của Phép Rửa
những người theo tà thuyết và ly giáo. Đây không là quan điểm chung của Giáo
hội, nhưng thánh Cyprianô không bị ĐGH Stêphanô đe dọa dứt phép thông công.
Ngài bị hoàng đế bắt đi đày và rồi bị gọi về để xét
xử. Ngài vừa tử tế vừa can đảm, nhiệt thành và kiên định. Ngài vui vẻ mà nghiêm
nghị đến nỗi người ta không biết nên yêu mến hay kính trọng ngài hơn. Ngài hăng
hái khi tranh luận về bí tích Thánh Tẩy. Thánh Augustinô nhận xét rằng ĐGM
Cyprianô dàn xép cơn giận bằng sự tử đạo vinh quang của ngài.
12/9 – Thánh Danh Đức Mẹ
Lễ này là counterpart với lễ kính Thánh Danh Chúa
Giêsu (3 tháng 1); cả hai lễ have the possibility of uniting people easily
divided on other matters.
Lễ này bắt đầu ở Tây Ban Nha năm 1513, và năm 1671 lan
ra khắp Tây Ban Nha và Vương quốc Naples. Năm 1683, vua Ba Lan là John Sobieski
đem quân tới ngoại ô thành phố Vienna để ngăn
chặn quân Hồi giáo trung thành với Mohammed IV ở Constantinople .
Sau khi Sobieski tin vào Đức Mẹ, ông và các binh sĩ đã
chiến thắng quân Hồi giáo. ĐGH Innocent XI mở rộng lễ này tới toàn thể Giáo
hội.
13/9 – Thánh Gioan Chrysostom, Giám
mục Tiến sĩ (qua đời năm 407)
Thánh Gioan Chrysostom còn được gọi là Gioan Kim khẩu
hoặc Kim ngôn – nghĩa là “có tài ăn nói”, theo ý nghĩa từ Chrysostom. Ngài được
đưa đến Constantinople sau 12 năm thi hành sứ vụ linh mục tại Syria, ngài thấy
mình là nạn nhân đối với thủ đoạn của đế quốc khi chọn ngài làm giám mục của
một thành phố lớn nhất đế quốc. Ngài sống khổ hạnh, giản dị nhưng có phẩm cách,
và bị đau bao tử từ khi là tu sĩ, ngài bắt đầu sứ vụ giám mục dưới sự bảo vệ
của chính trị đế quốc.
Cơ thể ngài yếu, nhưng miệng lưỡi ngài mạnh. Những bài
giảng, những bài chú giải Kinh thánh của ngài không bao giờ thiếu điểm nổi bật.
Đôi khi điểm nhấn đó “chạm” vào những người quyền cao chức trọng. Có những lúc
ngài giảng tới 2 giờ. Cách sống của ngài không được các cận thần hoàng đế ưa
thích. Ngài phàn nàn với ban ngoại giao triều đình đã ưu tiên ngài trước mặt
các quan chức cao cấp.
Ngài phản đối các giám mục bất xứng ở Tiểu Á là những
người tham lam, lạm dụng giáo quyền. Hai nhân vật quan trọng làm mất uy tín
ngài là TGM Theophilus, TGP Alexandria, và nữ hoàng Eudoxia. TGM Theophilus kết
án thánh Gioan Chrysostom là ấp ủ tà thuyết, đồng thời chọc giận các giám mục
được nữ hoàng Eudoxia đỡ đầu. Nữ hoàng bực tức vì các bài giảng của ngài tương
phản với Phúc âm và triều đình. Dù muốn hay không, các bài giảng của ngài nói
tới Jezebel và Herodias bất kính đã cấu kết với nữ hoàng. Chính nữ hoàng đã bắt
ngài đi đày, và ngài qua đời năm 407 khi đang bị lưu đày.
14/9 – Suy tôn Thánh giá
Đầu thế kỷ IV, thánh Helena, mẫu hậu của hoàng đế La
Mã Constantine, đi Giêrusalem nơi Chúa Giêsu đã sinh sống. Bà phá tan Đền
Aphrodite, theo truyền thuyết đền này được xây dựng ngay trên mộ Chúa Giêsu, và
con trai bà xây Đền Mộ Thánh (Holy Sepulcher) trên ngôi mộ đó. Trong khi khai
quật, các công nhân phát hiện 3 cây thập tự. Người ta cho rằng trong số đó có
một cây thập tự đã treo Chúa Giêsu vì một phụ nữ hấp hối đã được sống nhờ chạm
vào cây thập tự đó.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, Thập giá này
được đưa ra đặt trên bàn cùng với bảng ghi của Philatô.
Ngày nay, Giáo hội Đông phương, Công giáo và
Chính thống giáo đều cử hành lễ Suy tôn Thánh giá vào tháng 9. Lễ này thêm vào
lịch Tây phương từ thế kỷ VII sau khi hoàng đế Heraclius lấy lại Thánh giá từ
người Ba Tư, họ đã lấy đi từ năm 614. Theo chuyện kể, hoàng đế muốn đưa Thánh
giá trở lại Giêrusalem, nhưng không thể chuyển đi được, đến khi hoàng đế cởi bỏ
long bào và đi chân không mới có thể di chuyển Thánh giá.
15/9 – Đức Mẹ Sầu bi (Đức Mẹ bảy
sự)
Kinh thánh nói đến những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ trong
Lc 2:35 và Ga 19:26-27. Đoạn Kinh thánh theo thánh Luca là lời tiên tri của ông
Simeon về một lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ Maria, còn đoạn Kinh thánh theo thánh
Gioan liên quan lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ và với người môn đệ được Chúa
yêu.
Nhiều tác giả của Giáo hội thời sơ khai hiểu lưỡi gươm
là những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ, nhất là khi Đức Mẹ chứng kiến Chúa Giêsu chết
trên Thập giá. Như vậy, cả 2 đoạn Kinh thánh đều chuyển tải lời tiên báo và sự
hoàn tất.
Thánh Ambrôsiô coi Đức Mẹ là nỗi sầu khổ nhưng là
người mạnh mẽ khi đứng bên Thánh giá. Đức Mẹ đứng bên Thánh giá mà không hề sợ
sệt, trong khi những người khác chạy trốn. Đức Mẹ nhìn những vết thương của Con
với lòng yêu thương, nhưng Đức Mẹ thấy trong các vết thương đó có Ơn Cứu Độ
dành cho thế giới. Khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, Đức Mẹ không sợ bị
sát hại mà dám hiến mình cho những kẻ hành hạ mình. Đức Mẹ là một phụ nữ quá
đỗi quả cảm!
16/9 – Thánh Corneliô, Giáo hoàng
Tử đạo, và Cyprianô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 253)
Trống ngôi giáo hoàng 14 tháng sau khi thánh Fabianô
tử đạo vì Giáo hội bị bách hại dữ dội. Trong thời gian đó, Giáo hội được một số
linh mục điều hành. Thánh Cyprianô, bạn của thánh Corneliô, viết rằng Corneliô
được bầu làm giáo hoàng “bởi phán quyết của Thiên Chúa và của Đức Kitô, bởi
chứng thực của đa số giáo sĩ, bởi mọi người, với sự đồng thuận của các linh mục
cao niên và các giáo dân tốt lành.
Vấn đề lớn nhất trong 2 năm làm giáo hoàng của
Corneliô là phải xứ lý về bí tích Hòa giải và tập trung vào việc tái thu nhận
các Kitô hữu đã bội giáo trong thời gian bị bách hại. Thánh Cyprianô, giám mục
của Phi châu, kêu gọi giáo hoàng xác nhận vị thế của mình mà những người trở
lại chỉ được hòa giải bằng quyết định của giám mục (ngược lại cách khoan dung
của Novatus).
Tuy nhiên, tại Rôma, thánh Corneliô có cách nhìn khác.
Sau khi ngài được chọn làm giáo hoàng, một linh mục tên là Novatian (một trong
những người cai điều hành Giáo hội lúc đó) đã tự phong cho mình làm giám mục
của Rôma – đây là ngụy giáo hoàng đầu tiên. Ngụy giáo hoàng này phủ nhận Giáo
hội có quyền hòa giải không chỉ với những người bội giáo đã trở lại, mà cả
những người phạm tội giết người, tà dâm, thông dâm hoặc vợ nọ con kia! Thánh
Corneliô đã nâng đỡ Giáo hội (nhất là Cyprianô của Phi châu) trong việc kết án
tà thuyết Novatian, dù tà thuyết này hiện hữu suốt vài thế kỷ. Thánh Corneliô
triệu tập một công nghị tại Rôma năm 251 và cho phép những người bội giáo đã
trở lại được gia nhập Giáo hội qua bí tích Hòa giải.
Tình bạn giữa thánh Corneliô và thánh Cyprianô bị căng
thẳng một thời gian khi một trong số đối thủ của thánh Cyprianô kết án ngài.
Nhưng mọi chuyện được giãi bày. Một tài liệu của thánh Corneliô cho thấy mức
quy mô tổ chức trong Giáo hội La Mã hồi giữa thế kỷ III: 46 linh mục, 7 phó tế,
7 phụ phó tế. Số Kitô hữu ước tính khoảng 50.000 người. Thánh Corneliô qua đời
vì cực khổ trong thời gian bị đi đày ở nơi mà nay là Civitavecchia (gần Rôma).
17/9 – Thánh Robert Bellarmine, Giám mục Tiến sĩ
(1542-1621)
Ngài thụ phong linh mục năm 1570, nghiên cứu lịch sử
Giáo hội và các Giáo phụ ở trong tình trạng thờ ơ. Là một học giả có triển vọng
từ hồi còn trẻ ở Tuscany, ngài chuyên tâm vào 2 vấn đề, kể cả Kinh thánh, để hệ
thống hóa giáo lý chống lại sự tấn công của các nhà cải cách Tin Lành. Ngài là
tu sĩ Dòng Tên đầu tiên trở thành giáo sư ở Louvain .
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là 3 cuốn Bàn luận về
các cuộc tranh cãi Đức tin Kitô giáo (Disputations on the Controversies of the
Christian faith). Ngài phát triển lý thuyết về quyền gián tiếp của giáo hoàng
trong các việc tạm thời; mặc dù ngài bảo vệ ĐGH khỏi triết gia Barclay người Scotland , ngài
cũng chịu đựng cơn giận của ĐGH Sixtô V.
Ngài được ĐGH Clementô VIII tấn phong hồng y. Khi bận
việc ở Tòa thánh, ngài vẫn giữ thói quen sống khổ hạnh. Ngài chi tiêu ít, chỉ
ăn những đồ ăn dành cho người nghèo. Ngài là thần học gia của ĐGH Clementô
VIII, soạn bộ giáo lý ảnh hưởng nhiều tới Giáo hội.
Cuộc tranh luận lớn về cuộc đời ngài xảy ra năm 1616
khi ngài phải khiển trách bạn mình là Galilê, dù ngài khâm phục. Ngài khiển
trách nhân danh Giáo hội về thuyết nhật tâm (heliocentric theory, lấy mặt trời
làm tâm điểm) của Copernicus là ngược với Kinh thánh. Đó là một ví dụ cho thấy các
thánh không phải không sai lầm.
Ngài qua đời ngày 17-9-1621. Tiến trình phong thánh
cho ngài bắt đầu từ năm 1627, nhưng trì hoãn vì lý do chính trị, xuất phát từ
những gì ngài viết, cho tới năm 1930. Năm 1931, ĐGH Piô XI tôn phong ngài là
Tiến sĩ Giáo hội.
18/9 – Thánh Giuse Cupertino, Linh mục
(1603-1663)
Ngài nôi tiếng về xuất thần khi cầu nguyện. Hồi nhỏ,
ngài rất thích cầu nguyện.
Sau một thời gian làm việc với các tu sĩ Dòng
Phanxicô, ngài xin vào dòng và được học làm linh mục. Dù học hành khó khăn đối
với ngài, nhưng ngài vẫn hiểu biết nhờ cầu nguyện. Ngài thụ phong linh mục năm
1628.
Xuất thần của ngài trong lúc cầu nguyện tđôi khi là
cây Thánh giá; một số người đến cũng nhìn thấy. Ngài sống khiêm nhường, kiên
nhẫn và vâng lời, đôi khi ngài cũng bị cám dỗ và cảm thấy bị Chúa bỏ rơi. Ngài
thường ăn chay và đeo xiềng xích để đền tội.
Khi điều tra phong thánh cho ngài, có 70 lần xuất thần
được ghi nhận. Ngài được phong thánh năm 1767.
19/9 – Thánh Gianuariô, Giám mục Tử
đạo (qua đời năm 305?)
Không biết gì về cuộc đời thánh Gianuariô. Chỉ biết
ngài tử đạo năm 305 trong cuộc bách hại đạo của hoàng đế Diocletianus (*).
Truyền thuyết kể rằng sau khi thánh Gianuariô bị ném vào hầm gấu ở đấu trường Pozzuoli , ngài bị chém đầu, và máu ngài được đưa về Naples .
------------------------------
(*)Hoàng đế La mã Gaius Aurelius Valerius Diocletianus
(284-305), muốn phục hồi tôn giáo cũ của Rôma nên dẫn đến việc bách hại đạo từ
năm 303.
19/9 – Thánh Gioan Henry Newman,
Hồng y (1801-1890)
Ngài là một trong những người trí thức Công giáo của
thế kỷ XIX. Ngài sinh tại London .
Việc tìm kiếm tâm linh của ngài bắt đầu từ tuổi thanh xuân, sau đó ngài học
thần học tại ĐH Oxford .
Rồi ngài trở thành mục sư Anh giáo (Anglican pastor), bạn của Oriel College, và
là trưởng Phong trào Oxford nghiên cứu nguồn gốc đức tin Công giáo ở Anh quốc.
Năm 1842, khi viết “Essay on the Development of Christian Doctrine” (Tiểu luận
về việc Phát triển Giáo lý Kitô giáo), ngài “vỡ lẽ” và quyết định gia nhập Công
giáo. Ngài được nhận vào Công giáo năm 1845 và thụ phong linh mục tại Rôma ngày
1-6-1847.
Sau đó, được ĐGH Piô IX khuyến khích, ngài thành lập
Nguyện đường Thánh Philip Neri ở Anh quốc. Năm 1852, ngài được bổ nhiệm làm
uyên úy ĐH Công giáo Dublin ở Ireland , và ngài giữ chức vụ này
tới năm 1854. ĐGH Leo XIII tấn phong ngài làm hồng y năm 1879. Ngài qua đời năm
1890 tại Nguyện đường ở Edgbaston. Án phong chân phước cho ngài bắt đầu từ năm
1958. Sự can thiệp kỳ lạ của ngài là chữa lành bệnh đau cột sống cho Jack
Sullivan, và ngài được ĐGH Bênêđictô XVI tôn phong chân phước cho ngài vào
tháng 7-2009 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-9-2010.
20/9 – Anrê Kim Taegon, Linh mục,
và Phaolô Chong Hasang cùng các bạn Tử đạo (1821-1846)
Anrê Kim Taegon la linh mục người Hàn quốc đầu tiên,
cha mẹ ngài là tân tòng. Cha ngài là Ignatius Kim, tử đạo trong thời bắt đạo
năm 1839 và được phong chân phước năm 1925. Sau khi được rửa tội lúc 15 tuổi,
ngài vượt đường xa 1.300 dặm tới một chủng viện ở Macao, Trung quốc. Sau 6 năm
học tập, ngài trở lại quê hương qua đường Manchuria .
Cùng năm đó ngài vượt Hoàng giang tới Thượng Hải và được thụ phong linh mục.
Trở lại quê hương, ngài được sai đi truyền giáo. Ngài bị bắt, bị hành hạ, và
cuối cùng bị chém đầu ở sông Han, gần Seoul .
Paul Chong Hasang là
chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô giáo đến Hàn quốc
trong cuộc viễn chinh của quân Nhật năm 1592, khi một số người Hàn quốc được
rửa tội, có thể do các binh sĩ Nhật theo Kitô giáo. Truyền bá Phúc âm rất khó
vì Hàn quốc không chịu ký kết với thế giới bên ngoài, trừ việc hàng năm tới Bắc
Kinh để nộp thuế. Khoảng năm 1777, văn chương Kitô giáo có được nhờ các tu sĩ
Dòng Tên ở Trung quốc đã giúp người Hàn quốc tiếp cận với Công giáo. 12 năm
sau, khi một linh mục Trung quốc lén vào được, ngài thấy có 4.000 người Công
giáo, chưa bao giờ thấy linh mục nào. 7 năm sau có 10.000 người Công giáo. Tôn
giáo được tự do năm 1883.
Khi chân phước GH Gioan
Phaolô II thăm Hàn quốc năm 1984, ngài đã phong thánh cho Anrê Kim Taegon,
Phaolô Chong Hasang, cùng với 98 người Hàn quốc và 3 nhà truyền giáo người Pháp
đã tử đạo trong thời gian từ 1839 tới 1867. Trong số đó có những giám mục và
linh mục, nhưng đa số là giáo dân: 47 nam và 45 nữ.
Trong các vị tử đạo năm
1839 có Columba Kim, một cô gái 26 tuổi chưa kết hôn. Chị bị tù, bị chọc vào
người bằng những thanh sắt nóng và đóng dấu bằng than hồng. Columba và người
chị em là Agnes bị lột trần và bị nhốt trong xà lim 2 ngày trong với các phạm
nhân người khác, nhưng không bị làm nhục. Sau khi Columba than phiền về sự nhục
nhã, không phụ nữ nào khác bị lột trần nữa. Hai chị em bị chém đầu. Một cậu bé
13 tuổi là Peter Ryou đã lấy phần da thịt nát của mình ném vào những người xét
xử. Cậu bé chết bằng vì bị bóp cổ chết. Protase Chong, một nhà quý tộc 41 tuổi,
đã bỏ đạo sau khi bị hành hạ và được thả. Sau đó ông trở lại, tuyên xưng đức
tin và bị hành hạ tới chết.
21/9 – Thánh Matthêu, Tông đồ Thánh
sử
Thánh Matthêu là người Do
Thái, làm việc cho quân đội La Mã với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái.
Dù người Do Thái không cho phép lấy thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là
hầu bao riêng. Họ không để ý những nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó
dân thu thuế bị người Do Thái ghét như những kẻ phản bội. Người Pharisêu (Biệt
phái) bị gán vào phường tội lỗi. Nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người
như thế làm môn đệ.
Chính nhân viên thu thuế
Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy
rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc”:
“Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”.
Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới
cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu
cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý coi thường nghi lễ và việc
thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương người khác là điều quan trọng
hơn.
22/9 – Thánh Lawrence Ruiz và các
bạn Tử đạo (1600?-1637)
Lawrence (Lorenzo) sinh
tại Manila, cha là người Trung quốc và mẹ là người Philippine. Ngài học tiếng
Trung quốc và tiếng Tagalog từ cha mẹ, học tiếng Tây Ban Nha từ các tu sĩ Dòng
Đa Minh, giúp lễ và lo việc phòng thánh cho các lm Dòng Đa Minh. Ngài viết chữ
đẹp, chép các tài liệu theo nghệ thuật thư pháp, và thành viên của Hội Mân Côi.
Ngài kết hôn, có 2 con trai và 1 con gái.
Cuộc đời ngìa rẽ sang
bước ngoặt khi ngài bị kết tội sát nhân. KKhông biết gì thêm về ngài ngoài câu
nói của 2 tu sĩ Đa Minh: “Ngài bị chính quyền tìm bắt vì tội sát nhân”.
Lúc đó, 3 linh mục Dòng
Đa Minh là Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza sắp đi
Nhật mặc dù ở Nhật đang bị bách hại dữ dội. Họ lên đường cùng LM Vicente
Shiwozuka de la Cruz, người Nhật, và Lazaro, một giáo dân bị phong cùi. Thánh
Lawrence đang ẩn náu và được phép đi với họ. Nhưng khi tàu đã nhổ neo thì ngài
mới biết họ đi Nhật.
Tàu cặp bến Okinawa.
Thánh Lawrence tời Formosa, ngài nói: “Tôi quyết định ở với các cha, vì nếu
không thì người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi ở đó”. Tại Nhật, họ sớm bị phát
hiện, bị bắt và bị đưa tới Nagasaki. Đây là nơi đẫm máu khi bom nguyên tử đã
tạo nên thảm họa trước đó. Khoảng 50.000 Công giáo đã từng sống ở đó đã bị bách
hại hoặc tản mác.
Họ chịu đủ loại nhục
hình: Sau khi bị đổ nước đầy bụng, họ bị bắt nằm xuống, rồi người ta lấy tấm
ván dài đặt lên bụng, bọn lính cùng nhau đứng lên tấm ván để đạp cho nước phụt
ra từ miệng, mũi và tai các tử tù. LM Antonio qua đời sau vài ngày. Linh mục
người Nhật và Lazaro bị đâm các ngón tay bằng tre nhọn, nhưng ai cũng can đảm
chịu đựng. Khi mọi người đều chết, thấy 3 linh mục Đa Minh vẫn sống nên bị họ
chém đầu.
Chân phước GH Gioan
Phaolô II phong thánh cho 6 vị này và 10 vị khác là người Á châu và Âu châu, cả
nam và nữ, những người đã rao giảng đức tin ở Philippines, Formosa và Nhật.
Lawrence Ruiz là vị tử đạo đầu tiên của Philippines được phong thánh.
23/9 – Thánh Padre Piô, Linh mục
(1887-1968)
Ngày 16-6-2001, chân
phước GH Gioan Phaolô II đã phong thánh cho LM Padre Piô, linh mục Dòng
Phanxicô, người xứ Pietrelcina. Đây là lễ phong thánh thứ 45 trong triều đại
giáo hoàng của ĐGH Gioan Phaolô II. Hơn 300.000 người quy tụ đầy Quảng trường
Thánh Phêrô và những con đường gần đó. Ngài nói: “Đây là sự tổng hợp cụ thể
nhất về giáo huấn của linh mục Padre Piô”. Ngài nhấn mạnh việc làm chứng
của linh mục Padre Piô là chịu đau khổ.
Năm 1962, khi còn là tổng
giám mục ở Ba Lan, ĐGH Gioan Phaolô II đã viết thư cho linh mục Padre Piô để
xin cầu nguyện cho một phụ nữ Ba Lan bị ung thư họng. Trong vòng 2 tuần, phụ nữ
này đã hết bệnh.
Ngài sinh ngày 25-5-1887,
tên “cúng cơm” của ngài là Francesco Forgione, sống trong một gia đình nông dân
ở Nam Ý. Cha ngài Grazio làm việc ở Jamaica, New York 2 lần (1898-1903 và
1910-1917) để kiếm tiền nuôi gia đình.
Lúc 15 tuổi, ngài vào
Dòng Phanxicô và lấy tên dòng là Padre Piô. Ngài thụ phong linh mục ngày
10-8-1910, lúc 22 tuổi. Sau khi được phát hiện bị bệnh lao phổi, ngài đã thổ
huyết. Năm 1917, ngài chuyển tới nhà dòng ở San Giovanni Rotondo, cách Bari 75
dặm.
Ngày 20-9-1918, sau khi
rước lễ và cầu nguyện trước Thánh Giá, ngài được thị kiến Chúa Giêsu. Sau khi
hết thị kiến, ngài được ghi 5 dấu trên 2 tay, 2 chân và cạnh sườn (thường gọi
là Cha Piô 5 dấu). Năm 1956, ngài thành lập Nhà Khuây khỏa Đau khổ (House for
the Relief of Suffering), bệnh viện này phục vụ 60.000 bệnh nhân mỗi năm.
Từ đó, cuộc sống ngài trở
nên phức tạp hơn. Các bác sĩ, giáo quyền và những người tò mò đến để chứng kiến
“hai năm rõ mười” về Cha Padre Piô. Năm 1924 và năm 1931, chuyện 5 dấu của ngài
được chất vấn. Ngài không được phép làm lễ công khai hoặc giải tội. Ngài không
than viền gì về chuyện này, nhưng không lâu sau ngài hết bị cấm. Tuy nhiên,
ngài không viết lá thư nào từ sau năm 1924. Tài liệu viết khác duy nhất của
ngài là một cuốn sách mỏng viết về cơn hấp hối của Chúa Giêsu, nhưng được viết
trước năm 1924.
Ngài hiếm khi ra khỏi nhà
dòng từ khi ngài được in 5 dấu, Nhưng nhiều người vẫn tìm đến. Mỗi buổi sáng từ
5 giờ, nhà thờ chật người dự lễ, rồi ngài giải tội cho tới trưa. Ngài nghỉ lúc
nửa buổi sáng để chúc lành cho các bệnh nhân và những người đến gặp ngài. Trưa
nào ngài cũng vẫn giải tội. Trung bình mỗi ngày ngài giải tội 10 giờ, người đến
xưng tội phải lấy số trước.
Ngài thấy Chúa Giêsu
trong các bệnh nhân và người đau khổ. Theo ngài thúc giục, một bệnh viện được
xây ở gần Mount Gargano. Năm 1940 một ủy ban được thành lập để thu tiền. Năm
1946 bệnh viện hư hỏng, rồi được xây lại với tên “Nhà Xoa Dịu Đau Khổ” (House
for the Alleviation of Suffering) với 350 giường.
Cũng như tổ phụ dòng là
thánh Phanxicô, LM Padre Piô đôi khi cũng bị người ta xé áo làm kỷ niệm. Một
trong những đau khổ của ngài là những người vô ý tứ đã truyền miệng những lời
tiên tri cho là của ngài. Thật ra ngài không bao giờ nói tiên tri về các sự
kiện thế giới và không hề có ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc giáo
quyền. Ngài qua đời ngày 23-9-1968, lúc 81 tuổi, và được phong chân phước năm
1999.
24/9 – Thánh Pacifico San Severino,
Linh mục (1653-1721)
Ngài sinh trong một gia đình khá giả ở San Severino,
thuộc Ancona ở
Trung Ý. Ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục. Ngài dạy triết học 2 năm
rồi đi giảng đạo. Ngài sống khổ hạnh, ăn chay trường, chỉ ăn chút bánh mì, súp
hoặc uống nước. “Áo lông” ngài mặc làm bằng những sợi sắt. Ngài nổi bật về đức
khó nghèo và vâng lời.
Lúc 35 tuổi, ngài bị bệnh khiến ngài bị điếc, mù và đi
khập khiễng. Ngài dâng mọi đau khổ của mình để cầu cho các tội nhân biết sám
hối. Ngài chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài. Ngài được bầu làm bề trên nhà
dòng ở San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.
25/9 – Thánh Elzear (1286-1323) và
Chân phước Delphina (1283-1358)
Ông Elzear sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở
Nam Pháp. Sau khi ông kết hôn với bà Delphina, bà cho ông biết rằng bà đã khấn
giữ đồng trinh trọn đời, và ngay đêm tân hôn ông cũng khấn hứa như vậy. Ông
Elzear là Bá tước vùng Ariano, đã từng tư vấn cho Công tước Charles vùng
Calabria ở Nam Ý. Bằng công lý, ông Elzear đã cai trị lãnh địa của mình ở vương
quốc Naples và ở Nam Pháp.
Ông Elzear và bà Delphina cùng vào Dòng Ba Phanxicô và
dấn thân làm việc từ thiện. Mỗi ngày có 12 người nghèo cùng ăn với họ. Bức
tượng thánh Elzear cho thấy ngài đã chữa nhiều bệnh nhân phong.
Họ cùng điều hành một trại phong. Mọi người tham dự
thánh lễ hàng ngày, xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thức mọi xúc phạm lẫn
nhau. Sau khi ông Elzear qua đời, bà Delphina tiếp tục công việc từ thiện hơn
35 năm. Đặc biệt bà quan tâm nâng mức độ luân lý ở triều đình của vua Sicily .
Thánh Elzear và chân phước Delphina được an táng tại
Apt, Pháp quốc. Ông được phong phong thánh năm 1694, còn bà được phong chân
phước năm 1936.
26/9 – Các thánh Cosmas và Đamianô,
Tử đạo (qua đời năm 303?)
Không ai biết gì nhiều về cuộc đời các ngài ngoài việc
các ngài tử đạo tại Syria
trong thời bách hại của Diocletianô (*).
Lòng sùng kính hai vị thánh này lan rộng nhanh chóng
cả ở Đông phương và Tây phương. Một đền thờ được xây dựng dâng kính các ngài ở Constantinople . Tên các ngài được ghi trong Kinh nguyện Thánh
Thể, có thể từ thế kỷ VI.
Tương truyền các ngài là anh em song sinh ở Ả Rập, đều
là bác sĩ giỏi. Các ngài được sùng kính ở Đông phương với danh xưng la “những
người không tiền” (moneyless ones), vì các ngài không lấy tiền ai khi chữa bệnh
cho người ta. Những người nổi bật như vậy không thể không bị “lưu ý”, thế nên
các ngài đã bị bắt và bị chém đầu.
-------------------------------
(*) Hoàng đế La Mã (284–305), thoái vị năm 305, đã ra
chiếu chỉ bắt đạo trong những năm 303–304.
27/9 – Thánh Vinh Sơn Phaolô, Linh
mục (1580?-1660)
Việc giải tội cho một người hấp hối đã giúp ngài thấy
nhu cầu tâm linh cấp bách của dân quê nước Pháp. Đây có vẻ là khoảnh khắc quan
trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ một nông trại nhỏ ở Gascony , Pháp quốc, và
trở thành linh mục.
Chính nữ bá tước Gondi đã thuyết phục chồng tài trợ
một nhóm các nhà truyền giáo nhiệt thành có thể hoạt động giữa những người
nghèo, các thuộc hạ, tá điền và dân quê nói chung. Thánh Vinh Sơn mới đầu khiêm
nhường không nhận chức lãnh đạo, nhưng sau một thời gian hoạt động ở Paris giữa
những nô lệ bị tù, ngài trở thành người lãnh đạo của nhóm người mà nay là Dòng
Truyền giáo (Congregation of the Mission), còn gọi là Dòng Vinh Sơn
(Vincentians). Các linh mục này – với 4 lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh, Vâng
lời và Kiên định – hoàn toàn dấn thân phục vụ mọi người ở các nơi xa xôi hẻo
lánh.
Sau đó ngài lập Hội Bác Ái (Confraternities of
Charity) để xoa dịu nỗi đau tinh thần và thể lý của người nghèo và người bệnh.
Với sự giúp đỡ của thánh nữ Louise de Marillac, có thêm Dòng Nữ tử Bác ái
(Daughters of Charity), có các phòng bệnh nhân, nhà nguyện là nhà thờ giáo xứ,
hành lang là đường phố. Ngài quy tụ các phụ nữ giàu có ở Paris để gây quỹ cho việc truyền giáo, mở các
bệnh viện, gây quỹ cho các nạn nhân chiến tranh và chuộc hơn 1.200 nô lệ người
Bắc Phi. Ngài nhiệt thành trong việc hướng dẫn tĩnh tâm cho các giáo sĩ nguội
lạnh, lạm dụng và khinh suất. Ngài là người tiên phong trong việc đào tạo giáo
sĩ và thành lập chủng viện.
Đáng nói là ngài là người rất nóng tính (very
irascible person), bạn bè ngài cũng phải công nhận điều đó. Ngài nói rằng nếu
không có ơn Chúa thì ngài gay gắt, lạnh lùng, thô lỗ và bực bội. Nhưng ngài đã
thuần hóa thành dịu dàng và trìu mến, rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác.
ĐGH Leo XIII tôn ngài làm bổn mạng các hội từ thiện. Nổi bật trong số đó là Hội
Vinh Sơn Phaolô (Society of St. Vincent de Paul), được chân phước Frederic
Ozanam thành lập năm 1833.
28/9 – Thánh Venceslaô, Tử đạo (907?-929)
Thánh Venceslaô (Wenceslaus) ủng hộ các giá trị Kitô
giáo ngay giữa các âm mưu chính trị tiêu biểu của Bohemia hồi thế kỷ X.
Ngài sinh gần Prague ,
con của công tước vùng Bohemia .
Người mẹ của ngài là bà Ludmilla đã nuôi dạy ngài và tìm cách nâng ngài lên làm
người lãnh đạo vùng Bohemia
thay cho bà. Bà Ludmilla ủng hộ các phe chống Kitô giáo nhưng cuối cùng bị giết
chết, nhưng lực lượng đấu tranh của Kitô giáo đã chiến thắng, và ngài có thể
lãnh đạo chính phủ.
Cách cai trị của ngài nổi bật bằng các nỗ lực đoàn kết
với Bohemia ,
ủng hộ Giáo hội và thương thuyết hòa bình với Đức quốc. Chính sách của ngài
khiến ngài gặp rắc rối với sự đối lập chống Kitô giáo. Em trai ngài là Boleslav
đã tham gia âm mưu, và tháng 9 năm 929, Boleslav đã mời ngài tời Alt Bunglou
mừng lễ thánh Cosmas và Đamianô. Trên đường đi dự lễ, ngài bị Boleslav tấn
công, và ngài bị giết chết dưới tay những kẻ ủng hộ Boleslav.
Dù vậy, ngài vẫn được coi là tử đạo vì đức tin, mộ
ngài là nơi được nhiều người hành hương kính viếng. Ngài được tôn vinh là thánh
bổn mạng của nhân dân Bohemia và Tiệp Khắc
(nay là Cộng hòa Séc và Slovakia ).
29/9 – Các tổng lãnh thiên thần Michael,
Gabriel and Raphael
Các thiên thần là các sứ giả của Thiên Chúa, thường
xuất hiện trong Kinh thánh, nhưng chỉ có các tổng lãnh thiên thần Michael,
Gabriel và Raphael được nêu danh.
Tổng lãnh thiên thần (TLTT) Michael hiện ra trong thị
kiến của Daniel với dạng “hoàng tử” bảo vệ Israel khỏi quân thù; trong sách
Khải huyền, ngài hướng dẫn quân đội của Chúa chiến thắng ma quỷ. Lòng sùng kính
TLTT Michael có từ lâu đời nhất, xuất hiện ở Đông phương từ thế kỷ IV. Giáo hội
Tây phương bắt đầu mừng lễ kính các TLTT từ thế kỷ V.
TLTT Gabriel cũng hiện ra trong thị kiến của Daniel, thông
báo vai trò của TLTT Michael trong kế hoạch của Thiên Chúa. Lần ngìa hiện ra
được biết nhiều nhất là gặp một thiếu nữ Do Thái tên là Maria, người mang thai
Đấng Thiên Sai.
Hoạt động của TLTT Raphael được thấy trong Cựu ước về
ông Tobit. Ngài hiện ra để hướng dẫn con trai của ông Tobit là Tobia qua một
loạt mạo hiểm dẫn tới kết cuộc hạnh phúc gấp ba: Đám cưới của Tobia với Sarah,
chữa ông Tobit khỏi mù và lấy lại tài sản gia đình.
Lễ nhớ TLTT Gabriel (24-3) và TLTT Raphael (24-10)
được thêm vào lịch La Mã năm 1921. Lịch năm 1970 kết hợp các lễ này thành lễ
kính chung các TLTT hôm nay.
30/9 – Thánh Giêrônimô, Linh mục Tiến sĩ
(345-420)
Thánh Giêrônimô có tính rất xấu là viết gay gắt, nhưng
ngài rất yêu mến Chúa.
Ngài còn hơn một học giả Kinh thánh, dịch hầu hết các
sách Cựu ước từ tiếng Hê-brơ (cổ ngữ Do Thái). Ngài còn viết những bài phê bình
được cảm hứng từ Kinh thánh mà chúng ta có ngày nay. Ngài tư vấn cho tu sĩ,
giám mục và giáo hoàng. Thánh Augustinô nói về ngài: “Những gì thánh Giêrônimô
không biết, không quan trọng”.
Thánh Giêrônimô rất quan trọng đối với bản dịch Kinh
thánh Vulgata (bản phổ thông). Đó không là bản dịch chính thức, nhưng được Giáo
hội chấp nhận. Công đồng Trentô mời gọi bản dịch mới và chỉnh sửa từ bản
Vulgata, và tuyên bố là bản chính thức của Giáo hội.
Để làm được như vậy, thánh Giêrônimô đã chuẩn bị kỹ
lưỡng. Ngài giỏi tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Hê-brơ và tiếng Chaldaic.
Ngài bắt đầu học từ sinh quán của ngài ở Stridon thuộc Dalmatia (trước là Yugoslavia ).
Sau đó ngài học ở Rôma, trung tâm học tập thời đó, và rồi tới Trier , Đức quốc, nơi có nhiều chứng cớ. Mỗi
nơi ngài ở vài năm, luôn cố tìm thầy giỏi nhất.
Sau đó ngài tới
Palestine. Ngài là nhà thần bí (mystic), sống ở sa mạc Chalcis 5 năm để cầu
nguyện, đền tội và học nghiên cứu. Cuối cùng ngài tới Belem, nơi sinh sống của
Chúa Giêsu. Ngày 30-9-420, ngài qua đời tại Belem. Hiện nay hài cốt ngài được
đặt tại Nhà thờ Đức Bà Cả (Basilica of St. Mary Major) ở Rôma. Ngài là bổn mạng
các dịch giả.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com,
AmericanCatholic.org, Catholic.org, CatholicCulture.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét