''Chia rẽ và hiệp thông'' – ''sự thật và
dối trá'' trong thư thứ nhất Gio-an
Chúng ta cùng tìm hiểu với cha Giuse Lê Minh Thông, OP, đề tài “
Chia rẽ và hiệp thông” – “Sự thật và dối trá” trong Thư 1 Gioan.
1.
Dẫn nhập
Thư thứ nhất Gio-an có tương quan với Tin Mừng Gio-an, nhưng Tin Mừng Gio-an và ba thư Gio-an được viết trong những bối cảnh khác nhau. Thư thứ nhất Gio-an mô tả tình trạng của cộng đoàn đang bị chia rẽ, vì tác giả viết ở 1Ga 4,2-3: “2Trong điều này, anh em nhận biết thần khí Thiên Chúa: Mọi thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác, là bởi Thiên Chúa; 3Mọi thần khí phân chia Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.” (Các trích dẫn bản văn ba thư Gio-an lấy trongBản văn Gio-an, TIM MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt).
Có thể trong bối cảnh chia rẽ và nguy cơ sai lạc về đạo lý trong cộng đoàn, mà tác giả thư thứ nhất Gio-an mời gọi cộng đoàn hiệp thông ngay trong lời tựa (1Ga 1,1-4) của lá thư: “Điều chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha và với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô” (1Ga 1,3).
Thư thứ nhất Gio-an có tương quan với Tin Mừng Gio-an, nhưng Tin Mừng Gio-an và ba thư Gio-an được viết trong những bối cảnh khác nhau. Thư thứ nhất Gio-an mô tả tình trạng của cộng đoàn đang bị chia rẽ, vì tác giả viết ở 1Ga 4,2-3: “2Trong điều này, anh em nhận biết thần khí Thiên Chúa: Mọi thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác, là bởi Thiên Chúa; 3Mọi thần khí phân chia Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.” (Các trích dẫn bản văn ba thư Gio-an lấy trongBản văn Gio-an, TIM MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt).
Có thể trong bối cảnh chia rẽ và nguy cơ sai lạc về đạo lý trong cộng đoàn, mà tác giả thư thứ nhất Gio-an mời gọi cộng đoàn hiệp thông ngay trong lời tựa (1Ga 1,1-4) của lá thư: “Điều chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha và với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô” (1Ga 1,3).
Bài viết này sẽ tìm hiểu tình trạng của cộng đoàn và mục
đích của lá thư qua đề tài:“Chia rẽ và hiệp thông” – “sự thật và dối trá”
trong thư thứ nhất Gio-an. Nội dung bài viết gồm các mục: (1) Dẫn nhập,
(2) Quan sát từ ngữ, (3) Phân rẽ giữa cộng đoàn, (4) Sự thật và dối trá, (5)
“Thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm”, (6) Mời gọi “hiệp thông” và “làm sự
thật”, (7) Kết luận.
2.
Quan sát từ ngữ
Phần
sau sẽ quan sát các từ ngữ liên quan đến đề tài của bài viết trong cả ba thư
Gio-an. Trong đó, thư 1Ga dài nhất, gồm 5 chương. Hai thư còn lại rất ngắn: Thư
2Ga chỉ có 13 câu và thư 3Ga chỉ có 15 câu. Các từ ngữ “tích cực” được trình
bày trước, kế đến là các từ “tiêu cực”. Trong đó, danh từ “thần khí” (pneuma)
vừa tích cực: “thần khí sự thật” vừa tiêu cực: “thần khí sai lầm”.
- “Hiệp
thông” (koinônia), danh từ này xuất hiện 4 lần: 1Ga 1,3a.3b.6.7. Cụ thể là hai
lần trong lời tựa (1Ga 1,1-4): 1Ga 1,3a.3b; và 2 lần trong phần mô tả cách sống
của người có sự hiệp thông (1Ga 1,5–2,28): 1Ga 1,6.7.
- “Sự
thật”, các thư Gio-an dùng bốn từ liên quan đến đề tài này:
a) Quan
trọng nhất là danh từ “sự thật” (alêtheia), xuất hiện 20 lần trong ba thư
Gio-an. Cụ thể là 9 lần trong 1Ga (1Ga 1,6.8;
2,4.21a.21b; 3,18.19; 4,6; 5,6); 5 lần trong2Ga (2Ga 1a.1b.2.3.4) và 6 lần trong 3Ga (3Ga1.3a.3b.4.8.12).
b) Tính
từ “thật”, “đích thực” (alêthinos) xuất hiện 4 lần trong 1Ga: 1Ga 2,8;
5,20a.20b.20c.
c) Tính
từ “thật”, “đúng” (alêthês) xuất hiện 3 lần: 1Ga 2,8.27; 3Ga 12.
d)
Trạng từ “một cách đích thực” (alêthôs) xuất hiện 1 lần ở 1Ga 2,5.
- “Thần
khí” (pneuma), danh từ này xuất hiện 12 lần trong 1Ga (1Ga 3,24;
4,1a.1b.2a.2b.3.6a.6b.13; 5,6a.6b.8). “Thần khí” (pneuma) là đề tài quan trọng
và khá phức tạp trong các thư Gio-an. Đề tài này có thể phân tích trong một bài
khác.
- “Sai
lầm” (planê), danh từ này xuất hiện 1 lần: 1Ga 4,6.
- “Dối
trá” (pseudos), danh từ này xuất hiện 2 lần: 1Ga 2,21.27.
- “Ngôn
sứ giả” (pseudoprophêtês) xuất hiện 1 lần: 1Ga 4,1.
- “Phản
Ki-tô” (antikhistos) xuất hiện 5 lần. Cụ thể là 4 lần trong 1Ga (1Ga 2,18a.18b.22; 4,3); 1 lần trong 2Ga (2Ga 7).
Danh từ “chia rẽ” (skhisma) không xuất hiện trong ba thư
Gio-an, nhưng phân tích sau đây cho thấy có sự phân rẽ trầm trọng ngay giữa
cộng đoàn thư thứ nhất Gio-an.
3.
Phân rẽ giữa cộng đoàn
Tác giả
thư thứ nhất Gio-an cho biết tình trạng phân rẽ trong cộng đoàn như sau: “Mọi
thần khí nào phân chia Đức Giê-su thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khícủa tên phản Ki-tô mà
anh em đã nghe là nó đang tới và hiện nay nó ở trong thế gian rồi” (1Ga 4,3).
Sự phân rẽ được diễn tả qua tiêu chuẩn: “Phân chia Đức Giê-su thì không bởi
Thiên Chúa” đây là lập trường sai lạc của những kẻ “phản Ki-tô”.
Động từ
“phân chia” (luô) trong cụm từ “phân chia Đức Giê-su” (1Ga 4,3) có dị bản là
“tuyên xưng” (homologeô). Dị bản động từ “luô”, có nghĩa “huỷ bỏ”, “phân chia”
(séparer, diviser), xuất hiện trong các thủ bản (manuscrits): Vg; Ir1739mg; Cl1739mg; Or1739mg,
Lcf. [xem dị bản “luô” trongNESTLE-ALAND, Novum Testamentum
Graece, (27eéd.
rév.), Stuttgart , Deutsche Bibelgesellschaft, 1996].
Dị bản động từ “homologeô”, có nghĩa “tuyên xưng” (confesser), xuất hiện trong các thủ bản: א,
A, B, Y, 33, 81,322... [xem dị bản“homologeô” trong B. ALAND; K. ALAND, (et al.), (ed.), The Greek
New Testament,(GNT), (Fourth Revised Edition), Stuttgart ,
Deutsche Bibelgesellschaft, 2001]. Các thủ bản trích dẫn trên cho thấy rằng dị
bản động từ “phân chia” (luô) chỉ xuất hiện trong bản Vulgata và một số bản văn
các Giáo phụ. Tuyvậy, xét trong mạch văn thì dị bản “phân chia” (luô) phù hợp
hơn dị bản “tuyên xưng” (homologeô).
Thực vậy, mạch văn 1Ga 4,1-6 cho phép
hiểu những kẻ phản Ki-tô muốn phân chia giữa “Đức Giê-su” và “Đấng Ki-tô”. Tác
giả 1Ga khẳng định: “Thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến
trong thân xác, là bởi Thiên Chúa” (1Ga 4,2). Kiểu nói: “Đến trong thân xác”
vừa gợi đến mầu nhiệm nhập thể, vừa ám chỉ sứ vụ công khai và sự chết của Đức
Giê-su trong thân phận con người. Như thế, theo tác giả thư 1Ga, nhân tính của
Đức Giê-su không thể tách rời khỏi thiên tính của Người. Bản dịch Bible de Jérusalem (BJ)chọn dị
bản “homologeô”(confesser,
tuyên xưng). Bản dịch Traduction Œcuménique de la Bible (TOB) chọn
dị bản“luô” (diviser,
phân chia). Các tác giả R. E. Brown và J. Painter cũng chọn dị bản“luô”, [xem R. E. BROWN,The Epistles of John, (AB 30), New
York (NY),
Doubleday, 1982, p. 485-511; J. PAINTER, 1,
2, and 3 John, (SPS 18),
Collegeville (MN), The Liturgical Press, 2002, p. 253-264]. Chúng tôi chọn dị bản “luô” (phân
chia) trong Bản văn Gio-an, TIM MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt. Xem phân tích đề tài này
trong Khủng hoảng và giải pháp cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư, tr. 171-174.
Những
cách hiểu khác nhau về vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su dẫn đến một số thành
viên của cộng đoàn phân rẽ làm thành một nhóm đối lập với cộng đoàn của tác giả
thư thứ nhất Gio-an. Tác giả thư 1Ga cho biết những kẻ đối lập là phản Ki-tô,
họ đã từng là thành viên của cộng đoàn, nhưng đã tách ra khỏi cộng đoàn và
không còn thuộc về cộng đoàn của tác giả thư 1Ga nữa. Tác giả viết cho cộng
đoàn như sau: “18Hỡi các con thơ bé, đây là giờ cuối cùng, như anh
em đã nghe là tên phản Ki-tô sẽ đến, và giờ đây nhiều tên phản Ki-tô đã xuất
hiện. Do đó, chúng ta biết rằng đây là giờ cuối cùng. 19Chúng xuất thân từ nơi
chúng ta, nhưng chúng không thuộc về chúng ta; vì nếu chúng thuộc về chúng ta,
chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng để tỏ hiện ra là không phải tất cả thuộc về
chúng ta” (1Ga 2,18-19).
Những
lời trên của tác giả thư 1Ga cho thấy cộng đoàn đang bị chia rẽ trầm trọng. Có
một nhóm đã tách rời khỏi cộng đoàn. Họ đã hiểu sai căn tính của Đức Giê-su. Họ
đã không tuyên xưng “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác” (1Ga 4,2).
Họ đã phân chia Đức Giê-su (1Ga 4,3), họ tách rời nhân tính và thiên tính của
Người. Họ trở thành những kẻ mà tác giả thư 1Ga gọi là “phản Ki-tô”. Đây là
khủng hoảng mang chiều kích thần học và Ki-tô học. Những kẻ phản Ki-tô đã hiểu
sai đạo lý chính thống của cộng đoàn, nên họ không có sự thật nơi mình (1Ga
2,4).
4.
Sự thật và dối trá
Sự phân
rẽ giữa cộng đoàn tạo nên sự đối lập giữa “sự thật” (alêtheia) và “dối trá”
(pseudos). Tác giả thư 1Ga viết cho cộng đoàn như sau: “Tôi đã không viết
cho anh em là anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết sự thật và vì mọi sự dối trá thì không thuộc
về sự thật” (1Ga 2,21). Câu 1Ga 2,21 thuộc đoạn văn 1Ga 2,18-28, đây là
đoạn văn mô tả lập trường của các phản Ki-tô. Tác giả thư 1Ga cho biết lập
trường của hai bên:
a) Về
phía những kẻ đối lập với cộng đoàn, tác giả viết: “Ai là người dối trá, nếu
không phải là người chối bỏ và cho rằng Đức Giê-su không phải là Đấng
Ki-tô? Người ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối bỏ Cha và Con” (1Ga 2,22).
b) Về
phía cộng đoàn của tác giả, tác giả viết: “Phần anh em, điều anh em đã nghe từ
khởi đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ khởi đầu ở lại trong
anh em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Con và trong Cha” (1Ga 2,24).
Tác giả
kết luận: “Tôi viết cho anh em những điều này về những kẻ làm cho anh em lạc
đường” (1Ga 2,26). Như thế, cộng đoàn đang bị những kẻ phản Ki-tô lôi kéo, dẫn
đến nguy cơ đi vào con đường sai lạc. Tác giả viết thư dặn dò để cộng
đoàn không lạc lối bởi “những kẻ làm cho anh em lạc đường” (1Ga 2,26). Định nghĩa
về “người dối trá” ở 1Ga 2,22 như trên đã đặt “những kẻ phản Ki-tô” về phía
“dối trá”. Đối lập giữa “những người thuộc về sự thật” và “những người thuộc về
sự dối trá” (phản Ki-tô) trong thư thứ nhất Gio-an cho thấy những tranh luận và
chia rẽ trong cộng đoàn liên quan đến những cách hiểu khác nhau về vai trò và
sứ vụ của Đức Giê-su. Tác giả trình bày đạo lý chính thống và giải thích cho
cộng đoàn biết đâu là niềm tin đích thực để không bị các ngôn sứ giả lôi cuốn
vào con đường sai lạc. Xem phân tích đề tài này trong Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 103-105.
5.
“Thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm”
Làm thế
nào để phân biệt “sự thật” và “dối trá”? Tác giả thư 1Ga mời gọi cộng đoàn
“thẩm định các thần khí” để biết đâu là “thần khí sự thật”, đâu là “thần khí
sai lầm”. Tiêu chuẩn để thẩm định các thần khí được trình bày ở 1Ga 4,1-3: “1Anh
em thân mến, anh em đừng tin vào mọi thần khí nhưng anh em hãy thẩm định các
thần khí xem thần khí nào bởi Thiên Chúa, vì nhiều ngôn sứ giả
đã đến trong thế gian. 2Trong
điều này, anh em biết thần khí của Thiên Chúa: Mọi thần khí tuyên xưng Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác là bởi Thiên Chúa. 3Mọi thần khí nào phân chia
Đức Giê-su thì không bởi Thiên Chúa, đó làthần khí của tên phản Ki-tô mà anh em đã nghe
là nó đang tới và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.”
Tác giả
thư 1Ga khẳng định rằng cộng đoàn của tác giả là “những người thuộc về Thiên
Chúa”. Tác giả viết ở 1Ga 4,6: “Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai
biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về
Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Từ điều đó,
chúng ta nhận biết thần khí sự thật và thần khí sai lầm.” Như thế, tiêu chuẩn
để nhận biết “thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm” là “thuộc về Thiên Chúa”
hay “không thuộc về Thiên Chúa”. Điều này bộc lộ ra bên ngoài
bằng khả năng “nghe”. Theo
tác giả thư 1Ga: “Ai nghe chúng ta thì biết Thiên Chúa” và “ai không nghe chúng
ta thì không thuộc về Thiên Chúa” (1Ga 4,6).
Các
trích dẫn trên thuộc đoạn văn 1Ga 4,1-6. Đoạn văn này bắt đầu với lối xưng hô:
“Anh em thân mến…” (1Ga 4,1a), sau đó tác giả mời gọi cộng đoàn thẩm định các
thần khí dựa trên hai tiêu chuẩn: (1) “Tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến
trong thân xác là bởi Thiên Chúa” (1Ga 4,2); (2) “Thuộc về Thiên Chúa” (1Ga
4,6).Đoạn văn 1Ga 4,1-6 trình bày đối lập
giữa “Thần Khí sự thật” và “thần khí sai lầm” (1Ga 4,6), song song với “Thần
Khí của Thiên Chúa” và “thần khí của phản Ki-tô” (1Ga 4,2-3). Như thế, mạch văn
cho phép hiểu Thần Khí của Thiên Chúa là Thần Khí sự thật, còn thần khí của
phản Ki-tô là thần khí sai lầm.
Từ “thần khí” (pneuma) dùngở số nhiều: “Thẩm định các thần khí”
(1Ga 4,1), “mọi thần khí” (1Ga 4,2.3). Số nhiều này ám chỉ thần khí (tâm trí)
con người. Thần khí người nào thuộc về Thiên Chúa thì có “Thần Khí sự thật”,
thần khí người nào không thuộc về Thiên Chúa thì ở trong “thần khí sai lầm.”
Xem phân tích về “thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm” trong Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 101-103.
6.
Mời gọi “hiệp thông” và “làm sự thật”
Những
phân tích trên cho thấy thư thứ nhất Gio-an mô tả khủng hoảng trầm trọng ngay
giữa cộng đoàn, liên quan đến các xu hướng Ki-tô học khác nhau. Vì thế, trong
lời tựa thư thứ nhất Gio-an, tác giả khẳng định mạnh mẽ niềm tin chính thống
của cộng đoàn và kêu gọi sự “hiệp thông” (koinônia). Tác giả viết ở 1Ga 1,1-4:
“1Điều có từ khởi đầu, điều chúng tôi nghe, điều chúng tôi thấy tận
mắt của chúng tôi, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến
về lời sự sống – 2Sự
sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy, chúng tôi làm chứng và chúng tôi loan
báo cho anh em sự sống đời đời, sự
sống ấy ở với Cha và đã được
tỏ bày cho chúng tôi –. 3Điều
chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính
anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha
và với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô.4Những điều này, chúng tôi
viết cho anh em để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn.”
Sự hiệp
thông theo thư 1Ga hàm ẩm lựa chọn “bước đi trong ánh sáng” và “làm sự thật”.
Tác giả thư 1Ga định nghĩa “hiệp thông với Thiên Chúa” và “hiệp thông với nhau”
như sau: “5Và đây là lời loan báo mà chúng tôi nghe từ nơi Đức Giê-su Ki-tô, chúng tôi
loan báo lại cho anh em rằng: Thiên Chúa là ánh sáng, và không hề có bóng tối
nơi Người. 6Nếu chúng
ta nói rằng: Chúng ta có sự hiệp thông với Ngườimà chúng ta đi trong bóng tối, là chúng ta nói dối và không làm sự thật. 7Nhưng
nếu chúng ta đi trong ánh sáng như chính Người ở trong ánh sáng, thì chúng ta có sự hiệp thông với
nhau, và máu Đức Giê-su, Con của Người, thanh tẩy chúng ta khỏi mọi tội” (1Ga
1,5-7).
Tóm
lại, trong hoàn cảnh xảy ra những sai lạc về Ki-tô học trong cộng đoàn. Tác giả
thư thứ nhất Gio-an trình bày đạo lý chính thống mà tác giả đã đón nhận từ khởi
đầu (1Ga 1,1). Từ đó, tác giả mời gọi cộng đoàn đứng về phía sự thật, và bước
đi trong ánh sáng để được hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau.
7.
Kết luận
Những
phân tích về đề tài “chia rẽ và hiệp thông”, “sự thật và dối trá” trên đây cho
phép tóm kết lập trường của hai nhóm đối lập nhau trong thư thứ nhất Gio-an:
1) NHÓM
CHÍNH THỐNG: tác giả và cộng đoàn độc giả.
2) NHÓM
SAI LẠC: “những kẻ phản Ki-tô”.
NHÓM CHÍNH THỐNG
|
NHÓM SAI LẠC
|
Tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng
đã đến trong thân xác (1Ga 4,2)
|
Phân chia Đức Giê-su là lập trường
của phản Ki-tô (1Ga 4,3)
|
Ở lại trong Con và trong Cha (1Ga
2,24b)
|
Chối Đức Giê-su là Đấng Ki-tô;
chối Cha và Con (1Ga 2,22)
|
Thần Khí sự thật (1Ga 4,6) Thần
Khí Thiên Chúa (1Ga 4,2)
|
Thần khí sai lầm (1Ga 4,6) Thần
khí phản Ki-tô (1Ga 4,3)
|
Sự thật (1Ga 2,21)
|
Dối trá (1Ga 2,21)
|
Thuộc về Thiên Chúa (1Ga 4,6)
|
Không thuộc về Thiên Chúa (1Ga
4,6)
|
Con cái Thiên Chúa (1Ga 4,6)
|
Những kẻ phản Ki-tô (1Ga 2,22;
4,3)
Các ngôn sứ giả (1Ga 4,1)
|
Làm sự thật (1Ga 1,6)
|
Không làm sự thật (1Ga 1,6)
|
Sự thật ở trong mình (1Ga 2,4),
yêu thương trong sự thật (1Ga 3,18), thuộc về sự thật (1Ga 3,19)
|
Sự thật không ở trong mình (1Ga
2,4)
|
NHÓM CHÍNH THỐNG NHÓM
SAI LẠC
Tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng đã đến trong thân xác (1Ga 4,2) Phân chia Đức Giê-su là lập trường
của phản
Ki-tô (1Ga 4,3)
Ở lại trong Con và trong Cha (1Ga 2,24b) Chối Đức Giê-su là Đấng Ki-tô;
chối Cha và Con (1Ga
2,22)
Thần Khí sự thật (1Ga 4,6)
Thần Khí Thiên Chúa (1Ga 4,2) Thần
khí sai lầm (1Ga 4,6)
Thần khí phản Ki-tô (1Ga
4,3)
Sự thật (1Ga 2,21) Dối
trá (1Ga 2,21)
Thuộc về Thiên Chúa (1Ga 4,6) Không
thuộc về Thiên Chúa (1Ga 4,6)
Con cái Thiên Chúa (1Ga 4,6) Những
kẻ phản Ki-tô (1Ga 2,22; 4,3)
Các ngôn sứ giả (1Ga
4,1)
Làm sự thật (1Ga 1,6) Không làm sự thật (1Ga 1,6)
Sự thật ở trong mình (1Ga 2,4),
yêu thương trong sự thật (1Ga 3,18),
thuộc về sự thật (1Ga 3,19) Sự
thật không ở trong mình (1Ga 2,4)
Bảng
trên cho thấy sự đối lập rõ ràng
giữa nhóm chính thống và nhóm sai lạc. Nhóm sai lạc này phát xuất từ giữa cộng
đoàn của tác giả thư thứ nhất Gio-an (1Ga 2,19a). Đây là tranh luận và chia rẽ
liên quan đến cách hiểu về vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su. Bảng trên cho thấy
lập luận của tác giả thư 1Ga mang màu sắc nhị nguyên (dualisme), nhằm mục đích
trình bày cách rõ ràng “lập trường chính thống” và “lập trường sai lạc”. Xem
bảng trên trong Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 110-112.
Trong
bối cảnh một số thành viên trong cộng đoàn đã lạc đường, tách khỏi cộng đoàn và
lôi cuốn cộng đoàn theo họ, tác giả 1Ga viết thư cho cộng đoàn để củng cố niềm
tin của cộng đoàn, đồng thời đưa ra những tiêu chuẩn giúp cộng đoàn thẩm định
các thần khí, phân biệt “sự thật” và “dối trá”, để nhờ đó cộng đoàn giữ vững
niềm tin chính thống, sống trong ánh sáng và làm theo sự thật./.
Ngày 20 tháng 11 năm 2011.
Ngày 20 tháng 11 năm 2011.
Giu-se
Lê Minh Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/11/chia-re-va-hiep-thong-su-that-va-doi.html
email: josleminhthong@gmail.com
email: josleminhthong@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét