Ðức Yêsu là Con Chí Ái của Thiên Chúa
(Dn 7,9-10.13-14; 2P 1,16-19; Năm B: Mc 9,1-9)
Suy Niệm:
Câu truyện Chúa Yêsu biến hình đã được phụng vụ nhắc
tới trong ngày Chúa Nhật II mùa Chay để hướng lòng tín hữu về mầu nhiệm Phục
sinh hầu biết đi con đường chay tịnh khổ giá của Người. Hôm nay phụng vụ nhắc
lại câu truyện ấy có lẽ vì ngày 6 tháng 8 kỷ niệm cung hiến Ðền thờ Chúa biến
hình trên núi Tabor. Dù sao đây cũng là câu truyện rất ý nghĩa, có khả năng
nuôi sống và phát triển niềm tin và lòng đạo đức của mọi người. Thế nên, không
những chúng ta phải biết rõ câu truyện ấy trong lịch sử, mà còn phải thấu hiểu
ý nghĩa sâu xa và nhất là phải rút ra mọi ơn ích do mầu nhiệm Chúa Yêsu biến
hình.
A. Câu Truyện Lịch Sử
Cả ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố
này. Sách Tin Mừng Yoan ám chỉ đến trong đoạn kể có một số người Hylạp bấy giờ
muốn được trông thấy Ðức Yêsu (12,20-32). Người liền nói: Giờ đã đến cho Con
Người được tôn vinh. Và lập tức có tiếng từ trời đến: "Ta đã tôn vinh Danh
Ta và Ta sẽ lại tôn vinh". Còn chính thánh Phêrô, một trong ba môn đệ đã được
chứng kiến cảnh biến hình, thì đã kể lại một cách vắn tắt như ta đọc thấy trong
bài thư hôm nay. Riêng các thư Phaolô không bao giờ trực tiếp nói đến câu
truyện này. Nhưng ánh sáng của Chúa Yêsu phủ xuống người trên đường Ðama không
phải là vinh quang của Ðấng đã có lần biến hình sao? Và chắc chắn câu truyện
Chúa biến hình đã giúp Phaolô nhiều lắm khi người nói với các tín hữu về việc
phải đổi mới và biến dạng sang Chúa Yêsu Kitô. Nói tóm lại, việc Chúa Yêsu biến
hình là một biến cố lịch sử trong cuộc đời của Người, đã được nhiều nơi trong
các sách Tân Ước hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp mô tả và gợi lên, để chúng ta
thấy rõ đây là một mầu nhiệm quan trọng.
Vậy biến cố ấy đã xảy ra như thế nào?
Bài Tin Mừng Matthêo bắt đầu bằng những chữ: "6
ngày sau". Và đọc lên chúng ta thấy đó là 6 ngày sau hôm Ðức Yêsu lần đầu
tiên nói cho môn đệ biết Người sẽ bị nộp, bị bắt, bị đánh, bị xử, bị giết,
nhưng sẽ sống lại ngày thứ ba. Lời tuyên bố ấy khiến môn đệ ngỡ ngàng, chẳng
hiểu gì cả và nhất là quả quyết không thể xảy ra. Ðức Yêsu không những khẳng
định lại mà còn tuyên bố thêm: chính các môn đệ và những ai muốn đi theo Người
cũng phải vác thập giá mình mà đi theo.
Thật là một mạc khải lạ lùng làm cho nhiều người suy
nghĩ và có thể bắt đầu buồn phiền. Thấy họ chưa hiểu hết ý của Người vì không
phải Người chỉ nói thập giá mà còng khẳng định sẽ phục sinh. Và thấy họ vì thế
đâm buồn phiền, Ðức Yêsu đã hứa cho họ được xem thấy vinh quang và quyền năng
của Người. Nói đúng hơn, Người chỉ hứa như vậy cho một số người trong bọn họ
thôi. Và thế là 6 ngày sau, ba môn đệ được đưa lên núi để xem thấy vinh quang
của Người trong lúc biến hình.
Chúng ta hãy khoan quả quyết việc biến hình này có ý
thực hiện lời hứa cách đây 6 hôm. Chúng ta chỉ tạm ghi nhận việc ấy xảy ra 6
hôm sau ngày Ðức Kitô tuyên bố lần đầu tiên về cuộc khổ nạn của Người.
Vậy Người đã đưa Phêrô, Yacôbê và Yoan lên núi. Không
biết núi nào. Chỉ biết khi ở trên núi, Người đã biến hình trước mặt các ông.
Mặt Người chói như mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Rồi có Êlya và Môsê
hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ Phêrô lên tiếng xin làm ba lều. Nhưng có
tiếng từ một đám mây sáng vừa đến bọc lấy các ngài át đi. Tiếng ấy nghe rõ mồn
một: "Ngài là Con Chí Ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe
Ngài". Ba môn đệ liền sấp mặt xuống đất. Nhưng Ðức Kitô đã cúi xuống nâng
họ dậy. Khi ngẩng lên, họ chỉ còn thấy Ðức Yêsu là một người y như mọi khi.
Câu truyện biến hình chỉ có như vậy. Lâu chừng nào?
Chẳng ai biết. Nhưng ý nghĩa của nó thật thâm sâu.
B. Ý Nghĩa Của Câu Truyện
Ý nghĩa đầu tiên, chúng ta đã đoán được. Ðức Yêsu muốn
phấn chấn lòng các môn đệ sau một tuần lễ sống nặng nề trong viễn tượng Con
Người sẽ bị nộp, bị giết và các môn đệ cũng phải vác thập giá. Chính vì vậy mà
Phụng vụ đã nhắc lại câu truyện Chúa biến hình ở đầu mùa Chay. Chúa cho các môn
đệ thấy vinh quang của Người để họ không mất niềm tin khi thấy Người bị khổ
nhục.
Nhưng theo cách tường thuật của các bản Tin Mừng thì
Chúa biến hình sẽ không giống lắm với Chúa phục sinh. Sau khi Người sống lại,
các môn đệ sẽ không thấy Người, mặt chói như mặt trời, áo trắng như ánh sáng.
Họ cũng sẽ không thấy ai tháp tùng Người khi hiện ra và sẽ chẳng nghe thấy
tiếng nào phát ra tự một đám mây sáng... Tức là khi thuật lại việc Chúa biến
hình, tác giả các sách Tin Mừng không tựa vào những điều đã xem thấy nơi Chúa
Yêsu Phục sinh. Thế nên có thể nói khi biến hình, Chúa Yêsu không phải chỉ muốn
cho môn đệ được phấn chấn; và có lẽ Người đã không muốn trực tiếp tiên báo việc
phục sinh. Có những ý nghĩa ấy, nhưng không phải là những ý nghĩa duy nhất. Còn
có thể có những ý nghĩa sâu xa hơn. Hay ít ra phải hiểu các ý nghĩa kia sâu xa
hơn nữa.
Chúng ta có thể nói được rằng Ðức Yêsu đã muốn phấn
chấn lòng các môn đệ thật, nhưng bằng cách mạc khải cho họ hiểu hơn về con
người của Ngài hơn là chỉ cho họ thấy trước một điều gì chưa xảy đến ở nơi Ngài
và cho Ngài. Cao điểm của câu truyện này là tiếng phán ra từ trong đám mây:
Ngài là Con Chí Ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài! Rõ ràng
Chúa Cha muốn tuyên bố: Ðức Yêsu là Con Một, là Tôi tớ được sủng mộ và là một
Tiên tri của Người. Cách đây 6 ngày Ngài tuyên bố Ngài sẽ bị nộp, bị giết khiến
môn đệ sa sầm nét mặt, tưởng kết cục Ngài sẽ chỉ là người Tôi tớ bị treo trên
Thập giá. Nay chính Thiên Chúa công khai mạc khải Ngài là Con Chí Ái và người
ta phải nghe Ngài. Chúa Cha phán như vậy để công nhận việc tự hạ của Ðức Yêsu
và nâng Ngài lên; nhưng nhất là để môn đệ luôn luôn tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Tiếp theo Chúa Cha còn nói: Ðức Yêsu là kẻ được Người
sủng mộ. Và điều này cũng rất quan trọng. Nó gợi lên hình ảnh Người Tôi tớ
trong sách Isaia, và là Người Tôi tớ làm thỏa mãn Thiên Chúa (Ys 42,1). Nó nhấn
mạnh đến việc "làm mãn nguyện lòng Thiên Chúa" hơn là đến tư cách là
Tôi tớ. Nghĩa là Chúa Cha tỏ ra hài lòng về lối làm việc của Ðức Yêsu, về việc
Ngài cứu thế bằng đau khổ, về thái độ khiêm cung nhẫn nhục của Ngài trong mầu
nhiệm thánh giá.
Thế nên Ðức Yêsu thật là Vị Tiên Tri của Thiên Chúa, là
Ðấng đem sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Sứ điệp này nằm trong
mầu nhiệm thánh giá như chúng ta vừa thấy. Mọi người phải nhận lấy, kẻo bị gạt
khỏi Nước Trời.
Trước những mạc khải như vậy, môn đệ không có cách nào
khác hơn là sấp mặt xuống đất vì kinh sợ. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Thiên Chúa
không để con người ở trạng thái đó đâu; nếu không, mạc khải của Người chỉ đè
bẹp mà không thăng tiến người ta. Kính sợ Chúa chỉ là đầu sự khôn ngoan. Ðó là
điều kiện để nhận được chính sự khôn ngoan cũng là chính sự cứu độ và hạnh
phúc. Khi thấy các môn đệ đã có thái độ ấy, Ðức Yêsu, Ðấng cứu chuộc con người,
đã đến gần, động vào họ, cho họ ngẩng lên và được an thái.
Họ thật có phúc. Họ đã được mạc khải về Con Người, được
sống đầy đủ ơn lành của mạc khải đó, dù trong chốc lát. Thánh Phêrô sau này có
thể bỏ rơi mọi yếu tố kỳ diệu của quang cảnh hôm nay. Và trong đoạn thư của
người chúng ta vừa nghe đọc, người như không cần nhắc lại nhiều chi tiết. Nhưng
nội dung cốt yếu của sự việc thì người ta đã thuật lại cách rõ ràng. Người nói
chính chúng ta đã được phúc cung chiêm sự uy nghi lẫm liệt của Ngài. Và đó mới
thật là ý nghĩa sâu xa của câu truyện Biến hình, để chúng ta thấy Ðức Yêsu là
Con Thiên Chúa rất đẹp lòng Người, nên ai muốn đẹp lòng Thiên Chúa, phải biết
nghe lời Ngài, tức là sống theo Ngài.
Và để làm nổi bật lời mạc khải ấy, tác giả các sách Tin
Mừng còn bao bọc câu truyện biến hình bằng nhiều chi tiết ý nghĩa.
Như chúng ta đã nói, cuộc biến hình không được mô tả
theo khuôn mẫu của các lần Chúa sống lại hiện ra. Vì mục đích của những hiện ra
này không phải để cho môn đệ nhìn thấy vinh quang của Con Người, mà chỉ cốt cho
họ tin Ðấng đã chết bây giờ đang sống. Còn việc Ðức Yêsu biến hình có ý nghĩa
sâu xa như chúng ta đã trình bày, để môn đệ thấy Người uy nghi lẫm liệt. Do đó
tác giả các sách Tin Mừng đã dùng lối văn khải huyền, giống như đoạn sách
Ðaniel ở bài đọc I.
Nhà tiên tri nhìn thấy một con người được tham dự vinh
quang của Thiên Chúa. Ðó là Ðức Kitô trong ngày được tôn vinh khi thời gian đã
mãn, theo lời giải thích của thánh Yoan trong sách Khải huyền. Ðó cũng là Ðức
Yêsu trong mầu nhiệm biến hình vì Con Người mà ba môn đệ nhìn thấy uy nghi lẫm
liệt hôm nay, mọi người sẽ được cung chiêm khi lên Núi Thánh.
Các sách không nói Chúa Yêsu đã biến hình trên núi nào.
Không phải trên núi Sion. Nhưng trên một núi "rất cao". Và như vậy để
nói lên tính cách xuất thế của nơi cao vời chốn thiên cung mà Ðức Yêsu sẽ đi
vào.
Và cũng chính vì thế mà sắc diện của Chúa Yêsu chói như
mặt trời và áo Người trắng như ánh sáng. Ðó là những màu sắc vinh hiển của các
người công chính ở trong Nước Chúa, theo như các tiên tri thường nói (Ðn 12,3).
Và điều này làm chứng thêm mục đích của việc biến hình muốn mạc khải thần tính
của Ðức Yêsu và sự sống của Người nơi vinh quang Thiên Chúa, hơn là muốn báo
trước sự phục sinh của Người.
Hai nhân vật Môsê và Êlya có thể được coi như hiện thân
của Luật pháp và Tiên tri đến chứng tỏ cho uy thế của Ðức Yêsu. Nhưng đúng hơn
có lẽ nên coi Môsê là nhà tiên tri uy tín nhất đến nhường chỗ lại cho Vị Tiên
tri mới thành Nazarét; và Êlya theo truyền thống là con người phải trở lại khi
Ðấng Thiên sai đến. Cả hai nói lên địa vị ưu việt của Ðức Yêsu trong chương
trình cứu độ vào thời gian sung mãn.
Như vậy Phêrô có lý khi bày tỏ hạnh phúc được tham dự
mạc khải cao quý này. Ông chỉ hơi ngây ngô lúc muốn xin làm ba lều. Chắc không
phải vì đang sống trong tuần "Lễ Lều" của người Dothái nên ông nghĩ
đến điều đó. Ông chỉ muốn được ở mãi trong sự chiêm ngưỡng kia. Ông quên mất
rằng mới chỉ có ba môn đệ được thấy. Còn cả nhân loại nữa chứ! Thiên Chúa muốn
rằng tất cả chúng ta sẽ được đưa vào trong vinh quang của Người.
Kìa một áng mây sáng đến bao trùm lấy họ, và giữa đám
mây ấy là Ðức Yêsu Kitô đang được Chúa Cha tôn vinh bằng những lời cao cả:
"Ngài là Con Chí Ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ; các ngươi hãy nghe
Ngài". Áng mây và tiếng nói cũng làm chứng Ðức Yêsu là Thiên Chúa đến dạy
bảo chúng ta. Phải, chúng ta hãy nghe lời Ðức Yêsu Kitô để có ngày được đưa vào
vinh hiển của Thiên Chúa, như các môn đệ trong cuộc biến hình hôm nay. Và cho
được như vậy, chúng ta hãy rút ra những bài học cụ thể của câu truyện này.
C. Những Bài Học Cụ Thể
Cho dù việc Chúa Yêsu biến hình không trực tiếp muốn
tiên báo việc Người phục sinh, nó vẫn muốn phấn chấn lòng các môn đệ để họ tin
vào Người hơn. Và điều này Chúa cũng muốn làm cho chúng ta, đặc biệt trong các thánh
lễ Chúa nhật. Ở đây cũng có mầu nhiệm biến hình. Hoa màu ruộng đất và lao công
vất vả của con người đã biến nên bánh rượu, để rồi qua Lời toàn năng biến thành
Thịt Máu Chúa. Không những Chúa nên lương thực nuôi chúng ta, mà lao công vất
vả cùng đời sống chúng ta, tuy nhạt như giọt nước, cũng sẽ được hòa vào với
rượu để trở nên Máu Thánh.
Chúng ta được đưa vào mầu nhiệm, sâu sắc hơn cả ba môn
đệ khi được đưa vào áng mây trên núi biến hình. Vậy nếu Phêrô đã phấn khởi và
suốt đời không thể nào quên được diễm phúc ở trên Núi thánh, thì vì sao chúng
ta lại không cảm thấy được phấn chấn và khích lệ khi tham dự thánh lễ?
Mầu nhiệm biến hình mạc khải cho môn đệ biết nhìn Ðức
Yêsu là Con Chí Ái của Thiên Chúa là đường lối cứu thế của Người đẹp lòng Chúa
Cha mọi đàng. Thánh lễ không cho chúng ta thấy danh tính đích thực của chúng ta
và của anh em hơn hay sao? Chúng ta và mọi người, bề ngoài cũng chỉ như
"con bác thợ mộc thành Nazarét", nhưng nhờ việc kết hợp với Thiên
Chúa, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu, những Kitô hữu phản ánh
khuôn mặt Ðức Kitô.
Chúng ta đã nhắc đến truyện Saulô trên đường đi Ðama.
Ông đã được bọc trong ánh sáng của Ðức Kitô vinh hiển; và từ trong ánh sáng ấy
ông đã được nghe biết mọi Kitô hữu là con chí ái của Ngài. Và Phaolô đã thay
đổi hẳn thái độ đối với các tín hữu: thay vì bách hại, từ dó ông chỉ biết phục
vụ đến hy sinh cả mạng sống. Ðó là điều không đáng ao ước cho chúng ta hay sao?
Rồi cũng trong thánh lễ, chúng ta được học biết đường
lối của Chúa cứu thế. Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang. Chúng
ta muốn được đưa vào vinh quang của Người cũng phải sẵn sàng phấn đấu chống dục
vọng và ích kỷ để lột bỏ con người cũ và biến sang con người mới.
Nói tóm lại, ở đây khi cử hành thánh lễ, chúng ta như
được đem lên Núi thánh để tham dự vào mầu nhiệm biến hình của Chúa. Người trở
thành lương thực cho chúng ta để kết hiệp với chúng ta sâu xa hơn ở trong
"lều" như Phêrô đã xin. Và khi biến mình nên lương thực như thế,
Người muốn chúng ta đổi mới cái nhìn về anh em. Mọi người rước lấy Mình Thánh
Chúa được đưa vào Thân thể mầu nhiệm vinh hiển của Ðức Yêsu Kitô. Chúng ta luôn
phải nhìn anh em trong mầu nhiệm Nước Trời và phải có tinh thần phục vụ mọi
người. Chính trong viễn tượng ấy, chúng ta tự thấy cũng phải biến mình đi; trở
nên tốt hơn cho xứng đáng với vinh dự là con Thiên Chúa.
Cầu xin cho chúng ta được niềm tin sâu xa như thế và
hân hoan sống niềm tin ấy trong cuộc đời hiện nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA
MỖI NGÀY
LỄ CHÚA HIỂN DUNG
Bài đọc: Dan 7:9-10, 13-14; 2 Pet 1:16-19; Mk 9:2-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Niềm tin con người vào Đức Ki-tô là niềm tin có nền tảng lịch sử.
Niềm tin của con người vào Đức Kitô là niềm tin có nền tảng lịch
sử, chứ không dựa trên những chuyện hoang đường hay thêu dệt. Niềm tin này dựa
vào lời của rất nhiều chứng nhân có thế giá trong lịch sử mà con người có thể
kiểm duyệt và trí khôn con người có thể hiểu được.
Các Bài Đọc trong ngày lễ Chúa Biến Hình hôm nay muốn nói lên
tiến trình lịch sử đó. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel (khoảng 500 BC) được
Thiên Chúa tỏ cho thấy qua các thị kiến, sự xuất hiện của Con Người sau triều
đại của bốn đế quốc Assyria, Media, Persia, và Hy-lạp. Ngài tuy có dáng vẻ con
người, nhưng có nguồn gốc từ trời. Ngài lãnh nhận vương quyền từ Chúa Cha, và
sẽ thống trị mọi dân nước, vương quốc của Ngài sẽ tồn tại muôn đời. Trong Phúc
Âm, trước khi Chúa Giêsu lên Jerusalem để chấp nhận Cuộc Tử Nạn, Ngài đem ba
môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi để tỏ cho các ông thấy vinh quang và
thánh ý của Thiên Chúa. Các ông đã được thấy ông Moses và ngôn sứ Elijah đàm
đạo với Chúa Giêsu về những gì sắp xảy ra tạiJerusalem, và nhất là các ông được
nghe thấy tiếng Chúa Cha làm chứng và khuyên bảo: "Đây là Con Ta yêu dấu,
hãy vâng nghe lời Người." Trong Bài Đọc II, Phêrô làm chứng sự vinh quang
và uy quyền của Chúa Giêsu bằng cách thuật lại kinh nghiệm mình đã được chứng
kiến trên núi, và lời các ngôn sứ trong Kinh Thánh đã làm chứng cho Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đấng Lão Thành trao
cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị.
1.1/ Thị kiến về Chúa Cha, Đấng Lão Thành: Tiên-tri Daniel
tường thuật thị kiến này sau thị kiến 4 con thú của trần gian: "Tôi đang
nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an toạ. Áo Người trắng
như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là
ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một
sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước
Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra."
+ Về phương diện lịch sử, hầu hết các nhà chú giải đều đồng ý
thị kiến 4 con thú tượng trưng cho 4 đế quốc: Assyria, Media, Persia, and Greece;
như đã được Daniel giải thích cho vua Nabuchanezzar về giấc chiêm bao của nhà
vua: một tảng đá bay tới đập vỡ bức tượng làm bằng những kim loại khác nhau
trong chương 2. Sau triều đại của 4 vương quốc này sẽ là triều đại của Con
Người.
+ Thiên Chúa, Đấng Lão Thành, là Người điều khiển lịch sử của vũ
trụ.
Ngài có uy quyền trên tất cả vua chúa trần gian và mọi người. Ngài có thể cho
một vua trần gian hùng mạnh để thiết lập một đế quốc; và có thể xóa tan đế quốc
đó để thiết lập một triều đại mới. Khi Ngài đã quyết định, không gì có thể lay
chuyển được. Sự kiện viên đá bỗng dưng bay tới đập nát bức tượng nói lên uy
quyền thống trị của Thiên Chúa.
1.2/ Thị kiến về Con Người và sứ vụ được trao từ Đấng Lão Thành: "Trong những
thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một con người đang ngự giá
mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới
trình diện."
+ Con người này "đang ngự giá mây trời mà đến," có nghĩa: nguồn
gốc của ngài là từ trời, chứ không phải từ đất như bốn con thú trong đầu
chương. Giống như 4 con thú tượng trưng cho vương quốc của trái đất, Con Người
này tượng trưng cho vương quốc của Nước Trời.
+ Sứ vụ của Con Người: "Đấng Lão Thành trao cho Người quyền
thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia, và
ngôn ngữ, đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu,
không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong." Con
Người này sẽ làm vua toàn thể vũ trụ, không trừ một quốc gia nào cả. Quyền
thống trị và vương quốc vĩnh cửu của Người ám chỉ Người sẽ sống muôn đời, và
không một quyền lực của vũ trụ có thể thắng được quyền lực của Ngài.
2/ Bài Đọc II: "Lời ấy như
chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm."
Phêrô muốn chứng minh cho các tín hữu những gì ông nói về Đức
Kitô không phải là chuyện hoang đường thêu dệt ra; nhưng có cơ sở nền tảng của
hai nhân chứng: kinh nghiệm và Kinh Thánh.
2.1/ Kinh nghiệm được xem thấy Chúa biến hình của Phêrô: Bài Tin Mừng của
Marcô bên dưới xác tín những gì thánh Phêrô nói ở đây: "Khi chúng tôi nói
cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo,
nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của
Người." Phêrô là một trong ba môn đệ đã được chứng kiến vinh quang biến
hình của Đức Kitô.
Không những được xem thấy vinh quang của Đức Kitô; Phêrô còn
được nghe thấy tiếng Chúa Cha làm chứng về Ngài như sau: "Quả thế, Người
đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt
vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý
mến." Đây là lời chứng rất quan trọng cho niềm tin của các tông-đồ, vì nó
giúp các ông đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa; nhất là trong
biến cố tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.
2.2/ Kinh nghiệm của Phêrô được củng cố bởi lời các ngôn sứ: Ngoài kinh nghiệm
cá nhân và lời chứng của hai tông-đồ Giacôbê và Gioan, Phêrô còn có lời chứng
của Kinh Thánh qua lời các ngôn sứ. Ông quả quyết: "Như vậy chúng tôi lại càng
thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy
như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai
mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em." Ngôn sứ đầu tiên chúng ta đã nhìn thấy
trong Bài Đọc I hôm nay là Daniel; ngoài ra chúng ta còn thấy rất nhiều những
chứng từ của các ngôn sứ khác như: Isaiah, Jeremiah, Ezekiel, Amos, Micah ...
nói về Đấng Thiên Sai.
Phêrô chú trọng đặc biệt về chứng từ của Kinh Thánh: Sách Lề
Luật, Ngôn Sứ, và Thánh Vịnh, vì người Do-thái tin tưởng vào thế giá của những
Sách này. Trong Bài Giảng trước dân chúng (Acts 3:12-26) và trước Thượng Hội
Đồng (Acts 4:8-21), Phêrô quan tâm đặc biệt đến thế giá của Kinh Thánh nói
trước về sự phục sinh của Đức Kitô. Nếu con người chịu khó tìm hiểu và học hỏi
Kinh Thánh, họ sẽ được soi sáng để hiểu những gì còn tối tăm mù mịt nơi những
đoạn văn khó hiểu vì toàn bộ Kinh Thánh đều được linh hứng bởi một Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: "Đây là Con Ta
yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."
3.1/ Chúa Giêsu biến hình trên núi: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem
các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một
chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng
trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở
trần gian giặt trắng được như vậy."
(1) Mục đích: Để hiểu mục đích, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của các
câu này trong nội dung và bối cảnh lịch sử của nó.
+ Sáu ngày sau: là sáu ngày sau lời tuyên xưng của Phêrô vào thần
tính của Đức Kitô tại Carsarea Philippi, và sự kiện ông ngăn cản Chúa Giêsu
đừng lên Jerusalem để phải đi ngang qua cuộc khổ nạn. Đó là lý do Giáo Hội mừng
Lễ Chúa Biến Hình vào ngày mồng 6 tháng 8.
+ Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu đã gần kề. Hai điều quan
trọng Chúa Giêsu muốn các môn đệ nắm vững: (1) Các ông phải biết rõ Ngài là ai.
Điều này đã được giải quyết phần nào khi Phêrô đại diện cho các môn đệ tuyên
xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (2) Cách thức
Ngài giải phóng nhân loại là qua Cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh. Điều
này các tông-đồ chưa nắm vững, đó là lý do Phêrô kéo Chúa Giêsu ra một nơi và
ngăn cản Ngài. Như hầu hết người Do-thái đương thời, các ông tin vào một Đấng
Thiên Sai uy quyền sẽ dùng quyền năng để chinh phục và thống trị nhân loại. Các
ông không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và chết trên Thập
Giá.
Vì thế, Chúa Giêsu muốn đưa ba tông-đồ lên núi để các ông xác
tín mối liên hệ của Ngài với Thiên Chúa, con đường khổ nạn Ngài sắp phải đi qua
theo Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, và cho các tông-đồ nhìn thấy vinh quang
trước khi nhìn thấy cuộc khổ nạn.
(2) Sự hiện diện của Moses và Elijah: "Và ba môn đệ thấy
ông Elijah cùng ông Moses hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu."
+ Moses tượng trưng cho các Sách Lề Luật: Thiên Chúa ban
Thập Giới và các thánh chỉ qua Moses. Ông được coi là nền tảng của Lề Luật, và
biến cố hôm nay chứng tỏ Lề Luật phải hướng về Đức Kitô để được nên trọn vẹn,
hoàn hảo.
+ Elijah tượng trưng cho các Sách Ngôn Sứ: Tiên-tri Elijah được
coi là ngôn sứ cao trọng nhất trong các ngôn sứ vì những lời rao giảng và uy
quyền làm phép lạ, và biến cố hôm nay chứng tỏ Sách Ngôn Sứ phải hướng về Đức
Kitô, để tìm thấy sự hoàn hảo của các lời tiên-tri về Đấng Thiên Sai.
+ Họ đàm luận với nhau về điều gì? Căn cứ vào những lời thắc mắc của
các tông-đồ bên dưới, chúng ta có thể xác tín, chủ đề của cuộc đàm đạo là: biến
cố Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Trình thuật của Lucas nói
rõ chủ đề của cuộc đàm đạo là biến cố từ biệt sắp xảy ra tại Jerusalem (Lk
9:30-31).
Như thế, cả hai: Lề Luật và Ngôn Sứ đều làm chứng và tìm thấy sự
hoàn hảo của mình nơi Đức Kitô, nhất là trong Cuộc Thương Khó và Phục Sinh sắp
tới của Ngài.
3.2/ Lời truyền của Thiên Chúa Cha: Bỗng có một đám mây bao phủ các ông.
Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe
lời Người."
+ Đây là lần thứ hai Chúa Cha làm chứng cho Đức Kitô là Người Con Một
yêu dấu của Ngài; lần đầu xảy ra khi Chúa Giêsu được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa
tại sông Jordan.
+ "Hãy vâng nghe lời Người" là một lời truyền
tối quan trọng cho các môn đệ của Đức Kitô. Đối với các tông-đồ, Thiên Chúa
muốn các ông phải vâng nghe những gì Đức Kitô đang mặc khải cho các ông, dù
không theo những gì các ông muốn về Đấng Thiên Sai; nhưng lại là kế hoạch của
Thiên Chúa. Đối với các tín hữu, đây phải là châm ngôn của đời sống: hãy tin và
vâng nghe những gì Đức Kitô dạy dỗ, vì khi làm như thế, chúng ta được bảo đảm
là làm theo thánh ý Thiên Chúa, và kết quả chắc chắn sẽ tốt đẹp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin của chúng ta có được là do Thiên Chúa mặc khải và do
lời chứng của những người có thế giá trong lịch sử ghi nhận lại.
- Con người không dễ chấp nhận con đường đau khổ và Thánh Giá;
nhưng đối với chúng ta là những người có đức tin, đau khổ và Thánh Giá là kế
hoạch Thiên Chúa dùng để cứu độ con người.
Lm. An-tôn Đinh Minh
Tiên, OP.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét