1 . Trinh nữ khôn ngoan –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Đám
cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt
bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn
này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể.
Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh
phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời.
Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa
hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc
Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả
thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng,
được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho
con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa
là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn
sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người
được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến
tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng
Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối
băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người
được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh
phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa.
Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được
dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự
vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có
đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu
đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra
ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm
lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể.
Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng
không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư
luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức
tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo.
Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các
con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh
Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là
được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa
yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời.
Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật
hạnh phúc cho ta.
Vì
yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người
Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và
chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong
nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn
chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là
những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh
Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những
ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn
đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích
Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha,
Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến
mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa
Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm
tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi
người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng
thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ
cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay,
các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy
sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1-
Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2-
Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3-
Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
2. Để tránh việc “quá trễ” – Achille Degeest.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ
ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn
khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải
thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội.
Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay
không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn? Đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo
cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết
trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy
được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để
gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
1) Sẵn sàng có nghĩa là đã
chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã
không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình
thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong
các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh
mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta.
Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta
sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi
của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta
hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
2) Sẵn sàng có nghĩa là
lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ
đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta
phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ
cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai
có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như
các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở
trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung
thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các
thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của
chúng ta.
3) Hậu quả những cố gắng
trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho
các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn
sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại
bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó
nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành
Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng
có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết,
chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức
thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không
nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần
phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có
thực.
3. Hãy giữ đôi mắt của các bạn luôn mở rộng.
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’
– Charles E. Miller)
Chúa
Giêsu rất thích những đám cưới, Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên ở Cana,
Người đã vui thích ám chỉ đến những bữa tiệc đám cưới như biểu hiệu của thiên
đàng. Một trong những biếm hoạ về đám cưới thế tục là cô dâu đã đến trễ và để
cho mọi người phải chờ đợi cô ta tại nhà thờ, nhưng trong dụ ngôn của Chúa
Giêsu, chú rể là người đến trễ. Có một số điều buồn cười trong việc này, khi
chúng ta thấy chú rể được giới thiệu đây chính là Chúa Giêsu. Chú rể đã đến trễ
làm cho một nửa số cô phù dâu làm hết dầu của họ và chìm vào giấc ngủ. Chúng ta
không biết họ suy nghĩ những gì, nhưng có vẻ là họ đã mất hết kiên nhẫn đối với
chú rể, họ là những kẻ ngu đần. Những cô phù dâu khác thì không chỉ tỉnh thức
mà họ còn mang theo đủ dầu cung cấp cho họ. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng họ
sẵn lòng chờ đợi chú rể bao lâu như chú rể muốn, họ là người khôn ngoan.
Bài
Phúc Âm này giống như bao dụ ngôn khác là một bài Phúc Âm phức tạp trong chính
ý nghĩa của nó. Khi chúng ta tiến gần tới cuối năm phụng vụ, sẽ kết thúc trong
hai tuần tới, giải thích theo phụng vụ thì bài Phúc Âm là tận cùng của thời
gian khi Đức Kitô sẽ đến một lần nữa trong vinh quang. Ngày đó không ai biết.
Mọi thế hệ khôn ngoan của Kitô giáo, thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu
thành Thessalonica, đã giới thiệu một sự chờ đợi cuộc trở lại của Chúa Giêsu
cách kiên nhẫn. Chính chúng ta trong mọi Thánh Lễ tuyên xưng sau kinh Lạy Cha
rằng, chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng “việc đến của Đấng cứu độ
chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
Ngay
trước khi rước lễ chúng ta nghe vị linh mục tuyên bố: “Phúc cho những ai được
gọi đến dự tiệc bữa tối với Người”. Điều này không phải ám chỉ tới bữa tiệc ly
trong quá khứ nhưng là bữa tiệc trên trời trong tương lai. Trích dẫn này được
lấy trong sách Khải huyền đoạn 19 câu 9. Thánh Gioan trong một thị kiến đã thấy
một đám cưới cao cả trên thiên đàng. Một thiên thần đã nói với ngài: “Hãy viết
những điều này: phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Hãy
chờ đợi cách kiên nhẫn bữa tối này, đó là sự khôn ngoan. Chúng ta được gọi là
những người khôn ngoan trong khi chờ đợi việc ngự đến của Chúa. Bởi vì sự tận
cùng của thời gian không còn bao xa. Có lẽ là đúng, có lẽ là không. Nếu Người
không đến sớm, Thiên Chúa sẽ đến trong giờ chết của chúng ta. Đó là một khoảnh
khắc nhìn hướng về phía trước với một niềm hy vọng vui mừng. Từ quan điểm của
một con người và là điều khó để theo, tự nhiên chúng ta sợ sự chết và bám lấy
cái sống và không giống như những cô phù dâu, chúng ta không vội vàng trong
việc đợi chờ Chúa đến. “Thiên đàng có thể chờ đợi”, đó có thể là tâm tình của
chúng ta. Chúng ta hãy chú ý tới điểm này của Phúc Âm đó là: chờ đợi, tỉnh thức
sẵn sàng gặp Chúa khi nào Ngài đến.
Giáo
Hội trong sách phụng vụ các giờ kinh đã khẩn nài chúng ta hãy sửa soạn cho cái
chết vào mỗi đêm trước khi chúng ta đi ngủ. Và ngủ là một biểu tượng của sự
chết. Như khi chúng ta đi ngủ, Giáo Hội đề nghị rằng chúng ta nên có tâm tình
Chúa Giêsu khi Người sắp chết: “Lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Sự
hiệp lễ là một sửa soạn cho sự chết. Một người Công Giáo khi sắp chết được
chuẩn bị và hướng dẫn để lãnh nhận sự rước lễ như “của ăn đàng”, là thực phẩm
cho một hành trình từ đời này đến đời sau. Ngay cả khi chúng ta lãnh nhận Thánh
Thể qua việc hiệp lễ trong Thánh Lễ chúng ta hãy để tâm nghĩ đến sự chết, nhưng
luôn luôn tin vào sự sống lại từ cõi chết của chúng ta. Khi đứng để lãnh nhận
Thánh Thể đó là một dấu hiệu của đức tin. Hành vi đạo đức đó là “hãy giữ đôi mắt các bạn mở rộng vì các bạn
không biết ngày nào, giờ nào”.
4. Mười người trinh nữ
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Tháng
mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy
nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng
ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ,
nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin
tưởng và hy vọng.
Cái
chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại
là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và
một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi
dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết,
hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất,
đó là cái chết.
Thật
là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng,
nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và
thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời
này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên
bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên
đó: "Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa".
Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chúa có đến vào
ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và
vui mừng kêu lên: "Lạy Chúa, này con xin đến". Thế nhưng chúng ta đã
chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa?
Trong cơn hấp hối người ta
hỏi thánh nữ Magarita:
- Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
- Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu
như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa
gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng
ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta
đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng
ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi
tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua
tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày
lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời,
thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút
kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc
đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện.
Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là
bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta.
Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan,
thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ
chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi
tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để
khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.
5. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng
ta đặt vấn đề về điều kiện không có không được để về được Quê Trời là gì không?
Nếu không có điều kiện cần thiết ấy thì việc lữ hành vất vả của ta có ích lợi
gì không? Vấn đề quan trọng như thế tại sao ta lại không quan tâm?
2.
Nếu Thiên Chúa cho cả những người không có tình yêu, vẫn còn ích kỷ, ghen ghét,
hận thù... vào Thiên Đàng, thì Thiên Đàng ấy có hạnh phúc được không? Thiên
đàng ấy có khác gì trần gian không?
3.
Đức tin hay tình yêu là “vé” để vào Nước Trời. Nhưng thứ đức tin không việc
làm, chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, thứ tình yêu không cụ thể, chỉ nói ngoài
môi miệng, có thể dùng làm “vé” vào Nước Trời được không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Mô tả lại
dụ ngôn
Theo
phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô
gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn.
Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần
áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là
đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu
đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng
trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn
thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem
theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong
khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc
cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã
đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ
vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp,
chờ đợi... trở thành “công cốc”!
2. Ý nghĩa dụ
ngôn
Dụ
ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào
đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở
thành “sôi hỏng bỏng không”, “nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Dụ ngôn trên
có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải
chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng.
Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới
nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu... để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng
có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình
quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh
hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.
Rất
nhiều Kitô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin
cho mình được “ái mộ những sự trên trời” (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng
mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Kitô hữu ấy có
được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời
là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt
được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Kitô hữu đang cố gắng
thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện
cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Kitô hữu
được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng
đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận
chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày
phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: “Ta không hề biết các
ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7, 23). Để tránh
tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những
điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.
3. Nước Trời
là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống
vị tha
Nước
Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh
phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu
thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều
ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn
hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương
không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm,
còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có
thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn
hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa
hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô
nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Đàng rồi,
và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó,
Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình
thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét,
hận thù... thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho
đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người
mới vào được Nước Trời.
4. “Đức tin
đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”
Theo
Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công
chính là người có đức tin, vì “người ta được trở nên công chính nhờ đức tin”
(Rm 3, 22); “Ápraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính”
(4, 3). Chúng ta, những Kitô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có
phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai
loại đức tin. Theo thánh Giacôbê thì đó là “đức tin có việc làm” và “đức tin
không việc làm”. Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là “đức tin đắt
giá” và “đức tin rẻ tiền”.
“Đức
tin đắt giá” là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm.
Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là
“đắt giá” là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự
hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ
ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn “đức tin rẻ
tiền” là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy
sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng
hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng
những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau:
“Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có
thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc
2,14.17). “Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng” (2,20).
Đức
tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu
thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: “tình yêu đắt giá” và “tình yêu rẻ
tiền”, nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh
Giacôbê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: “Giả như có người anh em hay chị em
không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại
nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại
không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc
2,15-16).
Tóm
lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu
Kitô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm,
tức thứ “đức tin đắt giá”. Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải
được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ
thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình
yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu
đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không
ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu mà lại sống không có tình
thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản
chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).
Vậy
cái “vé” cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình
yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước
Trời. Đó chính là “đèn có dầu” để chúng ta - những “cô phù dâu” - thắp sáng lên
khi đón “chàng rể” - là Đức Kitô - vào “tiệc cưới Nước Trời”.
Cầu nguyện
Lạy
Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình
yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con.
Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất
với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với
họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình
yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.
6. Chú giải của Noel Quesson
Trong
tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những
chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc.
Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin
Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó
Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ
Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)... kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của
Con Người (Mt 24,26-44)... ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về,
Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 - 25,30)... Cuộc phán xét chung (Mt
25,31-46)...
Bấy giờ, Nước
Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể...
Ngay
từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái
đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là
"parthènoi". Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi
cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho
một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình
bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.
Khi
Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức
Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể... và Giáo Hội, mọi người chúng ta là
người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: "Tôi
đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người
như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những
hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng
ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu
thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều
nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với
chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi
của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt
về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.
Trong mười cô
đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang
dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.
Chúng
ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một
câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn
này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày,
một cái chết tàn bạo.
Người
vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)...
Giờ đây "vụ án" của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ
của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23,
34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô "lơ đễnh", dại dột, những
người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn
đề người điên dại "môrai" và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên"
không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch
đạo", kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm
chi có Chúa 'Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để
chỉ "người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực
hành": (Mt 7,24) - "những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17).
Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc
trống rỗng hoặc lơ đễnh.
Đây
là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc
đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên
những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa
được đặt ra... một sự "được thua" được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng
ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm
thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn
ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?
Vì chú rể đến
chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.
Nếu
câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có
thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong "bài
giảng thời cánh chung", những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ
ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn "người đầy tớ chờ chủ”, người đầy
tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).
Hãy
chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta
đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ
sống và kẻ chết". Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và
Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là
điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay
vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta
bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.
Nửa đêm, có
tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
"Nửa
đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20;
Mc 13,35-36). "Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2).
"Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi
thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ
mà người ta không ngờ" (Mt 24,44), "lóe sáng như tia chớp" (Mt
24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây
phút của Thiên Chúa... giây phút của cuộc gặp gỡ... giây phút mà, đối với mỗi
người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một
tiếng kêu thảng thốt.
Không
một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa
chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho
lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…
Trong
lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi
giật mình không?
Bấy giờ tất
cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Trong
câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại... Tất cả đều
thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa,
Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con.
Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?
Chỉ
cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều
không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được
thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn
thê trong Diễm Ca (5,2). "Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức". Vâng, lạy
Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa
nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa.
Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.
Các cô dại
nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị,
vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và
các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn".Đúng lúc các cô đi mua,
thì chú rể tới..."
Vào
đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích
kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói
rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta
thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.
Rõ
ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi...
anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu... anh em hãy giữ lại cho
mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu
đã nói khá nhiều điều ngược lại.
Nhưng
Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra
không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn
hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ
bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu!
Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn
là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta
hãy nghe phần cuối của câu chuyện.
Những cô đã
sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau
cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi
với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”
Các
cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự
cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp
lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc,
nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn
giờ.
Rõ
ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh
chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên
Chúa: "Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!". Thế đấy không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời" (Mt 7, 21-23).
Vậy anh em
hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Câu
nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người.
Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những
cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên
Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng
bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ.
Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi
có canh thức không?
7. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC
MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ
ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:
Bài
Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức
Giêsu, "diễn từ về thời cánh chung". Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu
hỏi của các môn đệ: "khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể
ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn
bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều
đó.
Trước
hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt
24,37-42): "Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi
hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: "thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy
chồng", Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử
ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp
đến.
Tiếp
đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: "nếu chủ nhà biết
vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình
đâu. Và kết luận: "Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính
giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Sau đó Chúa móc nối với
dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: "Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về
mà thấy anh ta đang làm như vậy!
Đức
Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh
của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như
thường xảy ra ở Palestine thời đó:
Như
người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè
đến rước.
Khi
chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra
nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn
đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ
ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
Hồi l: màn mở
với cảnh mười cô trinh nữ "được mời dự tiệc cưới". Cầm đèn "ra đi đón
chú rể". Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô "thiếp đi rồi ngủ cả".
Hồi 2: Câu
chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình
lình "nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi". Lúc
này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi
nào là "biết phòng xa", "thận trọng", "khôn".
Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho
bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của
Thiên Chúa. Được kể là "khôn" những ai ý thức được tính khẩn trương
của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này "vừa mang đèn, vừa
mang dầu theo". Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào
đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là
"dại". Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh,
cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là "dại" kẻ
nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu
theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể
xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ
phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã
quá trễ?
Hồi 3: Đám
rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy
mới năn nỉ: "Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi' với!, nhưng vô
ích. Chỉ có tiếng trả lời: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!.
Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi:
"Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa... Bấy
giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).
Màn kết: với
lời khuyên: "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ
nào". Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không
thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến
giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các
trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái
đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp
ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau
chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để
vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa,
Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn
giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập
Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus
l'histoire vraie”, Centurion, trang 383).
2. Một dụ
ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ
ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá
trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ
dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở
thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không
thể biết trước "giờ" chú rể đến, "ngày" Chúa trở lại. Cl
Tassin nhận xét: "Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi
không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa". Cũng như mười cô phù dâu ở đây,
được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là
Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại.
Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ "nhận ra" thuộc về Người những ai, trong
lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là
"người khôn", theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp:
"Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận
của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân
biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó
Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa
phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn
về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai.
Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ
ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập
xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm
kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về
người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời
gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân
trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống
hằng ngày" ("L'evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hãy chong
đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong "Le Règne des cieux s'est approché, Desclée
de Brouwer, trang 335- 336).
"Việc
loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ
đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích
bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt!
Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ" (1Tm 2,4).
Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử
dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời
gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho
chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa
về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với
người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong
lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ,
phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan,
có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các
cô kia: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà
mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến
trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu
chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ
lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay
một mẫu mực nhất thiết phải theo... Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự
về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng
là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử
sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: "Tôi bảo
thật các cô, tôi không biết các cô!". Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức
Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: "Kìa chú
rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt,
biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào
cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi
Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì... "Anh em hãy canh thức, vì anh
em không biết ngày nào giờ nào..." Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế.
Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài
và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong
mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy
băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một
ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế
nào: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy"
(25,40).
2. “Con ve và
con kiến" (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một
đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi
đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại
sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng
đòi hỏi nơi các cô chính là sự "khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo
chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui
hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện
phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi
phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng,
đó là một chuyện khác nữa... và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh
Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức
tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh
một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại
sức sống cho niềm tin cũng thế thôi".
8. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ
về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ": Công thức nhập đề này, duy
nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về
Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ,
nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những
người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một
nghĩa với câu 31: "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người...".
"Đi đón
lang quân": Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của
mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa
lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan
trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng
tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải
toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
"Các cô
thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian
hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải
làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi
thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười
trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh
thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian
cuộc lễ.
"E không
đủ cho cả chúng em và các chị": Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời
cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề
cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình
lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi
thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải
tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23)
và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải "thức dậy" (sống
lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu
hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành;
nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân
loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận
cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó
là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón
và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo
âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang
bình thản tâm hồn.
Ta
cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc
chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có
dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu
hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên
nhẫn của' ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những
xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn
đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố
đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ
đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó
là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó
không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên
của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy
nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta
tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
2. Chúa đến,
và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ.
"Nửa đêm, có tiếng kêu..." như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là
việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là
đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ.
Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta
trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa
bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một "con
đường Đamas" xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc
giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp
với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
3. Nhưng hăng
hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng
đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc
lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ "bé mọn" quanh
ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta.
Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng
ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu
vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.
Nguồn:
WHĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét