Trang

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

Hành hương Đất Thánh (I)




Hành hương Đất Thánh (I)



Nguyễn Hữu An
Trong cuộc đời mỗi người Kitô hữu, ai cũng ao ước được đặt chân đến Đất Thánh, miền đất mà Chúa Giêsu đã sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng rồi Tử nạn và Phục Sinh. Một Đức Giêsu lịch sử, đã làm người, sống tại đất nước Do Thái. Đặt tay lên tảng đá nơi Đức Mẹ quỳ gối đáp lời “Xin vâng”, quỳ cầu nguyện trước tảng đá mà Chúa Giêsu đã quỳ cầu nguyện trước cuộc khổ nạn, hôn kính tảng đá nơi đặt xác Chúa Giêsu hạ xuống từ thập giá…và bao nhiêu địa danh khác gắn với cuộc đời Đấng Cứu Thế, thật đáng yêu đáng kính, hấp dẫn mời gọi.
Ngày nào trên ti-vi cũng có nói thời sự về cuộc chiến tranh Israel và Palestina. Lịch sử cuộc chiến đã có từ 5.000 năm qua.
Để hiểu biết thêm, tôi tìm đọc trong Thánh Kinh và ao ước có lần đến miền đất này. Theo gia phả được ghi trong Thánh Kinh, người Canaan và người Do Thái đều là con cháu của ông Noe. Sau trận Đại Hồng Thuỷ, ông Noe sống sót với 3 người con là Sem, Ham và Jaspheth. Người Do Thái thuộc dòng của Sem và người Canaan thuộc dòng của Ham. Dòng dõi của Ham bị ông Noe chúc dữ, vì khi ông Noe uống rượu say và ngủ trần truồng, Ham đã chỉ trỏ và chế diễu. Canaan là con của ông Ham. Lời nguyền rủa của ông Noe: “Canana đáng bị nguyền rủa! Nó phải là đầy tớ của anh em nó.” Rồi ông nói: “Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Sem; Canaan phải là đầy tớ nó! Xin Thiên Chúa mở rộng Japheth, nó hãy ở trong lều của Sem, và Canaan là đầy tớ của nó.” (St 9,18-27).
Dòng tộc Canaan là dòng tộc đầu tiên đến chiếm vùng đất mầu mỡ ở phía Đông Địa Trung Hải nên vùng đất đó được gọi là vùng Canaan. Dòng tộc Philistines – sau này gọi là Palestines – là một trong những dòng tộc thuộc dòng dõi của Canaan, một dòng dõi đã bị ông Noe chúc dữ, sống ở phía Nam vùng Canaan.
Abram thuộc dòng của Sem được Thiên Chúa chọn lãnh đạo dân Do Thái. Khi ông đến vùng đất của dòng Canaan, tức vùng phía Đông của Địa Trung Hải, Thiên Chúa phán: “ Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.” (St 12,7). Từ đó đất Canaan được gọi là Đất Hứa của người Do Thái.
Khi nạn đói xảy ra, Abram dẫn dân Do Thái sang Ai Cập, nhưng bị vua  Pharao đuổi, ông dẫn dân lên miền Negeb. Sau những trận đánh ác liệt, người Do Thái đã đánh bại nhóm vua Chodorlahomor ở vùng thung lũng Siddim, Thiên Chúa đã lập lại giao ước với Abram, tổ phụ của người Do Thái: “ Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả (tức Euphrates) , đất của những người Cinietes, Cenezites, Cedmonites, Hethites, Pherezites, Raphaim, Amorrites, Canaan, Gergeites và Jebusites.” (St 15.19-20)
Do đó, đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, nhưng người Do Thái vẫn cố tìm về đất Canaan. Tuy Thiên Chúa đã hứa như vậy, nhưng cuộc chiến đấu trở về và giữ vững vùng Đất Hứa này rất cam go, nó đã kéo dài trên 5000 năm và đến nay vẫn còn tiếp tục.
Đến thời Jacob làm lãnh tụ của Do Thái, khi ông đến thành Bethel của người Canaan, Thiên Chúa lại nói với ông: “Tên ngươi là Jacob, nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Jacob nữa, ngươi sẽ được gọi là Israel.” Vậy Người đặt tên cho ông là Israel. (St 35,10-11). Từ đó, con cháu của dân tộc Do Thái được gọi là dân Israel. Người Do Thái giữ mãi tên này cho đến bây giờ.
Người Do Thái đã phải bỏ nước ra đi rất nhiều lần, nhất là từ năm 638, sau khi người Hồi giáo Ả-rập chiếm vùng Canaan và thành phố Jerusalem, Thủ Đô Thánh của họ.
Trong thế chiến thứ II đã có khoảng 6 triệu người Do Thái đã bị Đức Quốc Xã giết. Thế mà họ vẫn đứng dậy và vùng lên một cách mạnh mẽ, trở thành những cộng đồng có thế lực ở nhiều nơi trên thế giới. Và sau đó họ đã phát động mạnh mẽ một phong trào trở về lại Đất Hứa của họ.
Việc bỏ nước ra đi của người Do Thái đầy máu và nước mắt. Việc trở về của họ cũng không kém đắng cay như khi họ ra đi, nhưng họ nhất quyết trở về và họ đang thành công. Tại sao người Do Thái đã có một sức sống mãnh liệt như vậy?
Đọc Thánh Kinh và đi hành hương để tìm hiểu lịch sử, địa lý về đất nước Israel là “khám phá” đầy hấp dẫn, lôi cuốn mọi dân mọi nước, mọi màu da, mọi ngôn ngữ khắp thế giới.
Thực hiện ước mơ.
Từ ngày 21-29 tháng 2 năm 2008, tôi đi theo Tours do Carnival Co –Sài Gòn tổ chức. Nhóm có 13 người, gồm 4 linh mục (Cha Hội –xứ Tân Trang, Sài Gòn, Cha Hoà –xứ Bình Qưới, Sài Gòn và Cha Quang- xứ Bình an, Phan thiết ), 1 nữ tu và 8 giáo dân. Có bà cụ Chức đã 81 tuổi ở xứ Phú Trung cùng tham dự, lý do là vì Cụ yêu mến Chúa Giêsu lắm.
Một hành trình thật xa xôi. Từ Tân Sơn Nhất bay qua Băng Cốc mất 1g30 phút, rồi đổi máy bay, đến Israel đúng 12 giờ bay.
Máy bay đáp xuống Tel Aviv, thành phố hiện đại của Israel. Xe công ty du lịch Israel đón đoàn tại sân bay. Hướng dẫn viên là Samir Bahbah, người Công giáo Palestina, tài xế Karmal, người Hồi giáo Palestina cùng đồng hành với chúng tôi suốt những ngày ở Israel. Nhờ hướng dẫn viên địa phương là một người Công giáo nên chúng tôi được hiểu biết thêm rất nhiều điều sâu sắc và bổ ích.
Một chuyến đi đầy dấu ấn và kỷ niệm. Một chuyến đi gợi bao cảm xúc mỗi lần dừng chân viếng từng dấu tích Đấng Cứu Thế đã đi qua. Đi lại con đường lịch sử như Phúc Âm kể vẫn thấy đâu đây hình bóng Chúa Giêsu thấp thoáng trên mọi nẻo đường.
Israel.
Israel là thành viên của Liên hợp quốc. Thuộc Trung Cận Đông, có diện tích: 25.000km2., dân số: 7.000.000 người. Ba thành phố lớn là Jerusalem gần 1.000.000 dân, Tel Aviv 500.000, và Haifa 400.000 dân.
Đất nước Israel đầy núi đồi, ngọn cao nhất là núi Hermon chạy dọc theo ranh giới phía bắc, phân cách Israel với Lyban và Syria cao khoảng 2814m, phần đất Palestina vào thời hai vị vua danh tiếng nhất là Đavid (1015-1075) và Salomon (1070-1030). Vào những thế kỷ kế tiếp, Do Thái bị các quốc gia hùng mạnh hơn đến chiếm cứ và bị bắt đi lưu đầy ra khỏi nước. Lần sau cùng là năm 70 SCN, khi dân Do Thái nổi lên chống lại sự cai trị hà khắc của đế quốc Rôma thì tướng Titô được lệnh hoàng đế đưa quân sang dẹp tan cuộc nổi dậy của dân Do Thái, phá hủy hoàn toàn Thành Thánh, đền thờ nguy nga của thành Jerusalem, và bắt dân Do Thái lưu đầy khắp nơi trong đế quốc Rôma thời đó. Khi đế quốc Rôma sụp đổ vào thế kỷ thứ V, những người Do Thái phải sống tản mác ra tại các quốc gia ở Âu Châu. Lần mất quê hương này dài 19 thế kỷ từ năm 70 sau CN đến năm 1948.
Người Do Thái tản mác giữa các dân tộc luôn luôn nuôi ý tưởng trở về vùng đất hứa của họ. Đến năm 1948 phong trào trở về xây dựng quê hương được thực hiện, họ trở về tranh đấu lập một quốc gia độc lập. Đầu thế kỷ 20, dân Do Thái ở Âu Châu, nhất là ở Liên xô bị đàn áp tàn nhẫn, họ tìm về quê hương càng nhiều. Trong thế chiến thứ II, số người rải rác khắp nơi khoảng 16 triệu người, và Hitler đã giết hơn 6 triệu dân Do Thái tại các trại tử thần (death camps), lò hơi ngạt (gas chambers), những cuộc tàn sát này được gọi là cuộc sát sinh tập thể (Holocausts). Ngày 14-05-1948 là ngày tuyên bố độc lập của Do Thái… Năm 1949 được Liên Hiệp Quốc công nhận, nhưng cũng từ đó phát sinh ra các cuộc chiến tranh Do Thái, Ả Rập, Hồi Giáo. Chiến tranh đã và đang tiếp diễn qua các cuộc khủng bố tàn bạo trong nhiều năm qua.
Đất nước Israel đi đâu cũng toàn thấy đá. Những đồi núi đá chập chùng nhìn ngút mắt. Những cánh đồng ngổn ngang những viên đá tảng. Rất nhiều sa mạc, nghèo về tài nguyên nhưng Israel là nơi được biết đến nhiều nhất trên thế giới với tên gọi quen thuộc được mọi người nhìn nhận: Đất Thánh. Đất mà Đấng Cứu Thế đã sống, đã giảng dạy, đã làm phép lạ, đã chịu khổ hình thập giá. Du khách hành hương bùi ngùi xúc động, thành kính chiêm ngưỡng những dấu tích Chúa đã đi qua. Yêu mến quỳ gối hôn lên những tảng đá đặc biệt với lời cầu nguyện tha thiết.
A. NHỮNG ĐỊA DANH HÀNH HƯƠNG:
Tel Aviv.
Tel Aviv, có nghĩa là đồi mùa xuân, thành phố mới, hiện đại với các cơ quan hành chính, các tổng lãnh sự quán các nước. Thành phố xây dựng mới 100 năm, các toà nhà cao ốc mới có 15 năm qua, hiện đại như thành phố Thượng Hải của Trung quốc. Tel Aviv có nửa triệu dân, là trung tâm kinh tế lớn nhất Israel, có nhà máy điện hạt nhân, nền nông nghiệp với kỹ thuật tân tiến, trái cây đặc sản thế giới. Dọc Tel Aviv về phía Tây là Địa Trung Hải, đi khoảng 2 giờ về phía đông là dãi Gaza.
Césaré
Xe đưa đoàn đi Césaré, một thành cổ được xây dựng  từ thế kỷ 20 TCN của Lamã, pháo đài kiên cố theo kiến trúc kiểu Ý. Đấu trường có sức chứa hơn 3000 người nằm sát bờ biển, nằm cạch đó còn có hải cảng và trường đua ngựa. Người Ảrập đã chiếm nơi này và và phá huỷ công trình, bây giờ chỉ còn lại những dấu tích. Nơi đây có đặt tảng đá mà Philatô kết án Chúa Giêsu. Thánh Phaolô bị bắt và nhốt ở đây trước khi bị giải sang Roma.
Núi Carmel.
Thành phố Haifa có 400.000 dân cư với 7 sắc dân sinh sống. Thành phố thương nghiệp với cảng Haifa và là miền đất đẹp nhất của Israel. Núi Carmel cao 1000m. Ngôi nhà thờ thật đẹp trên núi cao do các tu sĩ dòng khổ tu Carmel xây dựng từ năm 1245. Núi Carmel nổi tiếng là nơi xưa có cuộc thách thức của tiên tri Êlia đối với các tư tế thần Baal để cho dân nhận biết Thiên Chúa thật là Đấng nào (1 V18.20-46). Trong đền thờ này vẫn còn tượng của tiên tri Êlia.
Chúng tôi tham quan nhà thờ Đức Mẹ Sao Biển trên núi Carmel, dâng thánh lễ và ăn trưa ở đây. Khí hậu rất lạnh 7 o C.
Nagiarét.
Tại Nagiarét, chúng tôi ở 2 ngày tại khách sạn Grand New Hotel để đi tham quan các thánh tích miền Bắc.
Làng Nagiarét năm xưa nằm ở vị trí hẻo lánh, xa xôi, nghèo nàn và cô lập.Chúa Giêsu đã sống 30 năm ẩn dật trong một gia đình nghèo miền cao nguyên này. Ngày nay Nagiarét trở thành một trung tâm hành hương lớn nhất và là một thị trấn sầm uất của miền Bắc Israel. Chúng tôi gặp nhiều đoàn lữ hành từ Phi Châu, Âu Châu và cả Á Châu… Các bạn Phi Châu hoạt náo vui vẻ và rất thân thiện.
Núi Tabor.
Từ khách sạn ở Nazareth chúng tôi đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây Ôliu, vườn chuối, vườn cam. Lên dốc cao, đổi xe chuyên dụng leo núi. Đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường đèo ngoạn mục. Trời thật lạnh khoảng 4o C, gió thổi rét buốt trên Núi Tabor có độ cao 600m,làm ai nấy run lên vì lạnh. Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa, là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môisê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ thân tín.Chúng tôi viếng Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Samir giải thích nhiều điều lý thú. Những con số kỳ diệu của Thánh kinh là: 1-3-7-12-40. Chẳng hạn như số 3: Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống – Nazareth, một thị trấn sầm uất – Tabor, ngọn núi thiêng liêng, tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật Mosaic phía trên bàn thờ khắc hoạ chân dung Chúa biến hình giữa hai ông Môisen và Êlia. Có 2 phòng nguyện nhỏ 2 bên tiền sảnh vẻ chân dung Môisen và Êlia phía trên bàn thờ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt, và đã trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố trên núi Tabor vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
                                                     
Phòng nguyện giếng Đức Mẹ, Nhà thờ Thánh Giuse.
Chúng tôi thăm giếng Đức Mẹ. Thinh lặng đi qua Nhà thờ kính Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel của Chính Thống giáo Hy Lạp quản lý, nghe tiếng nước chảy róc rách, chúng tôi thấy giếng nước sâu khoảng 2m, nước trong vắt chảy ra từ mạch ngầm. Có vòi nước dẫn lên phía trên, ai cũng uống một ly, nước ngọt lạnh buốt. Mấy bà múc vài chai nước Đức Mẹ để đem về quê nhà. Thánh đường nằm tọa lạc trên một con suối mà tương truyền là mạch nước chảy vào giếng làng Nagiarét, nơi ngày xưa Đức Mẹ vẫn thường đến múc nước.Có hai truyền thuyết về buổi truyền tin. Theo Chính Thống giáo thì cho rằng Sứ Thần Gabriel đã hiện ra lúc Đức Mẹ một mình ở bờ giếng làng. Cả làng chỉ có một giếng nước duy nhất để kín nước. Còn theo Công Giáo thì Sứ Thần hiện ra lúc Đức Mẹ đang làm công việc nội trợ hay đang cầu nguyện tại nhà. Vì thế Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin đã được xây dựng ngay trên ngôi nhà Đức Mẹ đã ở năm xưa.
Thăm xưởng mộc của Thánh Giuse. Chật chội, trông quá đơn sơ, nghèo nàn ! Chính nơi đây Chúa Giêsu đã cần cù học nghề với Thánh Giuse, cùng làm việc cực nhọc để nuôi sống gia đình. Thiên Chúa làm người đã sống, đã cảm nghiệm, đã thực hành trước những lời Người sẽ rao giảng, trong suốt 30 năm âm thầm lặng lẽ. Có mấy bức tranh sống động vẽ cảnh Thánh Giuse sinh thì trong tay Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Bên trên xưởng mộc, một nhà thờ khang trang dâng kính Thánh Giuse.
Thăm Hội đường Do Thái, nơi Chúa giảng, khởi đầu sứ vụ của: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18).
Vương cung thánh đường Truyền Tin
Đại Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin được xây dựng ngay trên ngôi nhà Đức Mẹ đã ở năm xưa.. Ngôi nhà thờ có hai tầng rất đồ sộ, được coi như là một trong những nhà thờ lớn nhất, và nguy nga nhất thánh địa. Ban đêm ngọn tháp được thắp sáng trông như một bó đuốc rực rỡ, nổi bật trên bầu trời đêm của thành phố. Tầng dưới được bao bọc bởi những di tích của các nhà thờ vào thời Byzantine (324-640) và thời Thập Tự Chinh (1099-1291). Chúng tôi dâng lễ tại tầng dưới phía trước tấm đá nơi Đức Mẹ quỳ để thưa lời xin vâng, bên cạnh những hàng chữ Latinh: Verbrum caro hic factum est (Ngôi Lời đã trở thành người phàm ở nơi đây). Mọi người lần lượt hôn kính phiến đá ghi lại kỷ niệm đẹp đẽ và sâu lắng nhất của cuộc đời Đức Mẹ. Phiến đá ghi những hình chữ thập, chỉ là vật cô tri vô giác, nhưng sao nó linh thiêng quá! Khởi đầu chương trình nhập thể  vĩ đại lại diễn ra trong suốt khung cảnh tầm thường như thế với sự đón nhận của một thôn nữ nghèo nàn, đơn sơ, mộc mạc, thanh khiết.
                                                     
Bức tường theo chữ L ngoài nhà thờ, có rất nhiều bức tranh khảm đá hình Đức Mẹ  của nhiều nước trên thế giới. Chúng tôi cảm động dừng chân trước bức ảnh Đức Mẹ Việt Nam, thực hiện bằng mỹ thuật ghép đá màu (mosaic), bên cạnh Đức Mẹ Thái Lan. Đây là bức tranh của họa sĩ Nguyễn Khắc Nhân do một phái đoàn hành hương Việt Nam dâng tặng năm 1989. Cha Hội mời mọi người đọc kinh và cầu nguyện với Đức Mẹ.                                                                   
Cana.
Cana là nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên, hóa nước thành rượu hảo hạng (Ga 2, 1-12). Cana cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của tông đồ Nathanael (Batôlômêô). Những chum đá đựng nước đã hóa rượu vẫn còn lưu giữ, những chai rượu Cana làm quà lưu niệm, giấy chứng nhận hôn phối của cha phụ trách nhà thờ Cana…là những thông tin làm cho chúng tôi nôn nao muốn đến ngay Cana.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại đây. Ngài biến nước thành rượu (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: họ hết rượu rồi. Chúa bảo gia nhân : “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon, khiến người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.
Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).
Từ chỗ dừng xe phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.
Bên trong thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V, có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa, như muốn nói về đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi, để kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn, đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana đựơc các nhà khảo cổ tìm thấy.
Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa.
Bên cạnh Nhà thờ Công Giáo còn có Nhà thờ Chính Thống Hy Lạp, cũng được xây dựng để kính nhớ phép lạ Cana.
Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.
Có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana, nhưng ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.
Biển hồ Galilê.
Thời chủng viện, học môn Tân ước với cha giáo Giuse Kỷ, chúng tôi nghe ngài kể về biển hồ Galilê, nước trong xanh có nhiều cá, nay đứng trên du thuyền dạo chơi khắp hồ, thoả thuê ngắm trời ngắm nước, ngắm cá bơi lội tung tăng. Thật thú vị và cảm động khi đứng nơi đây nghĩ về một thời, Chúa đã sống một quãng đời sứ vụ rao giảng.
Thuyền tắt máy giữa trời đất bao la, nước trôi lặng lẽ, người hướng dẫn đề nghị thinh lặng để suy gẫm. Phía trước mặt là núi bát phúc, thành cổ Caphanaum, bao nhiêu là câu chuyện phúc âm…
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.Trong giáo xứ của tôi cũng có một nghiên cứu sinh du học nông nghiệp tại đây.
Tại Galilê và trên bờ sông Jordan, Chúa đã chọn 12 tông đồ. Khởi đầu là Giacôbê, Gioan, Anrê. “Các ngươi tìm ai? Họ thưa: Rabi, Thầy ở đâu? Ngài đáp: Hãy đến mà xem”... Và sau đó là Phêrô, rồi đến Phlípphê, Batôlômêô và lần lượt các môn đệ khác (trong đó có cả Giuđa bán Chúa). Con số 12 là một biểu tượng: Giáo hội sẽ có 12 nền tảng cũng như Israel có 12 chi tộc. Vì thế, sau ngày Chúa sống lại, các tông đồ đã chọn Matthia thay thế Giuđa Iscariot cho đủ số.
Đoàn chúng tôi trở về Nazareth theo đường qua thành phố Tibêrias.
Thành Phố Tibêria được coi là một trong 4 thành thánh của Do Thái (Jerusalem, Hebron, Safed, Tiberias). Vào năm 1033 Tiberia bị tàn phá bởi trận động đất lớn, sau đó thành phố được xây lại. Hiện thời dân cư ngụ nơi đây toàn là người Do Thái. Với bờ biển tuyệt đẹp. Ngày nay Tibêria là nơi nghỉ mát nổi tiếng với những khách sạn nhà hàng sang trọng.
Caphanaum
Sau phép lạ tiệc cưới Cana mà Thánh Gioan gọi là “dấu lạ”, Chúa cùng với Mẹ, các môn đệ xuống Caphanaum và ở lại đó ít ngày (Ga 2,12) rồi Ngài lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua, ở đó Ngài làm nhiều phép lạ, nhiều người tin Ngài. Ở đó, Ngài đàm đạo với ông Nicôđêmô, thuộc nhóm Biệt phái, là nhân viên hội đồng, người học rộng, bậc vị vọng. Ông ngạc nhiên khi ngồi nghe Chúa nói, nhưng vẫn còn chút dè dặt. Sau đó, Chúa Giêsu về lại Galilê. Ngài phải đi qua xứ Samaria (Ga 4,4). Tại đây, Ngài truyện trò với một thiếu phụ Sammaria, Người thiếu phụ được nghe Chúa nói và bà nhận ra Ngài là ai, vội vàng đi loan tin cho cả làng biết mình đã gặp Đấng Messia.
Caphanaum là một thành phố trên bờ Tây-Bắc biển hồ Galilê. Ngày nay gọi là Tellhum. Chúa Giêsu lấy thành này làm trung tâm hoạt động vào đầu thời kỳ truyền giảng công khai. Caphanaum thời đó là nơi sầm uất nối liền Damas và Ai Cập, dân cư làm nghề đanh cá, buôn bán. Chung quanh hồ Galilê, ngoài Caphanaum còn có thị trấn Hippos, Sennabris, Tarichée, Tibêria, Magdala, Bếtsaiđa đều nằm trên vành đai nhìn ra biển hồ.
Caphanaum, Chúa dành một sự trìu mến ban đầu, Matthêu viết “Người về thành của Người” (Mt 9,1), nơi Chúa hứa ban phép Thánh Thể, vị trí nhà của ông Giairô được Chúa ban cho con gái sống lại (Mc 5,22; Lc 8,41-56), nơi Chúa chữa lành người đàn bà loạn huyết (Mt 9,20-22; Mc 5,25-34; Lc 8,43-48), người bất toại do bốn người khiêng đến (Mt 9,1-8; Lc 5,17-26), người phong hủi và những bệnh nhân được Tin Mừng nhắc đến cách chung (Mc 2,40-45).
Caphanaum thời xưa là một ngôi làng rất sầm uất. Còn bây giờ chỉ là những phế tích lịch sử ghi dấu thánh thiêng của Chúa và các Tông đồ. Các dấu tích nơi đây không phai mờ với thời gian.
Sau 2000 năm Caphanaum không được tái tạo bao nhiêu. Nó vẫn còn nhiều phế tích. Người ta giải thích là do lời chúc dữ của Chúa Giêsu,vì dân ở đó không tin, dù đã thấy nhiều phép lạ (Mt 11,23-24). Cả ba thành bị chúc dữ : Khốn cho người hỡi Khorazin ! khốn cho ngươi hỡi Bếtsaiđa, còn ngươi nữa hỡi Caphanaum…
- Khorazin: Một thành ở miền Galilê, cách Capharnaum 3 Km về hướng Bắc. Thành bị chúc dữ, đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon được xử khoan hồng hơn các ngươi.
- Bétsaiđa : Một thành ở bờ hồ Galilê, dân cư sống bằng nghề chài lưới. Ngày nay gọi là Kh.el Araj. Quê hương của các tông đồ Philipphê, Anrê và Phêrô (Ga 1,44; 12,21). Một người mù được Chúa chữa khỏi ở thành này (Mc 8,22-26). Trong biến cố bánh hoá ra nhiều, các tông đồ lên thuyền về Betsaida, gần tới nơi, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước (Mt 6,45-52). Chúa cũng nguyền rủa thành này vì dân ở đây đã chứng kiến nhiều dấu lạ mà không hối cải.
- Nhà thánh Phêrô :
Thánh đường thánh Phêrô ở giữa một khuôn viên rộng lớn với nhiều chứng từ được khai quật. Nhà thờ được xây từ thế kỷ thứ 5, theo lưu truyền đó là nhà Thánh Phêrô, một trong những tông đồ đầu tiên. Tại nhà này, Chúa chữa nhạc mẫu ông Phêrô, chữa nhiều bệnh nhân, người bị qủi ám (Mc 1,29-34), chữa người bất toại (Mc 2,1-12) Chúa quả quyết Ngài có quyền tha tội (Mc 2:10). Chúa thường nghỉ ở nhà ông Phêrô trong thời gian người thi hành sứ vụ tại Galilê...
- Hội Đường Caphanaum:
Tại hội Đường Caphanaum, Chúa giảng về “Bánh hằng sống” (Ga 6:26-40). Chữa người bị quỉ ám trong hội đường (Mc 1,23-28). Một máy ép dầu Ôliu cổ ở Caphanaum được phát hiện trong lúc khai quật Hội đường Do Thái năm 1950. Kinh Thánh nói đến máy ép vì Palestin là vùng có nhiều nho (Tl 7,27; G 24,11). Có lúc người ta đưa máy ra vườn để sơ chế, lấy nước, cùng với máy ép là một thùng ủ để làm rượu, lấy dầu. Ngoài lúa mì và rượu, dâu là loại nhu yếu phẩm chính của người Palestin. Dầu nấu ăn (Lv 2,4), dầu thắp đèn (Mt 25,3-8), dầu là dược liệu chữa trị bệnh tật. Chúa Giêsu dùng dầu để chữa các bệnh nhân (Lc 10,34; Mc 6,13...).
Núi bát phúc.
Là nơi Chúa giảng dạy về Tám Mối Phúc (Mt 5, 1-12), được gọi là Hiến Chương Nước Trời, là con đường nên thánh. Nhà thờ Bát Phúc được xây dựng theo mô hình bát giác, tượng trưng tám mối phúc. Toà Thánh đã mua đất khu vực rộng lớn này. Dòng Phanxicô quản lý, có nhiều cơ sở mới đang được xây cất.
Chúng tôi hạnh phúc được dâng thánh lễ CN III Mùa Chay tại Nhà thờ Bát Phúc, trong khi đó có nhiều đoàn dâng lễ ở những lều bạt bên ngoài. Đủ mọi ngôn ngữ, khác biệt nhưng lại duy nhất trong tâm tình hiệp thông tạ ơn.
Vào năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến đây từ lộ trình Núi Sinai và dâng lễ trên một ngọn đồi với hàng ngàn người tham dự. Năm 1964, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã theo lộ trình từ Núi Tabor viếng thăm nơi này.
Nhà thờ Tối Thượng Quyền
Sau thánh lễ, chúng tôi rời núi bát phúc, đến thăm nhà thờ Tabghar (7con suối), nơi Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Thật đáng tiếc, nhà thờ đóng cửa vì hôm nay là Chúa Nhật III Mùa Chay. Một thoáng buồn được lấp đầy bằng niềm vui khi viếng nhà thờ và nghịch nước biển hồ Galilê.
Nơi đây Chúa trao quyền chăm sóc đàn chiên cho Phêrô (Ga 21, 1-19).
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai : cuộc đời phần một,từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai,từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.
Trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14,66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời phần một của ông có nét chân dung thế này : Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
* Mắng lần đầu tiên : Quân yếu tin ( Mt 14,31)
* Lần thứ hai : Ngu tối ( Mt 15,16)
* Lần thứ ba : Satan ( Mc 8,33)
Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan (Ga 21,2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đếm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.
Chúng tôi đang đứng trên bờ biển hồ mà năm xưa Chúa hỏi về lòng mến và trao quyền cho Phêrô.
Nhớ đến đoạn Phúc âm kể câu chuyện, đêm hôm ấy họ không bắt được con cá nào…rất giống như lần đầu tiên lúc họ mới gặp Chúa. Rồi có một người đứng đó. Người ấy bảo đem lưới mà thả bên phải mạn thuyền. Họ làm như thế và bắt được rất nhiều cá. Gioan thốt lên: "Thầy đó" (Ga 21,1-7) Phêrô choáng váng. Ông vội khoác áo vào, nhảy xuống khỏi thuyền bơi thật nhanh lên bờ. Thầy đã nhóm lửa và bảo họ lấy cá. Phêrô vội vàng thi hành. Ông không dám hỏi một lời.  Sau bữa ăn, Chúa phá vỡ im lặng. Ngài quay về phía Phêrô. Ông vẫn im lặng. Chúa hỏi : "Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?.(Chúa gọi ông bằng tên riêng của ông chứ không gọi bằng tên Chúa đặt: Phêrô : Đá)    Ông cảm thấy như đau nhói ở trong lòng. Trả lời với Thầy làm sao bây giờ. Ông còn có quyền nói là ông yêu Chúa nữa hay không. Dù sao thì ông cũng không thể nói trái với sự thật. Ông để cho Chúa phán xét: "Thưa Thầy, thầy biết con yêu mến thầy". Có những điều người đời không thể biết nhưng Chúa biết. Ông không nói dối. Một con người đã có lần phản bội, đã có lần chối Chúa, đã có lần rất tầm thường như ông làm sao mà có thể dám quả quyết. Nhưng tự trong thâm tâm, tự trong đáy lòng ông vẫn mến Thầy chân thành. Ông nói rất thật. Chúa lại nhìn ông một lần nữa rồi Ngài lại lập lại cũng một câu hỏi trên: "Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Ông cũng lại lập lại câu trả lời như ông đã trả lời ở trên. "Thưa thầy có. Thầy biết rằng con yêu mến Thầy".
Rồi lần thứ ba Chúa hỏi lại để được nghe lại một lần nữa lời tuyên xưng tình yêu của một kẻ được Chúa yêu thương nhất nhưng cũng đã vấp phạm nhiều nhất. "Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy không?. "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy".
Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Ba lần ông chối Chúa, ba lần Chúa cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói tình yêu, để tuyên xưng lòng tin tưởng của mình. Không một lời rầy la, không một lời trách móc, không một lời buộc tội, chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương. Đó là cách Chúa cư xử với những kẻ khiêm nhường. Nhờ vậy Phêrô bắt đầu một đoạn đời mới. Chúa trao quyền cho Phêrô : "Hãy chăn giữ các chiên của ta". Thế rồi Chúa bảo ông : hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây trên tảng đá Phêrô, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha. 
Trời đã trưa, chúng tôi đi ăn món « cá Phêrô » tại nhà hàng Tanureen. Cá đánh bắt ở hồ Galilê trông giống như cá điêu hồng, nhưng với thương hiệu « cá Phêrô », món ăn càng thêm hấp dẫn.
Jordan
Sau 30 năm sống âm thầm, ẩn dật ở Nazareth, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai về Nước Thiên Chúa. Người đến chịu Phép rửa ở sông Jordan. Đọc Phúc Âm tôi nghĩ Jordan là một con sông lớn lắm, ai dè khi đến nơi, thấy nó bé nhỏ như một con kênh giữa miền Tây sông nước.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Jordan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn siết chảy thì dòng Jordan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Jordan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Jordan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn. Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thiên Chúa, Đấng cho Cửu Long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạng gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Jordan bé nhỏ. Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì dòng sông Jordan bé nhỏ ấy là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc1,5) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Ngài là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là sự hạ mình sâu thẳm của Đấng Thánh và là một cuộc gặp gỡ lịch sử Cưụ ước – Tân ước. Biến cố không chỉ loan báo trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu mà còn loan báo về sự phục sinh vinh quang của Người. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô, vị ngôn sứ của thời kỳ mới. Cuộc gặp gỡ này không phải là một cuộc tranh cãi dành ưu thế, nhưng thật thú vị tuyệt vời khi cả hai đại biểu đều khiêm nhường đón nhận nhau trong sứ vụ. Chúa Giêsu từ tốn bước xuống dòng nước Jordan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.Gioan hân hạnh xin Chúa Giêsu rửa cho mình vì ông nhìn thấy đây mới chính là nhân vật ban phép rửa trong Thánh Thần như ông đã loan báo. Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này, Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao. Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với niềm hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc gặp gỡ giữa hai Đấng tại sông Jorđan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo hội chọn làm khởi điểm cho mùa thường niên là mùa phụng vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu. Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và nước, giữa Tân ước và Cựu ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí tích Rửa tội của Chúa Giêsu, chúng ta nhận đước ấn tín của Chúa Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa .
Như một thân thể của xứ Palestine, góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Chúa chọn dân Do thái. Từ Jordan chuyển từ tiếng Do thái, hayyarden, có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sộng dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc, chảy qua biển hồ Galilê và cuối cùng đổ vào Biển Chết. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestin, sông Jordan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: Khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông. Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này, khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Jordan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Jordan, các chi tộc vượt sông Jordan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Jordan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Jordan...” (Gr 12:5; 49:19; 50:44) qua Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êliđeo xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel (chương 47) diễn tả sức sống sung túc của sông Jordan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó. Với Kinh Thánh Tân ước, sông Jordan là nơi Gioan làm phép thanh tẩy, thống hối và Chúa Giêsu nhận lãnh nghi thức thiên hạ này để mở đầu hoạt động công khai.
Rời Jordan, xe đưa chúng tôi đi qua nhiều sa mạc miền Trung. Đường sá ở Israel thật tốt, 2 làn xe phân biệt trên quốc lộ, có nhiều cầu vượt. Một hành trình dài mấy trăm cây số chẳng thấy bóng cảnh sát giao thông. Việt nam thì quá nhiều, huyện nào, tỉnh nào cũng thấy công an giao thông.
Đi qua thung lũng Jordan, bên trái thuộc lãnh thổ Jordan, bên trái thuộc Israel. Qua trạm gác có nhiều anh lính Palestin cầm súng kiểm soát, chúng tôi đến lãnh thổ Palestin rồi ngang qua vùng đất Giêricô tiến về Giêrusalem trong nắng chiều vàng nhạt.
Giêrusalem, thành thánh với bao câu chuyện Thánh kinh hấp dẫn. Bêlem, nơi Chúa Giáng sinh,Giêricô với cây sung Giakêu, núi cám dỗ, Bêtania nơi có mộ Lazarô, rồi Biển chết, Qumran…biết bao địa danh lôi cuốn lữ khách.
Nguyễn Hữu An

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét