VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 33 TN NĂM A
Tin Mừng thánh Mátthêu 25,14-30
Tin Mừng
14
"Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó
của cải mình cho họ.15 Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác
nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức,16 người đã
lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác.17
Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác.18 Còn người đã lãnh
một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.19 Sau một thời gian lâu dài,
ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.20 Người đã
lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã
giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây."21 Ông chủ nói
với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít
mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui
của chủ anh! "22 Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa
ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác
đây."23 Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và
trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! "24 Rồi người đã lãnh một yến cũng
tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ
không gieo, thu nơi không vãi.25 Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc
của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy! "26 Ông chủ đáp: "Hỡi đầy
tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không
vãi,27 thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến,
tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ!28 Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà
đưa cho người đã có mười yến.29 Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư
thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.30 Còn tên đầy
tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc
nghiến răng."
14 "It will be as when a man who was going on a journey called
in his servants and entrusted his possessions to them.
15 To one he gave five talents; to another, two; to a third,
one--to each according to his ability. Then he went away. Immediately16 the one
who received five talents went and traded with them, and made another five.
17 Likewise, the one who received two made another two.
18 But the man who received one went off and dug a hole in the
ground and buried his master's money.
19 After a long time the master of those servants came back and
settled accounts with them.
20 The one who had received five talents came forward bringing the
additional five. He said, 'Master, you gave me five talents. See, I have made
five more.'21 His master said to him, 'Well done, my good and faithful servant.
Since you were faithful in small matters, I will give you great
responsibilities. Come, share your master's joy.'22 (Then) the one who had
received two talents also came forward and said, 'Master, you gave me two
talents. See, I have made two more.'23 His master said to him, 'Well done, my
good and faithful servant. Since you were faithful in small matters, I will
give you great responsibilities. Come, share your master's joy.'24 Then the one
who had received the one talent came forward and said, 'Master, I knew you were
a demanding person, harvesting where you did not plant and gathering where you
did not scatter;25 so out of fear I went off and buried your talent in the
ground. Here it is back.'26 His master said to him in reply, 'You wicked, lazy
servant! So you knew that I harvest where I did not plant and gather where I
did not scatter?27 Should you not then have put my money in the bank so that I
could have got it back with interest on my return?28 Now then! Take the talent
from him and give it to the one with ten.
29 For to everyone who has, more will be given and he will grow
rich; but from the one who has not, even what he has will be taken away.
30 And throw this useless servant into the darkness outside, where
there will be wailing and grinding of teeth.'
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
của hình này là gì?
…
… … … … … … … … … … … …
* Bạ hãy
viết câu Tin Mừng thánh Mátthêu 25,15:
…
… … … … … … … … … … … …
…
… … … … … … … … … … … …
…
… … … … … … … … … … … …
…
… … … … … … … … … … … …
II. TRẮC NGHIỆM
01. Người đầu tiên được ông chủ giao cho bao
nhiêu yến bạc để sinh lợi? (Mt 25,15)
a. 2 yến
b. 3 yến
c. 5 yến
d. 7 yến
02. Người lãnh được bao nhiêu yến thì đi đào lỗ
chôn giấu số bạc của chủ? (Mt 25,18)
a. 1 yến
b. 2 yến
c. 3 yến
d. 5 yến
03. Người đầy tớ được giao 5 yến, được chủ khen
ngợi là: (Mt 25,21)
a. Đầy tớ
tài giỏi và trung thành.
b. Đầy tớ
khôn ngoan và chịu khó.
c. Đầy tớ
biếng nhác và tồi tệ.
d. Đầy tớ
tốt lành.
04. Yến bạc của người đầy tớ tồi tệ và biếng nhác
được đưa cho ai? (Mt 25,28)
a. Cho
người đã có 10 yến.
b. Cho
người đã có 7 yến.
c. Cho
người đã có 2 yến.
d. Cho
người đã có 1 yến.
05. Số phận của tên đầy tớ vô dụng sẽ như thế
nào? (Mt 25,30)
a. Bị
quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài.
b. Sẽ phải
khóc lóc nghiến răng.
c. Sẽ phải
lửa thiêu đời đời.
d. Chỉ a
và b đúng.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Với người lãnh 1 yến bạc, chủ gọi anh là đầy
tớ thế nào? (Mt 25,6)
02. Đây là từ khen ngợi của chủ với người đầy tớ
lãnh nhận 5 yến bạc. (Mt 25,21)
03. Người đầy tớ lãnh nhận 5 yến đã làm việc này
mà sinh lợi? (Mt 25,16)
04. Người lãnh nhận 1 yến đã làm gì với số bạc
của chủ? (Mt 25,25)
05. Người đầy tớ được giao 5 yến, được chủ khen
ngợi là gì? (Mt 25,21)
06. Nơi người đầy tớ vô dụng sẽ bị quăng ra bên
ngoài? (Mt 25,30)
07. Đáng lý số tiền của chủ sẽ được gởi vào nơi
nào để sinh lợi? (Mt 25,27)
08. Người đầu tiên được ông chủ giao cho bao
nhiêu yến bạc để sinh lợi? (Mt 25,15)
09. Với người lãnh 1 yến bạc, chủ gọi anh là tên
đầy tớ gì? (Mt 25,30)
10. Tên đầy tớ lãnh một yến bạc nghĩ chủ mình là
người thế nào? (Mt 25,24)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Vì
phàm ai đã có,
thì
được cho thêm và sẽ có dư thừa”.
Tin Mừng thánh Mátthêu 25,29b
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 33 TN NĂM A
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề:
Ông chủ và
những đầy tớ.
* Tin Mừng
thánh Mátthêu 25,15:
Ông cho người này năm yến,
người kia hai yến, người khác nữa một yến,
tuỳ khả năng riêng mỗi người.
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. c. 5
yến (Mt 25,15)
02. a. 1
yến (Mt 25,18)
03. a. Đầy
tớ tài giỏi và trung thành (Mt 25,21)
04. a. Cho
người đã có 10 yến (Mt 25,28)
05.
a. Bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài
(Mt 25,30)
III. Lời giải đáp
01. Tồi tệ
(Mt 25,26)
02. Trung
thành (Mt 25,21)
03. Buôn
bán (Mt 25,16)
04. Chôn
giấu (Mt 25,25)
05. Tài
giỏi (Mt 25,21)
06. Tối
tăm (Mt 25,30)
07. Ngân
hàng (Mt 25,27)
08. 5 yến
(Mt 25,15)
09. Vô
dụng (Mt 25,30)
10. Hà
khắc (Mt 25,24)
Hàng dọc : Trung Thành
NGUYỄN
THÁI HÙNG
Việc nhỏ
Booker
Washington là một người Mỹ da đen vĩ đại nhất. Ông là một nhà giáo dục, một
nhân vật cải cách và một văn sĩ nổi tiếng. Năm 16 tuổi, ông đã phải đi bộ gần
800 cây số để xin học. Thế nhưng, vì các lớp đã đông đủ nên ông bị từ chối. Ông
nhận chân quét phòng tại trường. Ông đã làm những việc hèn hạ này một cách hết
sức chu đáo, thành thử ông dành được cảm tình của ban giám đốc nhà trường.
Người ta dành cho ông một căn phòng nhỏ của sinh viên. Chính tại căn phòng nhỏ
này, ông đã chăm chỉ làm việc cho đến khi trở thành một giáo sư nổi tiếng, và
sau này trở thành người sáng lập học viện Tuskegee. Từ một kẻ nô lệ, ông đã trở
nên người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời vào năm 1915.
Phải
chăng cuộc đời ông là sự thực hiện trọn vẹn lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì sẽ được trao phó cho
những công việc lớn. Nói cách khác, chúng ta hãy làm những công việc nhỏ một
cách cẩn thận và chu đáo, rồi thì những dịp thuận lợi hơn, to tát hơn sẽ đến
với chúng ta. Kinh nghiệm trên, sự thật trên quả là điều quan trọng trong đời
sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Trước
hết là trong đời sống thường ngày: Xiết chặt một chiếc đinh ốc nơi bánh xe có
thể cứu được nhiều người trên chuyến xe tốc hành. Thu lượm rác là điều cần
thiết cho sức khoẻ của một cộng đoàn. Rửa sạch chén đĩa sẽ giết được nhiều vi
trùng. Hãy làm những công việc này và hàng trăm công việc nhỏ bé khác nữa của
cuộc sống thường ngày một cách tốt đẹp và chúng ta sẽ làm được những việc lớn
lao hơn, khi thời cơ mỉm cười với chúng ta.
Tiếp
đến, trong lãnh vực thiêng liêng cũng vậy. Chúng ta hãy làm tất cả những gì
mình có thể để giúp đỡ gia đình Chúa là Giáo Hội nơi trần gian. Chẳng hạn như
là những người thợ, chúng ta có thể dành dụm tiền bạc hay công sức để giúp ích
cho giáo xứ trong những công việc chung. Chúng ta có thể trồng những luống bông
nhỏ để chưng trên bàn thờ. Chúng ta có thể dâng hiến tài năng và thời giờ, góp
phần vào việc giáo dục đạo đức cho các em nhỏ. Chúng ta có thể thăm viếng những
người đau yếu bệnh tật để an ủi họ. Chúng ta có thểm tham dự những sinh hoạt
của ca đoàn để dâng tiếng hát ca tụng Thiên Chúa, cũng như làm cho bầu khí
phụng vụ thêm phần sống động.
Trong
tất cả những công việc nhỏ bé và tầm thường ấy, nếu chúng ta thi hành một cách
cần cù và trọn vẹn, thì chúng ta cũng sẽ được Chúa ân thưởng như lời Ngài phán:
Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, bởi vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, thì
Ta sẽ trao phó cho ngươi những công việc lớn. Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ
ngươi.
Hơn thế
nữa, nếu chúng ta biết chu toàn vì lòng yêu mến Chúa, thì những công việc nhỏ
bé và tầm thường ấy sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên cuộc đời chúng ta
và làm cho cuộc đời chúng ta có một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Tôi tớ trung thành
Tất cả
chúng ta đều là những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài
đã trao gửi. Những nén bạc ấy chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài
năng. Nói tóm lại, là tất cả những gì chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng
thế, tất cả không phải là của riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài
trao gửi và cho chúng ta vay mượn trong một thời gian nào đó, như lời thánh
Phaolô đã diễn tả: Những sự anh em có, há chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao?
Và nếu đã nhận lãnh, thì tại sao anh em lại tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì
thế, chúng ta không được toàn quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách
nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống
quá độ, chè chén say sưa có hại cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân
xác mình, hay tự ý đi tìm cái chết.
Với linh
hồn, chúng ta phải cương quyết chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày
một tàn lụi. Chúng ta phải dứt khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình
được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa, nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện
gắn bó mật thiết với Chúa.
Tuy
nhiên, điều quan trọng, đó là một ngày kia chúng ta sẽ phải tính sồ cuộc đời
trước tôn nhan Chúa. Chúng ta không biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có
thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió
nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm
và với chính Thiên Chúa.
Thế
nhưng, đó lại là một sự kện chắc chắn, như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự
chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng
thường nói: Đã là người thì ai cũng phải chết.
Đó là
qui luật chung của muôn đời. Và sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một
cuộc phán xét thật công bằng và chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở
rộng, trong đó mọi sự đều được ghi chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí
ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che dấu nổi.
Chính vì
thế, chúng ta phải quyết tâm làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa
đã trao gửi, bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó
chính là những vị trạng sư âm thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta
trước tòa án tối cao của Thiên Chúa.
Đồng
thời, bằng cách trung thành với những công việc bổn phận của mình, tùy theo vai
trò, tùy theo đấng bậc, tùy theo chức vụ mình nắm giữ trong cuộc sống.
Và sau
cùng, bằng cách sử dụng thời giờ một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã
được cân đo đong đếm. Hãy sử dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và
cho người khác. Nếu chúng ta quản lý tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run
sợ vào giây phút tính sổ cuộc đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có
tính cách ấn định số phận đời đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến
đâu chăng nữa, cũng sẽ lìa bỏ chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo
chúng ta mà thôi.
Có một
câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng: Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong
ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh
bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp
của cái chết. Trong khi đó anh bạn thứ đã cùng đi với người ấy đến trước tôn
nhan Chúa, trình bày những lý chứng và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người
bạn thứ nhất là tiền bạc vật chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân
thích. Còn người bạn thứ ba, luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó
chính là những hành động bác ái yêu thương.
Hãy làm
cho những nén bạc Chúa đã trao gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta
tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng
sẽ là giây phút mừng vui và hạnh phúc.
Bạn có sợ Thiên Chúa
không?
Phải sợ
Thiên Chúa nếu không phải là Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi
không tốt. Dụ ngôn ngày hôm nay là một bài học nói về hai nỗi sự hãi này. Điều
cốt yếu nằm ở trong cuộc đối thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức
người tỏ ra sợ hãi.
- Thưa
ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi sợ ông. Tôi đã đem đi giấu dưới đất cái mà ông
đã giao cho tôi.
- A!
Ngươi biết ta sao?
Điều bi
đát chính là việc người đầy tớ biết sai về ông chủ của mình. Cho nên một số tín
hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người
ta đừng gây sự với Ngài. Người đầy tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài
càng ít càng tốt và làm hết cách để tránh những phiền toái.
Đó là sự
sợ hãi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó làm cho mình sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói
điều này, nếu tôi nói điều kia, điều gì sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn mình
trong những điều chắc chắn: điều gì có tính cách bó buộc?
Nhưng
chúng ta đã chẳng nhận lãnh đức tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích
cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng để thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng,
các hành vi của chúng ta và biết điều gì làm Thiên Chúa vui lòng hay sao? Chúng
ta chẳng có các bí tích để mạnh mẽ đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả
những điều đó đôi khi im lìm như một kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám
mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến, những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu
tôi mất đức tin vào đó thì sao? Nếu tôi để cho nhà của tôi bị xâm nhập thì sao?
Nếu tôi không còn tìm ra thì giờ để cầu nguyện thì sao? Nếu tôi không có trong
tay đủ tiền bạc thì sao? Và nếu ông chủ xét đoán tôi thì sao?
Còn biết
bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn trọng là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra
những giả thiết như thế, điều mà chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ còn là sự sợ hãi
mà thôi. Như thế thì cuộc sống Kitô hữu không nói gì về Chúa Kitô cả! Những
người Kitô hữu ở trong một toà nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan
truyền, không gây ngạc nhiên, không thu hút, thì đức tin đó đóng kén trong sự
chờ đợi đầy sợ hãi và tầm thường. Văn hào Soljenitsyne nói “Tất cả chúng ta bị
mê hoặc chờ đợi điều gì đó đến riêng rẽ; không, không có gì đén riêng rẽ cả”.
Các
thánh không chờ đợi, các ngài nhận biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương
nhau, và cái nhìn vào Chúa biến các ngài thành những nhà hoạt động và táo bạo.
Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ hãi đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến
độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi sợ của thánh Vincentê Phaolô: “Ngài có
thể làm gì hơn nữa? Người ta hỏi Ngài. –Nhiều hơn thế nữa”.
Nhiều
hơn thế nữa. Đó là điều mà ông chủ chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hãi, chứ không
phải là điều tối thiểu! Chúng ta được trao ban một cuộc sống chứ không phải hai
để sống Tin Mừng thực sự, để chứng tỏ rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn
chúng ta tin tưởng, hoạt động.
Ông chủ
nói: “Khi trở về, tôi muốn thu lại tiền của tôi cùng với số tiền lời”. Vào cuối
cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa sẽ nhìn xem điều gì đã phát sinh từ sự sáng tạo
và tình yêu trong cuộc sống mà Ngài đã giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất
của người Kitô hữu chính là không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh
hoa kết quả cho đủ.
Nén bạc và những cố
gắng
Hẳn rằng
chúng ta đã hiểu được ý nghĩa dụ ngôn về những nén bạc: Ông chủ là Thiên Chúa,
nén bạc là những tài năng Ngài đã trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là
lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng.
Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả
đều không mấy quan trọng. Điều cần thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta
với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những
nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng
ta?
Trước
hết, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện vật chất. Thực vậy,
như chúng ta thường nói:
- Kiến
tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng
nhặt thì chặt bị.
- Nước
chảy đá mòn.
- Có
công mài sắt có ngày nên kim.
Những
thành công trên đường đời chỉ dành cho những người biết cố gắng mà thôi. Một
con chuột nhắt cứ cắn mãi cắn hòai cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng
nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn gẫy cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có
ngày chọc thủng phiến đá. Chính vì thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho
những kẻ thông minh tài trí, nhưng cho những người biết hành động hơn, biết
chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn, như tục ngữ đã nói:
- Có làm
thì mới có ăn,
Không
dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tiếp
đến, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện tinh thần. Thực vậy,
kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên một người tài giỏi thì phải chăm chỉ học
hành. Khi tìm hiểu về những thiên tài trong lịch sử, người ta đã ghi nhận chỉ
có 5% là do khả năng trời ban cho, còn lại 95% là do sức cố gắng. Chính vì thế,
người Trung Hoa đã nói: Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý.
Viên ngọc mà không dũa không mài thì không thể trở thành đồ trang sức quí giá.
Con người cũng vậy, nếu không chịu khó học hành thì không thể nào biết được lý
lẽ mà cư xử. Thực vậy:
- Ngọc
kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng
thành vô dũng, cũng hoài ngọc đi.
Kinh
nghiệm cũng cho thấy: thay đổi được một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là
điều rất khó và đòi hỏi nhiều cố gắng.
Một ông
bố quyết định từ bỏ rượu chè bằng cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đều nhỏ
một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy
nến và ông ta chừa bỏ được tật nghiện rượu của mình.
Đời sống
là một cuộc giao tranh khiến chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng.
Sống trong cuộc đời, chúng ta như người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng
bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng
ta không cố gắng chống trả, thì rồi chúng ta sẽ bị nhận chìm trong tội lỗi lúc
nào cũng chẳng hay.
Sau
cùng, trong phạm vi thiêng liêng, mặc dù Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta,
nhưng không phải là đã xong xuôi, trái lại chúng ta còn phải tiếp tục cộng tác
với Ngài và ra sức chiến đấu không ngừng. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Khi
tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu
chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì chính
Ngài cũng không thể cứu chuộc chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.
Hãy tự
cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường hợp,
trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong ngày
sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã làm được những gì, trái lại Ngài muốn
biết chúng ta đã chiến đấu như thế nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén bạc
Ngài đã trao gửi hay không?
Thiên Chúa chúng ta
chịu trách nhiệm
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Câu
chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu
biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và
đầy hình ảnh, cố ý giúp người ta hiểu một điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ
về mỗi chi tiết, nhưng phải tìm bài học toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số
hình ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện hy có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau,
mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi tiết của ý tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn
các nén bạc đòi hỏi một cách hiểu toàn thể để rút ra một bài học lớn. Không nên
cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn
trình bày như sau: người môn đệ phải bày tỏ lòng trung thành tích cực phục vụ
Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười biếng đồng nghĩa với bất trung, Người
Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự trông đợi tích cực và có trách nhiệm.
Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với người làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo
của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần nhớ lại Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong
lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài không nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như
những sự kiện thấy được để rút ra những bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt
ra một câu chuyện có thể tin được theo lối sống và tập tục thời ấy và qua đó
Ngài rút ra một giáo huấn. Chúa nhấn mạnh ở điểm nào?
1) Ở sự
nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt. Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó.
Không những số tiền trao cho họ khiến nảy sinh ý thức trách nhiệm, nhưng tức
thì gây nên ý muốn hành động. Hơn nữa họ không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ
nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn lợi gấp đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đòi
hỏi người ta không được an thân trong sự bảo đảm của cái đã có. Không có gì là
thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy trì được cái đang có bằng cách gia tăng nó
lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế động. Không ngơi nghỉ, không khép mình ở
một mức tưởng đã đạt tới. Vì là một cuộc sống, nó đòi hỏi phải tăng trưởng mà
không mất đi những gì nuôi dưỡng nó. Nhanh nhẹn là ở chỗ không mất thì giờ
trong những điều khởi sự và không thối chí cố gắng liên tục.
2) Chúa
nhấn mạnh về nguy hiểm của sự lười biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người
tôi tớ lười biếng không làm mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông
chủ nhưng anh ta phạm lỗi lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười
biếng tinh thần cứ nghĩ Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ
chấp nhận như vậy, miễn là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như
thế là xét sai vấn đề. Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những gì
cuộc sống chúng ta đã làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức
mến, trong hoạt động (nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất
trung. Điều chính không phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người
tùy theo khả năng khác nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người
đã nhận nhiều, sẽ phải trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực
phát triển những ân huệ Chúa đã giao phó.
Một câu
hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là Đấng có tình thương cứu độ vô biên và nhưng
không lại đòi hỏi con người đáp ứng tích cực? Vì Ngài không muốn cứu con người
mà không có phần đóng góp của con người. Ngài đã tạo con người có tự do, Ngài
muốn con người có trách nhiệm. Đó chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một
tương quan yêu thương sao?
Hãy làm những gì Chúa
muốn
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Chỉ còn
vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân
nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên
kia. Người tiền vệ đã thay đổi lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng
bị chận lại, họ đã mất một cơ hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch
sử đã buộc học sinh phải làm một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ.
Một sinh viên đã quyết định viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm
kém.
Điều tốt
hơn là làm những gì đúng hơn là làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày
hôm nay chúng ta có thể học được rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong
mắt của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều
lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa
muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao
trong Giáo hội, được phong thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta
chết, được tôn kính bởi toàn thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó
là giống như người mà Phúc Âm nói đến, người đã được trao cho năm nén bạc.
Mặt
khác, có lẽ đời sống chúng ta không có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất
hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh
chúng ta, chúng ta làm việc với những người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại
các siêu thị. Điều quan trọng là chúng ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên
Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của chúng ta trong từng chi tiết của đời
sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn giáo của mình. Chúng ta giống như
những người trong Phúc âm đã được trao cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là
hai nén.
Một
người phụ nữ mà đời sống của bà không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật
trong bài đọc I của ngày hôm nay, một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được
xuất hiện trên TV trong sô diễn “60 phút”. Người đàn ông có thể là một người
chồng trung thành, tin tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ
không bao giờ xuất hiện trong tạp chí “Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không
thành vấn đề, bao lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân
mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài lòng với người tôi tớ có hai nén, vì
anh ta đã là lợi được hai nén khác giống như người có năm nén đã làm lợi năm
nén khác.
Điểm sai
lạc là sống giống như một người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã
chôn nó vào đất. Anh ta biện minh rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn
chặn anh ta làm bất cứ điều gì, hoặc không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là
một người khó khăn. Chúng ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung
cho những người thất bại, nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là
người tôi tớ không nỗ lực làm việc.
Người
chủ hiển nhiên là không cần những nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những
người làm lợi năm nén hay người làm lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không
cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài
muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng
ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta,
gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên
Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân, nhưng chúng là một đặc ân được nhìn
theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh quang của Ngài, vì sự lợi ích cho dân của
Người.
Thật sự
trong một ý nghĩa chúng ta được gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi
vì bất cứ khi nào chúng ta làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì
không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con
người là như thế, nhưng thật ra đó là một điều rất lớn lao.
Nén bạc
Báo Văn
Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene
Smith 65 tuổi, “Một người mê sách: kẻ cứu tinh của một nền văn học”. Nhờ mê
sách mà ông cứu vớt nền văn học của Tây Tạng. Ký giả Barbara Stewart của báo
New York Times đã gọi ông già Smith là người cứu tinh của nền văn học Tây Tạng.
Ông Smith đang sở hữu một kho tàng văn chương Tây Tạng mà ông sưu tập được từ
37 năm nay. Theo ước tính, ông hiện có khoảng 12 ngàn tác phẩm văn chương Phật
giáo và văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo của Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh
giá công trình sưu tập văn chương của ông là công trình to lớn nhất ở phương
Tây và có thể lớn nhất thế giới.
Thế
nhưng sự nghiệp này đã được bắt đầu rất đơn giản. Lý do đưa ông đến việc nghiên
cứu văn chương Tây Tạng là hồi chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được
hoãn dịch bằng cách học một trong những ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau
đó, ông đã học triết lý và quan điểm về thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt
ma Deshung. Lạt ma Deshung là một người mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang
Smith khiến ông trở thành một người mê sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng,
ông du hành qua An Độ để sưu tầm sách.
Mặc dù
văn chương Tây Tạng đã có lịch sử cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những
tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là một nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết
đến nền văn minh này. Trên thế giới không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả
những thư viện lớn nhất thế giới. Lý do là vì người Tây Tạng không biết in
sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và
lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng. Đã thế mỗi một trong 4 tông phái Phật
giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có
một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi,
cuốn còn, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang ra ngoại quốc thường do những người tỵ
nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn mang sang An Độ. Tìm hỏi cho ra người
mang sách đã là việc khó, lại còn phải biết sách nào quan trọng trong các tông
phái chính đòi hỏi phải có kiến thức và sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để khắc
phục những khó khăn trên, ông Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục,
tra cứu, tham khảo với các vị lạt ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở
An Độ cũng như Nepal để săn lùng sách. Trong quá trình làm việc như thế kiến
thức của ông Smith trở nên phong phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu
động của văn phòng thư viện đặt tại New Delhi, Indonesia và Cairo. Hiện nay ông
đang dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá “Rubin Cultural
Trust” hứa sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang tồn trữ và
hàng trăm cuốn sách mới khác vừa được tìm thấy gần đây mà người ta tưởng rằng
đã bị phá hủy. Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền văn học,
quả không có gì quá đáng!
Sự tiêu
cực và bi quan đã bóp méo hình ảnh của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác.
Đây là thái độ của người đầy tớ thứ ba.
Một
người cha sắp sửa lên đường đi làm ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để
xây cho ông hai căn nhà. Người con đầu tiên đã dùng tất cả số tiền được trao
phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt đẹp, sang trọng. Còn người con thứ hai nhìn
thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền riêng cho mình, hắn dùng những vật liệu xây
cất rẻ tiền, và xây cho cha một ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về,
để làm quà thưởng cho các con, ông nói “Để trả công cho các con, cha cho mỗi
con chính căn nhà mà các con đã xây cho cha, hãy đưa gia đình các con vào ở
trong căn nhà đó”.
Sự ích
kỷ và lười biếng của người đầy tớ thứ ba đã làm cho anh có cái nhìn tiêu cực và
bi quan về thiện ý của chủ rồi dẫn tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.
Thiên
Chúa chúng ta tờ phượng là một Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến
sự sống là nói đến sự sinh trưởng, phát sinh hoa trái. Vì chính Ngài là Đấng
Tạo Hoá đã dựng nên vũ trụ và phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang
hạt giống, và cây trên mặt đất có trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với
con người rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở…” Do đó không tăng trưởng là dấu hiệu của
sự hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại thánh ý của
Thiên Chúa và gây tai hại cho chính bản thân mình.
Chú giải
về đoạn Tin Mừng hôm nay, William Barclay đã viết: “Thiên Chúa không muốn những
con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con
người bình thường làm những việc bình thường một cách phi thường”.
Chúa
Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta về những nén bạc, tài năng, ơn lành đã được
Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị xếp vào loại người đầy tớ nào?
Nhận nhiều thì bị đòi
hỏi nhiều
JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Trên
đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất
nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không
bất công thì phải giải thích sự bất bình đẳng này ra sao?
2. Người
được nhiều thuận lợi có trách nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách
nhiệm thế nào?
3. Thiên
Chúa phán xét con người dựa trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người
đạt được, hay dựa trên mức độ nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo
hơn?
Suy tư
gợi ý:
1. Trên
đời, sự phân phối những điều tốt đẹp không đồng đều
Không ai
có thể chối cãi điều này: trên đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện:
tính tình, khuynh hướng, khả năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe,
v.v... Đúng như cổ nhân nói: “Bá nhân bá tánh”, “chín người mười ý”... Và ngay
trong từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối
bằng ai, y hệt như: “Bàn tay ngón thấp ngón cao”. Điều đó tạo nên sự phong phú
đa dạng trong thế giới con người. Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên vạn
vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải
chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn
người, giàu có hơn người… thì được lợi hơn những người khác?
2. Ai
nhận được nhiều thì bị đòi hỏi nhiều
Bài Tin
Mừng hôm nay cho thấy: Thiên Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy
nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít, thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giê-su đã
từng nói: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó
nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều
ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha
nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách
nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm
của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như
vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì
thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương
đa dạng nhưng lại rất công bằng.
Những ân
huệ ta nhận được cũng như món tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo
định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh
lợi ra nhiều để có thể trả số lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi
suất là 10% một năm (tức 0,83% một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên
cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền
vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không
có tiền để trả lãi, và vay càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi
thì càng nguy hiểm. Vì tới kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời,
nếu không có khả năng trả hết thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không
có khả năng làm ăn sinh lợi, thì vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà
trái lại có thể là nguyên nhân gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn.
Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu
không làm cho chúng sinh lợi thì rất có thể những thuận lợi ấy lại trở thành
tai họa.
3. Hãy ý
thức trách nhiệm về những thuận lợi mình đang hưởng
Vậy
chúng ta hãy tự xét xem chúng ta được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào:
khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài
năng, v.v... Chúng ta thường hãnh diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi
đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm vì được những thuận lợi hơn người đó.
Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn người, người Ki-tô hữu phải nghĩ đến
trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.
Những
thuận lợi đó phải được đem ra làm ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho
tha nhân. Nếu thuận lợi ta được quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những
thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên ta không thể tránh được hình phạt của Thiên
Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta
không có tình yêu, và như thế là ta không có Thiên Chúa trong chúng ta: “Nếu ai
có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng
thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được” (1Ga 3,17).
Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta “ai có hai
áo, hãy chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11),
thì về mặt tinh thần, Ngài còn đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều.
Vì sự chia sẻ vật chất thì rất giới hạn, còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới
hạn hơn rất nhiều.
4. Đừng
vội tự hào hay kiêu hãnh về những thuận lợi của mình
Vậy khi
xét xử, Thiên Chúa không xét theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà
chúng ta đang có hay đã đạt được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để
nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra
được yến nào, nghĩa là ta không phát huy được những thuận lợi của ta, không
dùng những thuận lợi ấy để làm ích cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công
chính bằng một người chỉ được Ngài ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3,
thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người
ấy được Thiên Chúa coi là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là
một Thiên Chúa công bằng thật sự.
Vì thế,
đừng tưởng ta đạo đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ
rằng ta công chính hơn người. Coi chừng kẻo lầm to: “ai tưởng mình đang đứng
vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của
mình hơn người khác mà kết luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những
thành quả mình làm được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đã
tương xứng chưa: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng
so sánh với người khác” (Gl 6,4).
Đi vào
cụ thể, ta thử so sánh hai người sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm
cướp hay đĩ điếm, không được giáo dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình
ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự
thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã trở thành một người khá lương thiện. Còn
người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù
anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và
nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt
người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là công chính hơn người thứ nhất.
Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ
nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ hai. Như thế chắc chắn phần
thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người
thứ hai.
Quả thật
cách phán xét của Thiên Chúa khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đã
từng nói với các các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân
chúng tôn trọng và cho là đạo đức: “Những người thu thuế và những cô gái điếm
vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người
tội lỗi ấy đã cố gắng vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo
đức kia! Nên khi Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su đến, những người bị coi là tội
lỗi ấy đã sám hối và tin theo ngay!
Cầu nguyện
Lạy Cha,
nhiều khi con vui mừng vì được Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống.
Và con đã hãnh diện và tự hào với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin
Mừng này, con thấy mình thật dại dột, vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy
để bù đắp lại cho những người kém may mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét,
chính những thuận lợi ấy lại trở thành những gì gây bất lợi cho con. Xin cho
con ý thức được trách nhiệm của con đối với họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét