VUI HỌC THÁNH KINH
ĐỨC MẸ SẦU BI
Tin Mừng thánh Gioan 19,25-27
Ngày 15 tháng 9
Tin Mừng
25 Đứng
gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình
thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây
là con của Bà."27 Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh."
Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
25 Standing by the cross of Jesus were his mother and his mother's
sister, Mary the wife of Clopas, and Mary of Magdala.
26 When Jesus saw his mother and the disciple there whom he loved,
he said to his mother, "Woman, behold, your son."
27 Then he said to the disciple, "Behold, your mother."
And from that hour the disciple took her into his home.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
của hình này là gì?
………………………………………………
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 19,25
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Dưới chân thập giá có những ai?
(Ga 19,25)
a. Bà
Maria, thân mẫu Đức Giêsu
b. Bà
Maria Mácđala
c. Bà
Maria vợ ông Cơlôpát
d. Cả a,
b và c đúng
a2. Dưới chân thập giá có 1 bà
Maria, bà này là vợ của ai? (Ga 19,25)
a. Ông
Simon
b. Ông
Dacaria
c. Ông
Cơlôpát
d. Ông
Giôxếp
a3. Người môn đệ của Đức Giêsu hiện
diện dưới chân thập giá tên là gì? (Ga 19,25)
a. Phêrô
b. Tôma
c. Gioan
d.
Giacôbê
a4. Đức Giêsu trao phó thân mẫu
mình cho ai? (Ga 19, 26-27)
a. Ông
Phêrô
b. Người
môn đệ thương mến
c. Tổng
trấn Philatô
d. Ông
Nicôđêmô
a5. Khi được trao phó thân mẫu cho
mình, người môn đệ đã làm gì? (Ga 19,27)
a. Rước
bà về nhà mình
b. Yêu
mến bà
c. Cùng
bà cầu nguyện
d. Che
chở cho bà
B.
b1. Dòng nào được phép Toà Thánh cho mừng lễ Đức
Mẹ Sầu Bi lần đầu tiên vào năm 1668?
a. Đức
Maria Nữ vương Hòa Bình
b. Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
c. Dòng Đa
Minh
d. Dòng
Anh Em Hèn Mọn
b2. Đức Giáo Hoàng nào đã thiết lập lễ Đức Mẹ Sầu
Bi trong khắp Giáo Hội vào năm 1814?
a. Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII
b. Đức
Giáo Hoàng Piô VII
c. Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô I
d. Đức
Giáo Hoàng Piô X
b3. Đức giáo hoàng nào quyết định chuyển lễ từ
Chúa nhật thứ ba tháng Chín sang ngày 15 tháng 9 sau ngày Suy tôn Thánh giá, để
liên kết cuộc Đồng thụ nạn của Mẹ Maria với cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu?
a. Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII
b. Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI
c. Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô I
d. Đức
Giáo Hoàng Piô X
4b. Khi kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội nhớ
tới những đau khổ nào của Đức Mẹ?
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
b5. Khi ngắm Bảy Sự Thương Khó của
Đức Maria thì chúng ta đọc những kinh gì?
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu thấy ai đứng bên cạnh
người môn đệ mình thương mến? (Ga 19,25)
02. Khi được trao phó thân mẫu cho
mình, người môn đệ đã rước bà về đâu? (Ga 19,27)
03. Đức Giêsu nói với người môn đệ:
“Đây là mẹ của ai?” (Ga 19,27)
04. Những người phụ nữ đứng gần cái
gì của Đức Giêsu? (Ga 19,25)
05. Ai trao thân mẫu mình cho người
môn đệ mình thương mến? (Ga 19,26)
06. Vợ của ông Cơlôpát tên là gì?
(Ga 19,25)
07. Đây là quê quán của bà Maria.
(Ga 19,25)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Thưa
Bà, đây là con của Bà."
Tin Mừng thánh Gioan 19,26b
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
ĐỨC MẸ SẦU BI
Tin Mừng thánh Gioan 19,25-27
Ngày 15 tháng 9
* Chủ đề
:
Đức
Maria ôm xác con
* Tin
Mừng thánh Gioan 19,25
“Đứng gần thập giá Đức
Giêsu,
có thân mẫu Người”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. d. Cả a, b và c đúng (Ga 19,25)
a2. c. Ông Cơlôpát (Ga 19,25)
a3. c. Gioan (Ga 19,25)
a4. b. Người môn đệ thương mến(Ga 19, 26-27)
a5. a. Rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
B.
b1. b.
Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
b2. b. Đức
Giáo Hoàng Piô VII
b3. d. Đức Giáo Hoàng Piô X
4b. Khi
kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội nhớ tới những đau khổ của Đức Mẹ :
1. Cụ già Simêon nói tiên tri cùng
Đức Mẹ (Lc 2,34-35).
2. Đức Mẹ đem Chúa Giêsu trốn sang
nước Ai Cập (Mt 2,13-21).
3. Chúa Giêsu ở lại trong đền thờ mà
Đức Mẹ tìm kiếm Người ba ngày (Lc 2,41-50).
4. Đức Mẹ gặp Đức Chúa Giêsu vác cây
Thánh giá (Ga 19,17).
5. Đức Mẹ đứng kề Thánh giá Đức Chúa
Giêsu là Con rất yêu dấu khi trút linh hồn (Ga 19,18-30).
6. Hai môn đệ hạ xác Chúa Giêsu mà
trao cho Đức Mẹ ẵm kính (Ga 19,39-40).
7. Môn đệ táng xác Chúa Giêsu vào
huyệt đá mới (Ga 19,40-42)
b5.
Khi ngắm Bảy Sự Thương Khó của Đức Maria
thì chúng ta đọc một kinh Lạy Cha, bảy kinh Kính Mừng, một kinh
Sáng Danh.
Xin Đức
Mẹ cầu cho chúng con được nhớ những sự thương khó Đức Chúa Giêsu như Đức Mẹ
thuở xưa. Amen.
III. Ô CHỮ
01. Thân mẫu (Ga 19,25)
02. Nhà mình (Ga 19,27)
03. Anh (Ga 19,27)
04. Thập giá (Ga 19,25)
05. Đức Giêsu (Ga 19,26)
06. Maria (Ga 19,25)
07. Mácđala (Ga 19,25)
Hàng dọc : Thập Giá
NGUYỄN
THÁI HÙNG
Đức Mẹ Sầu Bi - 15/09
ĐỨC MẸ SẦU BI
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
Mẹ sầu
bi, tầm tã giọt châu,
đang
đứng bên cây thập tự giá,
nơi Con
Người đã bị treo lên.
Một lưỡi
gươm nhọn đã đâm qua
tâm hồn
Bà đang rên siết,
đang sầu
khổ và đau buồn...
Thứ Sáu
Tuần Thánh, khi tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Đức Chúa Giêsu thì chúng ta cũng
nghĩ đến Đức Mẹ Sầu Bi. Michelangelo thành Florence , thế kỷ XV, đã khắc một pho tượng
rất nổi tiếng về Đức Mẹ Sầu Bi gọi là Pietà. Cũng có một lễ dành cho tước hiệu
này vào ngày 15-9, sau lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ Đức Mẹ Sầu Bi (hay lễ Đức Bà
Bảy Sự, lễ kính Bảy Sự Thương Khó của Đức Bà) trong tiếng Latinh là Mater
Dolorosa (hay Septem Dolorum), trong tiếng Anh là Dolors of Our Lady (hay Seven
Dolors of Blessed Virgin, Seven Sorrows of Our Lady).
1. Nguồn gốc ngày lễ
Trước
cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vatican 1969, trong Phụng vụ có hai
thánh lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi. Việc tôn kính Đức Mẹ Sầu Bi do Dòng Citercian và
Dòng Phanxicô khởi xướng từ thế kỷ XII và thế kỷ XIII. Đến năm 1423, Công đồng Cologne đã quy định thành
lập lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi (điều luật 11). Ý niệm khởi đầu chỉ hướng về mối đau
khổ tổng thể, cụ thể hơn là tôn kính Đức Mẹ đau khổ đứng dưới chân thập tự giá.
Thánh lễ được cử hành vào ngày thứ Sáu của tuần III sau lễ Phục Sinh. Năm 1482,
bảy sự thương khó của Đức Mẹ mới được khai triển và truyền giảng ở Âu Châu. Năm
1725, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XIV đưa lễ Đức Mẹ Sầu Bi qua ngày thứ Sáu trong
tuần Khổ Nạn, trước Lễ Lá [1], đó là lễ thứ I. Năm 1668, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
được Toà Thánh cho phép mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Chúa Nhật III trong tháng 9.
Năm 1912, Đức Giáo hoàng Piô X quyết định toàn thể Giáo Hội cử hành lễ này một
lần nữa vào ngày 15-9 hằng năm, sau lễ kính Thánh Giá, đó là lễ thứ II. Cả hai
thánh lễ đều dùng thánh thi “Stabat Mater” (Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân Thập tự
Giá) của Giacopone da Todi (1360), tu sĩ dòng Phanxicô, làm thánh ca cho buổi
lễ. Năm 1969, lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Thứ Sáu trong tuần Khổ Nạn bị bãi bỏ do
việc cải tổ phụng vụ sau Công đồng Vatican II. Lý do việc bãi bỏ là vì Giáo Hội
không muốn mừng một biến cố hay một mầu nhiệm hai lần trong một năm.
2. Nghĩa của những chữ đức, mẹ, sầu, bi
2.1. Đức có duy nhất một chữ Hán 德
(tuy có nhiều cách viết, như: 徳 , 悳
, 惪 ), nghĩa là dt. (1) Ân Huệ: Dĩ
đức báo oán. (2) Ðạo đức, cái đạo để lập thân: đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác
phong. (4) Cái khí tốt (vượng) trong bốn mùa: mùa xuân gọi là thịnh đức tại
mộc. (5) Ý chí, niềm tin: nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên nước:
nước Ðức. (7) Họ Đức. đt. (8) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiêntắc đức ngã hồ” (Vua
nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). tt. (9) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt
đẹp).
Nghĩa
Nôm : Đức là từ [2] đi trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để tỏ lòng
kính trọng dành cho những vị, những đấng mà nhiều người tôn kính. Ví dụ: Đức
Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức
thánh Trần...
Theo Cha
Giuse Cao Phương Kỷ: “Chữ đức, không có ý nghĩa thần tính, chỉ là danh hiệu tỏ
lòng tôn kính dành cho nhiều người như: Đức Vua, Đức Bà, Đức Ông, Đức Thày...
Ngoài ra, theo thói quen, chữ đức thường ghép vào một chức vị, hay danh hiệu
của một người như Đức Giám Mục, Đức Cha... không ai gọi kèm theo tên riêng, tên
tục người ta, chẳng hạn, ta quen gọi: Đức Hồng Y Khuê, mà không nói: “Đức Khuê”
(vì chữ Khuê là tên riêng)” [3].
Chúng
tôi đồng ý với Cha Giuse, vì Đức (nghĩa Nôm) là:
- “Từ
đặt trước những danh từ chỉ những thần thánh hoặc những người đáng tôn kính”
[4] “... hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến để tỏ ý tôn kính
khi nói đến” [5].
- “Tiếng
tôn gọi các bậc vua chúa, thần thánh” [6].
-
“(Thường viết hoa) từ dùng để gọi thánh thần với ý tôn kính” [7].
- “Tước
hiệu danh giá tột đỉnh” [8] dùng để “xưng tặng các đấng cao sang, tài trí...”
như Paulus Huỳnh Tịnh Của viết: “Đức: tiếng xưng tặng các đấng cao sang, tài
trí; tiếng chỉ việc nhơn lành, lòng lành: Đức Chúa trời [9]. Để tiếng đức cho
trọng đấng bậc, không dám xưng ngay là Chúa trời, về các tiếng sau này cũng
vậy: chúa, vua, thánh, giáo tông, giám mục, cha, thầy, phu tử, ông, mụ, bà
(dùng tiếng đức cũng về một ý)” [10].
Theo lễ
phép “xưng khiêm, hô tôn”, khi nói với (hoặc nói về) người trên thì người ta
dùng chức vụ, vị trí công tác hay danh hiệu học vị học hàm; khi nói với (hoặc
nói về) người ngang hàng hoặc dưới mình, nhưng vẫn tỏ ra lịch sự, người ta có
thể dùng tên tự hay gọi theo chức vị. Có thể thêm tên hay họ tên sau chức vị
khi có người khác cùng chức vị đó hiện diện. Thiết nghĩ, đối với các bậc tôn
quý “danh giá tột đỉnh” được gọi là “Đức...” mà chúng ta chỉ xưng hô vỏn vẹn là
“Đức + tên riêng” thì không phải phép. Thí dụ: Người ta không nói “Đức Khổng
Khâu”, nhưng là “Đức Khổng Tử” [11]; không nói “Đức Tất Đạt Đa Cồ Đàm”, nhưng
nói là “Đức Phật Thích Ca” [12]. Chúng ta không nên nói “Đức Maria”, mà nên nói
là “Đức Mẹ Maria”, “Đức Bà Maria” hay “Đức Nữ Đồng Trinh Maria”... Tuy nhiên,
khi nói về Đức Phật Thích Ca trong giai đoạn trước khi thành Phật, người ta có
thể gọi ngài là “Hoàng tử Tất Đạt Đa” hay “Đức Cồ Đàm”..., cũng như có người dùng
chữ “Đức Giêsu” để nhấn mạnh đến nhân tính, còn chữ “Chúa Giêsu” để nói về thần
tính của Ngôi Hai Thiên Chúa [13]. Nhưng khi nhấn mạnh như thế, liệu chúng ta
có đi lệch với mầu nhiệm ngôi hiệp không? Đây không phải chỉ là cách dùng từ
nữa, mà liên quan đến phạm trù giáo lý đức tin rồi.
Khi ghép
chữ “đức” vào hai chữ “lang quân” và “ông chồng”: Chữ “đức ông chồng” thì có
nghĩa không được tốt đẹp lắm, tức là “chồng (cách gọi có ý đùa hoặc mỉa mai
[14])” . Còn chữ đức lang quân, nay không nghe người ta nói nữa, chỉ thấy dùng
trong văn viết với ý nghĩa như đức ông chồng vậy. Riêng Giáo hội Công giáo vẫn
dùng chỉ Đức Phu Quân là Chúa Kitô... Đức Lang Quân của Hội Thánh!
2.2. Mẹ là chữ Nôm, nghĩa là dt. (1) Người đàn bà
có con, trong quan hệ với con cái: nhớ mẹ, gửi thư cho mẹ, mẹ thương con. (2)
Con vật cái, trực tiếp sinh ra đàn con nào đó: gà con tìm mẹ. (3) Người đàn bà
đáng bậc mẹ: người mẹ chiến sĩ. (4) Cái gốc, cái xuất phát những cái khác: lãi
mẹ đẻ lãi con. (5) Mẹ ghẻ (vợ kế của bố). (6) Đàn bà xấu: Mẹ mìn. (7) Tiếng
chửi: Mẹ kiếp.
2.3. Sầu. Chỉ có một chữ Hán 愁
, nghĩa là: dt. (1) việc lo buồn: ly sầu (việc lo buồn của chia lìa). đt. (2)
Lo lắng: Bất sầu ngậtbất sầu xuyên (không phải lo ăn lo mặc); tt. (3) Lo buồn:
Sầu my khổ kiểm (nét mặt buồn sầu).
Nghĩa
Nôm : đt.(1) Ðau lòng: Sầu khổ (hơi khác nghĩa Hv). (2) Nẫu: Gặp mưa to rau sầu
hết. dt.(3) Trái durian (Hv Lựu liên), Nôm: Sầu riêng.
2.4. Bi có nhiều chữ Hán ở đây là chữ 悲
. Nghĩa là dt. (1) Việc đau thương: Lạc cực sinh bi (Vui quá sinh việc đau
thương). (2) Thương xót: từ bi. (3) Họ Bi. đt. (5) Ðau, khóc không có nước mắt.
(5) Thương cảm: Du tử bi cố hương (Con đi xa thương cảm quê hương). tt. (6)
Buồn.
Nghĩa
Nôm : Tiếng chiêng, cồng.
3. Ý nghĩa của “Đức Mẹ Sầu Bi”
3.1. Đức
Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, thương khó, thống khổ... Đức Mẹ là mẹ Đức
Chúa Giêsu, trong cuộc đời 33 năm của Đức Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi
đau thương: Lời tiên báo của ông Simêon (x. Lc 2,34-35); Cuộc chạy trốn sang Ai
Cập (x. Mt 2,13-21); Lạc mất Chúa ba ngày (x. Lc 41,50); Vác thập tự giá lên
đỉnh Calvê (x. Ga 19,17); Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập tự giá (x. Ga
19,18-30); Tháo xác Chúa (x. Ga 19,39-40); Táng xác Chúa (x. Ga 19,40-42).
Và cho
đến ngày hôm nay, tuy đã về trời, Đức Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao
đau khổ khi chứng kiến biết bao ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh... giữa
đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Đức Mẹ chính là việc
trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi và sẽ sa xuống hoả
ngục. Lời tiên tri của cụ già Simêon khi xưa quả rất hiện thực, vì con tim của
Đức Mẹ vẫn không ngừng bị bao lưỡi đòng đâm thấu, và người đâm thấu tâm hồn Đức
Mẹ lại chính là những đứa con mà Đức Mẹ đã một lần sinh ra trong ân sủng. Trong
số những đứa con phản nghịch ấy, phải chăng có tôi và bạn?
3.2.
Giáo Hội đã đặt lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngay sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá để như muốn
nói rằng: “Khi Ðức Kitô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của
Chúa đứng kề bên mà thông phần đau khổ” [15]. Cuộc đời Mẹ luôn kết hợp với
những nỗi khổ đau của Con. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính
Đức Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập tự
giá Đức Chúa Giêsu” (Ga 19,25) trên đồi Calvê. Không ai hiểu con cho bằng người
mẹ, và cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái
chết của con mình:
“Mẹ sầu
bi, tầm tã giọt châu,
đang
đứng bên cây thập tự giá,
nơi Con
Người đã bị treo lên.
Một lưỡi
gươm nhọn đã đâm qua
tâm hồn
Bà đang rên siết,
đang sầu
khổ và đau buồn...”.
(Thánh
thi Stabat Mater)
Như Đức
Giêsu, Con của Mẹ, Đức Mẹ Maria cũng tự đồng hoá chính mình với mầu nhiệm đau
thương của thập tự giá. Bởi thế, Đức Mẹ đáng được gọi là Đấng Đồng Công Cứu
Chuộc. Qua việc cử hành lễ Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy chiêm
ngắm hình ảnh của một người Mẹ đau thương vì Con và vì chúng ta:
“Ai là
người không tuôn châu lệ,
khi nhìn
thấy Mẹ Chúa Kitô,
trong
cảnh cực hình như thế?
Ai có
thể không buồn bã nhìn xem
Mẹ Chúa
Kitô, đang đau khổ cùng với Con Người?...”
(Thánh
thi Stabat Mater)
Đồng
thời Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy an ủi Mẹ bằng cách bắt chước và yêu mến Đức
Mẹ hơn:
“Ôi lạy
Mẹ là niềm yêu mến,
xin cho
con cảm thấy mãnh lực của đau thương,
để cho
con được khóc than cùng Mẹ.
Xin cho lòng
con cháy lửa mến yêu,
mến yêu
Đức Kitô là Thiên Chúa,
để cho
con có thể làm đẹp ý Chúa...”.
(Thánh
thi Stabat Mater)
3.3.
Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Mẹ Maria đã bắt đầu cuộc lữ hành đức tin bằng những
lời xin vâng: “Tôi là nữ tỳ Chúa. Tôi xin vâng như lời ngài truyền” (Lc 1,38)
và những lời vui tươi hăng hái của người mẹ trẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa... Vì Đức Chúa đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Đức Chúa...”. Vì vậy, khi ngắm
nhìn sự đau thương của Đức Chúa Giêsu và Mẹ Đức Chúa Giêsu trong ánh sáng Thánh
Kinh, chúng ta không thể đồng hoá sự tuân phục của các Ngài với định mệnh
thuyết hay thụ động tính [16]. Trái lại, như Công đồng Vatican II dạy: “Đức
Trinh Nữ đã vững tiến trong cuộc lữ hành đức tin, và trung thành hợp nhất với
Con Mẹ cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá, theo đúng chương trình của Thiên
Chúa” (LG 58):
“Ðức
Maria, Nữ Vương cả đất trời,
Vẫn hiên
ngang đứng vững
Gần bên
thập giá Ðức Kitô.
Diễm
phúc thay, Ðấng không phải chết
Mà được
lãnh cành thiên tuế
Dành cho
người tuẫn đạo”.
(Xướng
đáp, Kinh Chiều Lễ Đức Mẹ Sầu Bi)
và đó là
niềm vui của Mẹ cũng là niềm hy vọng của chúng ta:
Mừng vui
lên, lạy Mẹ sầu bi,
Xưa kia
cùng với Con yêu dấu,
Mẹ thông
phần đau khổ,
Ngày nay
Mẹ lại được cùng Chúa,
Chung
hưởng phúc vinh quang.
(Điệp ca
Tin Mừng, Kinh Sáng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi)
4. Kết luận
Dựa theo
giáo huấn Công đồng Vatican II, Giáo Hội muốn lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng
ta hướng về Đức Chúa Kitô. Do đó, Giáo Hội muốn chúng ta sùng kính Đức Mẹ đồng
thụ nạn với Đức Chúa Kitô khổ nạn để chúng ta noi gương Mẹ, mà kết hợp cuộc đời
khổ đau của ta với cuộc đời tử nạn của Đức Chúa Kitô, ngõ hầu mai sau chúng ta
cùng được hưởng phúc trường sinh vinh hiển với Đức Chúa như Đức Mẹ.
“Khi
chúng con kính nhớ tình yêu đau khổ của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho chúng con
biết dùng đời sống mình để bù đắp những gì còn đang thiếu sót trong những đau
khổ của Đức Chúa Kitô để mưu ích cho Hội Thánh” (Lời nguyện hiệp lễ ngày
15/09).
Lm.
Stêphanô Huỳnh Trụ
***
-------------------
[1]
Trong phụng vụ trước Công đồng Vatican II, Chúa Nhật Lễ Lá còn gọi là Chúa Nhật
Khổ Nạn II (Dominica II Passionis seu in Palmis) và tuần trước đó là Tuần Khổ
Nạn I, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi cử hành vào ngày Thứ Sáu trong tuần này (Feria VI post
Dominica De Passione).
[2] Các
từ điển không thống nhất về từ loại của chữ này, ví dụ: TỰ ĐIỂN VIỆT NAM (của Ban Tu
Thư Khai Trí, NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1971) thì ghi là đại danh từ; ĐẠI TỪ ĐIỂN
TIẾNG VIỆT (của Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, 1999) thi ghi là danh từ; còn GIÚP ĐỌC NÔM VÀ HÁN VIỆT (của
Lm. Antôn Trần Văn Kiệm, NXB. Đà Nẵng, 2004) thì ghi là mạo từ.
[3] Cao
Phương Kỷ, Lạm bàn về phiên dịch Kinh-Sách sang Việt ngữ
(http://www.gpnt.net/diendan/archive/index.php/t-795.html),
các chữ in đậm do chúng tôi.
[4]
Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM , NXB. TP.HCM, TP.HCM, 2000.
[5]
Hoàng Phê (chủ biên), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Viện Ngôn Ngữ Học, Đà Nẵng, 2005.
[6] Hội
Khai Trí Tiến Đức, VIỆT NAM
TỪ ĐIỂN, NXB. Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội. Gs. Lê Ngọc Trụ, VIỆT NGỮ CHÍNH TẢ TỰ
VỊ, in lần ll, NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1972.
[7] Bộ
Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá
Thông Tin, Hà Nội, 1999.
[8]
Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN ANNAM
- LUSITAN - LATINH (TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA), Rôma, 1651. Phiên dịch: Thanh
Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, NXB. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991.
[9]
Trong Lịch Sử Đàng Ngoài, ở bài giảng đầu tiên trên bến Cửa Bạng ngày
19/03/1627, chính ngày lễ kính Thánh Giuse, Đắc Lộ đã cho biết ông rất trịnh trọng
nói đến tên Thiên Chúa một cách vô cùng long trọng. Ông không dùng “Thiên
Chúa”, cũng không dùng “Chúa Trời” mà nói “đức Chúa trời đất”, vì chữ đức này
làm tôn giá trị tuyệt đối của “Chúa trời đất”, vì trong cung điện, trong phủ,
người ta vẫn phải nói đức vua, đức chúa, đức ông, đức bà... Cho nên Phép giảng
là phép giảng cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh đức Chúa blời. Đắc
Lộ còn viết rõ rệt: viết chữ nhỏ ở đức và blời, và chỉ viết chữ lớn, chữ hoa ở
Chúa mà thôi, vì chúng ta không thờ trời, không thờ đất mà thờ đức Chúa blời
đết”. (Nguyễn Khắc Xuyên, GIÁO SĨ ĐẮC LỘ VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO NGUYÊN THUỶ VIỆT
NAM :
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=44&ict=841
)
[10]
Huình Tịnh Paulus Của, ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ, Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn,
1895. NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1974.
[11] Đức
Khổng Phu Tử (551-479 BC): Tên thật là Khổng Khâu ( 孔丘
), tên hiệu là Trọng Ni ( 仲尼 ).
Khổng là một họ phổ biến ở Trung Quốc; Phu Tử có nghĩa là thầy giáo, theo văn
hoá Trung Quốc việc gọi thầy bằng tên là bất kính, nên ông chỉ được gọi là
“Thầy Khổng”, thậm chí cho tới tận ngày nay. Từ “Phu” không bắt buộc, vì thế
ông cũng thường được gọi là Khổng Tử.
[12] Tất
Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) là tên riêng của vị Phật lịch sử đã từng
sống trên trái đất này, người sáng lập Phật Giáo. Thích Ca Mâu Ni (śākyamuni là
danh hiệu có nghĩa là: Trí giả trầm lặng (muni) của dòng Thích Ca).
[13] xem
bài của Pt Giuse Trần Văn Nhật, Về danh xưng “Đức Giêsu” hay “Chúa Giêsu” trong
www.nguoitinhuu.com.
[14]
Hoàng Phê (chủ biên), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Viện Ngôn Ngữ Học, Đà Nẵng, 2005.
[15] Lời
nguyện Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi.
[16] xem
Bài giảng của ĐTC Gioan Phaolô II tại Los
Angeles , ngày 15/09/1987.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét