Suy Niệm lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (2011)
Giáo Hội Việt Nam
hân hoan mừng kính 117 thánh Tử Đạo Việt Nam . Trong hàng ngũ các ngài, ngoài
các vị là giám mục, linh mục, thì đa số là giáo dân. Thánh I-nê Đê là một phụ
nữ chân quê, thánh Tô-ma Thiện là một chủng sinh còn trẻ, thánh Âu-tinh Nguyễn
văn Mới là một nông dân. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài khẳng khái làm chứng
cho Tin Mừng Đức Ki-tô. Các thánh đã bền vững đến cùng trong lòng tin vào Chúa,
nêu gương sáng cho cháu con hôm nay.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những
người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ
xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin
ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa
Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa
ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
1Cr 1: 17-25
Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái,
nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì
thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được
hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-22
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan
quyền để làm chứng cho đức tin. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua
quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng
tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh
Au-gus-tin: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng
phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của
Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc
còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng
lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa”. (Dẫn Nhập này
xin được mượn từ phần Dẫn Nhập ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong báo
Công Giáo và Dân Tộc ).
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan
trọng. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận
của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường hằng
được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.
1. Vấn đề thưởng phạt:
Trong dòng lịch sử lâu dài nầy, tư tưởng chiếm ưu thế đó là
“ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người
công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong
khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn:
lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay
từ cõi đời nầy phát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống
mai hậu. Tất cả mọi người, công chính hay ác nhân, khi từ giả cõi đời nầy đều
cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài
bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau
đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế
nầy. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 BC) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn
chí giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng
số phận của người công chính khác với số phận của những kẻ ác tâm ở bên kia nấm
mồ. Các Thánh vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển
trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16, 17, 49, 73).
Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào
ngày phán xét bắt đầu ló dạng. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại
khủng khiếp dân Do thái ở Pa-lét-tinh, những người tử đạo chết trong khi tuyên
xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống mai hậu (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy việc
người Hy-lạp tin vào sự bất tử của linh hồn là một sự củng cố cho niềm hy vọng
vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè của người Do thái. Nhưng
ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp nầy không hoàn toàn tương xứng với tư
tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường
thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau
khi chết.
2. Quan niệm sai lầm về con người.
Tác giả phác họa quan niệm duy vật về con người: sinh ra là
một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất,
cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân
xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật nầy, không có chỗ nào được dành cho
Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở
A-lê-xan-ri-a cho những đồng bào của mình, họ đang bị cám dỗ bởi những sức hấp
dẫn của nền văn minh ngoại giáo bao quanh họ. Số lượng người bội giáo (tác giả
gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn
giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng
không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế
hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan
niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà
Thiên Chúa đã mặc khải.
3. Quan niệm đích thật về con người.
Ở trung tâm tiến trình biện luận của mình, tác giả đặt mặc
khải thiết yếu nhất liên quan đến con người: “Họ được Người dựng nên làm hình
ảnh của bản tính Người” (2: 23) như chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế:
“Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì
thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử. Từ đó, tác
giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn
toàn, sống một đời thánh thiện: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên
Chúa; họ đang hưởng an bình”.
Tất cả những khai triển nầy mang đậm nét Kinh Thánh, đặc
biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, chứ không liên hệ
gì đến triết học của Pla-ton. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc
Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một
thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên Thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí
của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết
không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử.
Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện cuộc đời các tôi trung của Thiên
Chúa để họ trở thành “của lễ toàn thiêu” như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
4. Vinh quang chung cuộc.
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như
tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”. “Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh
Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những
lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên
Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn
vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ
mình ra vào thời cánh chung. Những người công chính sẽ rực sáng vinh quang,
Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức
hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên quân vô đạo ác tâm quỷ quyệt.
Chính trong chiều hướng nầy mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô:
“Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và
sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ
ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26).
Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định chỗ của
các môn đệ Ngài trong Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của
Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để
xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.
5. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm.
Niềm hy vọng lớn lao nầy được đặt để vào tình yêu, ân phúc
và từ tâm của Thiên Chúa. Chính trong tình yêu, ân phúc và từ tâm nầy mà những
người công chính sống: “Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật, và
những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban
ân huệ, và thương xót những ai được Người tuyển chọn” . Lời kết thúc của bài
đọc I nầy được viết một thế kỷ trước các Tin Mừng, loan báo sứ điệp rất gần với
sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho
các tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó
vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân.
Xin nhắc lại ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ
nhau về các vị rao giảng của họ, tạo nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống
lại việc chia năm xẻ bảy nầy, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử
nầy không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21):
Đáp lại những kẻ tự phụ mình “thông thái”, thánh nhân nhắc
nhở rằng ngài đã rao giảng cho họ không phải bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự
điên rồ của thập giá trái với đòi hỏi điềm thiêng dấu lạ của người Do thái và
tìm kiếm lẽ khôn ngoan của người Hy lạp.
Dân Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm
thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Dân Hy lạp tìm kiếm
lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có
nó không một xã hội nào có thể bền vững được. Đó là điều mà tất cả mọi hệ thống
triết học đều đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau,
nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá được.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp
phải hai chướng ngại nầy. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng
Mê-si-a chịu khổ nhục trên thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và nơi
khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái nầy bách hại.
Còn đối với dân Hy lạp và sự khôn ngoan của họ, thánh
Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Ngài cố gắng thuyết phục họ nhưng vô
ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng
một Con Người, một Con Người bị đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho
thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó lòng mà thuyết phục con người. Đối với
người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu
đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh
của một thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25).
Nhưng Thập Giá không là một bài diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng
là một sự kiện, một sự kiện lạ thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên
Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, một trong
những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của
Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến
cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có
chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh
duy nhất về “Đức Kitô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-22)
Mặc dầu đoạn Tin Mừng được dành cho ngày đại lễ Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
được trích từ Mt 10: 17-22, nhưng để hiểu sâu xa đoạn Tin Mừng nầy chúng ta sẽ
đặt nó vào trong phân đoạn trọn vẹn của nó, nghĩa là từ 10: 17-25. Đây là phân
đoạn thứ hai về những huấn thị bách hại (10: 17-25) phân biệt rõ nét với phân
đoạn thứ nhất về những huấn thị truyền giáo (10: 1-16).
Nếu phân đoạn thứ nhất (10: 1-16) nêu bật chủ đề uy quyền
hay quyền năng phi thường mà Đức Giê-su ban cho những ai mà Ngài sai đi loan
báo Nước Trời, thì trong phân đoạn nầy, không có bất kỳ ám chỉ chính xác nào về
đau khổ. Thật ra, đoạn văn 10: 13b-16 ám chỉ đến việc người đời có thể không
tiếp đón các môn đệ (10: 13b-15) và cảnh báo rồi những nguy hiểm đang rình rập
chờ đón họ: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (10: 16). Tuy
nhiên, những đối kháng nầy vẫn mơ hồ và một bấu khí chiến thắng xem ra phải ngự
trị trên hoạt động truyền giáo.
Khởi đi từ câu 10: 17, những huấn thị được đặt trên một dấu
nhấn hoàn toàn khác: những cuộc bách hại sắp đến. Các môn đệ không chỉ bị thù
ghét, nhưng những thử thách sắp tới của họ được mô tả một cách chính xác đến
nỗi chúng ta có thể định vị môi trường của chúng nữa. Chúng ta có thể phân chia
phân đoạn thứ hai nầy thành : cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách
hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ cần phải có trong hoàn cảnh bách hại
(10: 23) và phần kết luận (10: 24-25) cho toàn bộ phân đoạn thứ hai này (10:
17-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21).
Phần mở đầu của câu 17: “Hãy coi chừng người đời” lặp lại
chủ đề về sự cẩn trọng của câu 16 nhưng với những ngôn từ hoàn toàn khác. Động
từ “coi chừng” mặc lấy hai nét nghĩa: hoặc bác bỏ, từ chối điều gì đó (như 7:
15; 16: 6) hay đề phòng cảnh giác trong hoàn cảnh khó khăn nào đó (như 6: 1).
Văn mạch nhấn mạnh đến nét nghĩa thứ hai: Đức Giê-su không khuyên các môn đệ
của Ngài nên trốn chạy khỏi “người đời” nhưng trong những gặp gỡ của họ với
người đời, nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Họ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị
những người đời nầy tìm cách khai trừ, loại bỏ. Phần tiếp theo của câu 17 cho
thấy rằng “người đời” nầy không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho
các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”.
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể
vừa ở trong nhưng cũng vừa ở bên ngoài xứ Pa-lét-tinh. Trong xứ Pa-lét-tinh, họ
có thể bị bắt và bị điệu ra trước mặt vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền
(chính quyền chiếm đóng Rô-ma); hoặc ngoài xứ Pa-lét-tinh, bởi các giới cầm
quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Kitô hữu đừng quên rằng
những cách hành xử đầy bạo lực nầy có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm
chứng cho Đức Kitô và Nước Trời. Lời chứng nầy nêu bật tính chất vừa công chúng
vừa chính trị nữa. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và
Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong
hoàn cảnh bị bách hại. Chính vì làm chứng cho Thầy mình mà họ không cần phải lo
nghĩ phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thần Khí để giúp họ
như thể Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và
Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12).
Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần
Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến
một sự gợi hứng máy móc loại bỏ tất cả sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không
phải như thế; trái lại hai cụm từ “anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân
huệ nầy được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng còn ở
trong họ và bởi họ nữa.
2. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
Song đối với các câu 10: 17-20 ở trên, các câu 10: 21-22 bao
gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa.
Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong
gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết để tin vào Đức Giê-su.
Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài nhưng hứa rằng
những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ cần thiết trong hoàn cảnh bách hại (23).
Câu 23 diễn tả thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bá
ch hại. Người Kitô hữu không phải đưa thân mình ra cho những
kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành nầy, thì hãy
trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành nầy xua đuổi họ đi thì có thành khác
để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng vẫn là bổn phận phải
chu toàn cho đến cùng.
4. Phần kết luận (10: 24-25).
Hai câu 24-25 là phần kết luận của phân đoạn nầy. Các môn đệ
của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy
mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên
thập giá. Thầy và trò, Chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò
được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ nầy không giới thiệu một
sự so sánh nhưng là căn tính về vận mệnh trần thế giữa Thầy và trò. Nếu cả hai
đều chia sẻ cùng một số phận: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không
muốn nói rằng Thầy khai mở cho môn đệ của mình sống lại cuộc mạo hiểm mà chính
Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại
khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng
ở nơi Ngài Nước Trời đã đến gần (10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là
đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời nầy (10: 18).
Nguồn: kinhthanh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét