Trang

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

Hành hương Đất Thánh (II)




Hành hương Đất Thánh (II)


Nguyễn Hữu An
Giêrusalem
Thời Chúa Giêsu thành Giêrusalem ở trên hai ngọn đồi, giữa là thung lũng Tyropeon, xuyên qua hai đồi đó theo hướng bắc nam. Đồi phía tây là khu cư xá và đồi phía đông là khu Đền thờ. Mạn đông Đền thờ là thung lũng Cedron. Bên kia thung lũng Cedron là núi Cây dầu. Thung lũng Cedron gặp thung lũng Gehenna ở mạn nam Đền thờ. Thung lũng Gehenna là ranh giới thành Giêrusalem về phía tây.
Cuộc Tử nạn tại Giêrusalem của Đấng Cứu Thế được bốn Phúc Âm kể lại một cách tỉ mỉ nên có thể theo dõi một cách dễ dàng những việc đã xảy ra trong mấy ngày đầy những kỷ niệm thánh đó.
Đoạn đường cuối cùng của cuộc hành trình Cứu độ diễn ra từ thung lũng sông Giordan tới Giêrusalem. Ở đây Phúc Âm Thánh Luca đã cho biết khá đầy đủ về chi tiết. Từ Giêricô, trong thung lũng sông Giordan, Chúa Giêsu lên miền lân cận Giêrusalem.
Thành Giêrusalem có đồi vây xung quanh : bên đông là núi Cây dầu, trên núi có đường đi từ Giêrusalem tới Giêricô. Trên sườn núi phía đông có làng Bêthania, quê hương Matta, Maria và Lazarô. Trên đỉnh núi Cây dầu có làng Bethphagê, ở khoảng này Chúa đã bắt đầu cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem. Gần đó là nơi mà Chúa đã dạy kinh Lạy Cha và giảng về thế mạt. Trước những ngày Tử nạn, theo Phúc Âm Thánh Gioan, ta biết Chúa Giêsu đã nhiều lần tới Giêrusalem.
Phúc Âm Thánh Gioan còn cho biết những nơi Chúa đã qua : hồ Bêzatha có năm dãy hành lang ở gần cửa Chiên (Ga 5,2) về mạn bắc Đền thờ; hồ Siloê ở mạn nam đồi Ophel (Ga 9,7) gần đó có tháp Siloê mà Phúc Âm Thánh Luca đã nhắc tới (Lc 13,4). Đền thờ là nơi Chúa hằng tới viếng mỗi khi tới Giêrusalem và cũng là nơi đã chứng kiến những cuộc tranh luận gay go giữa Chúa Giêsu và các kẻ muốn loại trừ Ngài. Đáng chú ý là hành lang Salomon về mạn đông. Góc đông nam sân Đền thờ là “Pinnaculum templi” (nơi cao của Đền thờ), là nơi, theo cổ truyền, quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống.
Nhờ đã đọc và học Thánh Kinh nên khi hành hương đến Giêrusalem, tôi càng xác tín và thêm lòng yêu mến Chúa.
Đọc 2 bài hành hương Đất Thánh trên mạng, Cha Tự Cường-OP gởi tặng cho tôi cuốn sách thật hay. Cuốn “What Jesus saw from the Cross” – “Những điều Đức Giêsu trông thấy từ cây thập tự”. Tác giả A. D. Sertillanges, O.P; Người dịch Fr. Thomas Tuý, O.P.
Cha Sertillanges là tu sĩ Đaminh, người Pháp sống ở đầu thế kỷ 20. Ngài là chuyên viên về Thánh kinh, khảo cổ, thuyết giảng, giáo sư nhiều năm ở trường Kinh thánh Đaminh ở Giêrusalem.
Tham khảo thêm cuốn “Trên đỉnh cao thập giá” của Đức Giám mục Fulton Sheen. Nhờ vậy tôi có nhiều tư liệu để viết về thành Thánh Giêrusalem.
Giêrusalem được xem là thành phố thiêng liêng của ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Tư liệu lịch sử cổ Ai Cập đã nói đến Giêrusalem, có từ 3.000 năm trước CN.
Với người Do Thái giáo, Giêrusalem là nơi Đavít lập thành đô.
Với người Kitô giáo, Giêrusalem là nơi xảy ra nhiều sự kiện cuối đời của Chúa Giêsu, nhất là biến cố tử nạn của Ngài.
Với người Hồi giáo, Giêrusalem là nơi giáo chủ Mahômét đã đến hành hương, là thánh địa quan trọng của họ sau Mecca và Medina trung tâm của đạo Hồi ở Ả rập Sauđi.
Giêrusalem, tiếng Do Thái gọi là Yerushalayim, người Ả rập gọi là Al Quds, có nghĩa là thành phố văn hoá đa dạng. Như một trung tâm tôn giáo quan trọng vào thời cổ, thuộc miền Cận Đông, Giêrusalem như ngã tư nơi xảy ra nhiều cuộc tranh chấp. Khảo cổ xác minh điều đó ở những di tích của thành cổ còn sót lại.
Sau chiến tranh giữa khối Ả rập và Israel vào năm 1948, Liên Hiệp quốc chính thức can thiệp. Sau nhiều tháng dàn xếp của thế giới bên ngoài, năm 1949 Israel và các quốc gia Ả rập (Ai Cập, Syri, Liban, Jordan) đã đồng ý việc phân chia ranh giới của Liên Hiệp quốc về một Israel theo như bản đồ, trong đó Giêrusalem chia làm hai: Khu Cổ thành thuộc về Cisjordani (xứ nằm bên kia bờ sông Jordan), khu mới thuộc về Israel. Nhìn vào bản đồ, cả hai bên không mấy hài lòng. Không chỉ là đất đai bình thường, ở những phần đất ấy còn liên hệ đến những gì linh thiêng nhất vì tôn giáo và lịch sử của Israel cũng như các nước vùng Cận Đông là một.
Năm 1956 chiến tranh lại xảy ra, nhưng không giải quyết được gì. Năm 1967, một cuộc chiến khác, người ta gọi là: Chiến tranh Sáu Ngày. Ở trận Jordani, Israel bất thần đổ bộ vào khu vực cổ thành, họ đã chiếm trọn. Họ tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giữ Thánh địa Giêrusalem. Còn về phía Jordani thì vua Hussein đã tuyên bố với quốc dân: “...quân đội chúng ta đã đổ máu để bảo vệ từng thước đất của non sông và máu của họ còn chưa khô... Bây giờ sự tình như vậy rồi, lòng tôi nát tan khi nghĩ đến những chiến sĩ đã ngã gục trên chiến trường, nghĩ đến phần đất thiêng liêng của tổ tiên...”. Chiến tranh tranh giành phần đất thánh của hai bên vẫn tiếp tục xảy ra cho đến ngày nay. Thánh địa Giêrusalem vẫn là nơi xảy ra những cuộc tranh chấp, được khoanh vùng, thế giới đang tìm cách giải quyết, Giêrusalem không chỉ là quyền lợi của nhà nước Jordani mà của Cisjordani (hay Transjordani) một nước Palestine bị xoá xổ kể từ khi Israel đánh chiếm Giêrusalem vào năm 1967.  
Giêrusalem chia thành hai khu: khu vực cổ gồm các Thánh Địa, masculin khu vực mới gồm nhà ga, các trung tâm thương mại...
Người Do Thái xem Giêrusalem như thủ đô, Liên Hiệp quốc không công nhận điều đó, ngày nay các trung tâm ngoại giao, hành chính đều nằm ở Tel Aviv. Giêrusalem ở trong một vị thế như lạc lõng với những vùng đất bên ngoài vì: ra khỏi Giêrusalem ít Km là những vùng đất núi đồi khô cằn. Phía đông là Biển Chết, nước rất mặn không sinh vật nào sống được. Trên bờ Biển Chết, còn lại di tích của Sodoma và những phát hiện Qumran gọi là “Những cuộn giấy da vùng Biển Chết”, ở Biển chết mặt đất lõm xuống, nơi thấp nhất thế giới, 394m so với nước biển.
Thánh địa từ nhiều thế kỷ chia thành từng khu. Hiện nay, khu người Kitô giáo 2,5% gồm cổng Goá phụ, Thánh đường Mộ Thánh, con đường Chúa vác thập giá. Khu người Hồi giáo 25% gồm cổng vua Herod, cổng thánh Etienne, masculin cổng Dorée gần vườn Giếtsêmani và núi Cây dầu bao gồm cả Đền thờ chính và giáo đường AlAqsa và giáo đường Omar xây năm 691 sau CN, bức tường Than Khóc. Khu vực Chính Thống Armêni gồm thành và pháo đài vua Đavít, dinh thự vua Herod. Khu vực người Do Thái 70% gần như bị phá huỷ năm 1948 và được xây lại từ năm 1967.
Giêrusalem nằm trên một ngọn đồi ở độ cao 800m. Khu vực mới do viện Knesset quản lý gồm nhiều tu viện, một trường đại học và đài tưởng niệm Yad Vashem.
Có thể hiểu nguyên nhân việc phân chia, tranh dành các di tích Thánh ở Giêrusalem của người Hồi, Do Thái và Kitô giáo. Cả ba tôn giáo độc thần, với Kinh Thánh, Abraham là Tổ Phụ. Tuy rằng Mahômét là người sáng lập đạo Hồi, người Ả rập tin Ismael là thuỷ tổ của họ, Ismael lại là con của Abraham và nàng hầu Agar. Mahômét nhìn nhận các sách của Môisen, Thánh vịnh và các sách Tin mừng như là sách Thánh. Chúa Giêsu như là vị ngôn sứ, Mẹ Maria cũng được tôn kính đặc biệt.
( Mahômét sinh tại LaMecque vào năm 570. Năm 610 ông bắt đầu giảng tại quê nhà về ngày phán xét của Chúa, một Thiên Chúa gọi là Đấng Allad mà ông tự xem mình là vị Đại tiên tri cuối cùng và ông mời gọi họ sám hối. Đồng hương của ông không nghe. Ông bèn qua thành La Mecque năm 622. Ở đây ông thành công. Rồi ông dùng võ lực khuất phục đồng hương. Ông mất năm 632. cuốn kinh Coran được xem như kinh thánh của đạo Hồi. Đạo Hồi lan tràn mạnh với khẩu hiệu – Tin hay Chết). 
Lịch Sử thành Giêrusalem:
Lịch sử của Thành Thánh là những cuộc chiến tranh, thôn tính, tàn phá và xây dựng lại. Đế quốc Babilon, Batư, Hylạp, La Mã, Byzantine, Thỗ Nhĩ Kỳ, Ottoman, Đế Quốc Anh đều đã đặt chân lên Giêrusalem. Có lẽ ít nơi nào trên thế ghi lại chứng kiến sự biến thiên cũng như sự cộng hưởng của nhiều nền văn hóa, tôn giáo như miền đất này. Trong mọi thời kỳ, đền thờ vốn là biểu tượng của Israel vinh quang và nhục nhã, trung thành và phản bội.
Ba ngàn năm trước CN, Giêrusalem chỉ là vùng đất nhỏ bé. Người Canaan đã đến đó sinh sống, đồng hoá sắc dân bản địa. Họ ở trên vùng đất cao, dùng nguồn nước cạnh Gikhon, nằm giữa hai thung lũng Cedron và Tyropocon. Khoảng năm 2000, dân Amôri chiếm được miền này. Khoảng 1800, họ thành lập thành luỹ ở Giêrusalem, tường thành bao gồm cả đất của dixième dân và chiếm Ôphel ở phía bắc, họ còn đào một đường hầm xuyên qua đá để lấy nước ở suối Gikhon. Vào thế kỷ 14, các bức thư của El Amarna cho biết Giêrusalem lọt vào tay một quân vương tên là AbbiHepa. Sự thống trị của người Canaan kéo dài tới thời Đavít.
Nằm trên độ cao 800m, bao gồm thành phố mới và thành phố cổ. Thành phố cổ do vua Đavít thành lập và con ông, vua Salomon đã cho kiến thiết một Đền thờ vĩ đại nhất thời bấy giờ, nhưng Đền thờ đã hai lần bị phá huỷ và bị người La mã bình địa năm 70 sau CN. Giêrusalem trải qua một quãng thời gian dài thành nơi linh thiêng của người Kitô giáo, nhưng năm 637 người Ả rập chiếm đóng và Giêrusalem lại thành thánh địa của đạo Hồi, họ tin rằng: chính trên mỏm núi Moriah, Mahomet đã bay về trời, thế là họ cho xây đền thờ Đá (Dome of the Rock). Năm 1099, Thập Tự quân chiếm đóng, Giêrusalem thành một nước thuộc quyền người Kitô giáo và sau cuộc đánh chiếm người Hồi Ottoman 1250 lại đặt dưới sự thống trị người Hồi Ả rập.
Sau chiến tranh thế giới lần I, năm 1922 Giêrusalem đặt dưới quyền kiểm soát của người Anh. Năm 1948, người Do Thái về lập quốc, chiến tranh xung đột giữa Israel và Ả rập xảy ra, Liên Hiệp quốc đã phân chia khu Cổ thành Thánh địa Giêrusalem thuộc về xứ Jordanie. Năm 1967, chiến tranh “Sáu ngày” Israel chớp nhoáng chiếm lĩnh khu Cổ thành. Năm 1980, viện Knesset (viện dân biểu) chính thức tuyên bố “thủ đô vĩnh viễn” bất chấp sự phản đối của khối Ả rập. Trong khu vực cổ thành có các bức tường từ thời Thổ Nhĩ Kỳ, những bức tường từ thời Salomon và Herod còn dấu tích và còn nhiều di tích thánh, những vết tích Đền Thánh còn sót lại. Mỗi tôn giáo đều có khu phố riêng: khu vực Kitô giáo nằm về phía Tây Bắc quanh mộ Chúa Giêsu; khu Hồi giáo năm hướng Đông Nam trên thung lũng Cedron.
Salomon xây Đền Thờ:
Thế kỷ thứ 10 trước CN, Đavít lấy Giêrusalem làm trung tâm của nước Do Thái. Ông muốn xây một thành Thánh. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một Đền Thánh nguy nga, lộng lẫy.
Vua Salomon có vàng bạc, đàn gia súc, có mùa màng và lòng kiêu căng nhưng không có vật dụng hảo hạng, thợ lành nghề và ý niệm nghệ thuật xây dựng. Vì vậy ông phải nhờ đến các người Tyrians, họ có đủ tài nguyên cần thiết và quan niệm kiến trúc cơ bản cộng với nghệ thuật của Ai cập và Assyria.
Trong vòng bảy năm, từ 1013 tới 1006, nhà của Giavê được hoàn thành. Giống như các đền đài Ai Cập, phần căn bản của nó là Pylon hay tiền đường mặc áo, cung thánh ngoại vi hay nơi thiêng liêng, phần bên trong linh thiêng hơn, nơi cực thánh không ai được đặt chân vào ngoại trừ các thượng tế, một năm một lần. Một số các phòng phụ cận dùng vào việc phục dịch đền thờ. Toàn bộ kiến trúc được dẫy cột bao quanh gọi là hành lang có mái. Phần này được hoàn tất muộn về sau.
Bên dưới Haram của Salomon là các hồ chứa nước dùng cho các nhu cầu của nhân viên phục vụ đền thánh và việc tế lễ. Còn việc tắm rửa thì đã có một bể bằng đồng lớn gọi là "biển đồng" ( the sea of Bronze). Nó bắt chước các chậu tắm của Susa và cuối cùng là cung điện vua thượng vị với hoàng hậu của ông ở. Ông cư ngụ bên cạnh Đức Chúa của mình.
Như thế, Salomon hoàn thành công trình thật tráng lệ. Các kích thước cùng với hình thể, hoa văn, phù điêu, chữ nghĩa là phổ thông nơi não trạng Ai cập. Chiều kích của từng phần và các chi tiết được trù liệu như các yếu tố của một bài toán mà lời giải là toàn thể kiến trúc. Nền cao bên hông tam giác đều, phía trước là tam giác vuông - mà theo Platô tam giác đẹp nhất, hoàn thiện nhất là tam giác vuông góc các cạnh được đo như sau 3, 4 và 5.
Việc trang trí gồm có các tấm phù điêu dát vàng theo như thói quen người Babylon. Sàn nhà làm bằng gỗ bá hương và thông già, gồm luôn cả vỉa hè. Các bình thiêng thánh gần như bằng vàng ròng toàn khối. Các bàn lễ vật, các chân đèn, các cánh thiên thần Cherubim khắc bằng gỗ dát vàng. Các dụng cụ tuỳ tùng khác được trang trí hào phóng.
Dân Israel đã đồng hóa tình yêu đền thánh với lòng sùng mộ Đức Chúa: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, cung điện Ngài xiết bao khả ái, mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng" (Tv 83, 2-3).
Đất nước chia đôi, lưu đày
Vương triều của Salomon đến cuối đời thì bị phân chia. Trong số 12 chi tộc Israel chỉ có hai chi tộc – Giuđa và Benjamin – trung thành với nhà vua, còn các chi tộc khác lập một vương quốc mới, vương quốc Israel. Do vậy nước chia làm hai: Giuđa và Israel. Chiến tranh giữa hai nước xảy ra. Miền Bắc bị đế quốc Assyri xâm chiếm vào năm 721. Miền nam Giuđa Bị đế quốc Babilon tàn phá năm 587, Đền Thánh bị thiêu đốt, dân Do Thái phải tha phương cầu thực sống kiếp lưu đày.
Hồi hương, xây lại đền thờ lần thứ hai.
Đế quốc Assyri và Babylon bị đế quốc Ba Tư đánh bại. Năm 538, vua Ba Tư là Cyrus hạ chỉ cho phép người Do Thái lưu đầy được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Vua Zorobabel xây dựng tạm đền thờ trên đống đổ nát. Nó được đặt trên nền cũ nhưng nhỏ hơn chút ít. Năm 537, Đền thờ bắt đầu được tái thiết nhưng 17 năm ròng rã vẫn chưa xong. Sau cùng, nhờ Khacgai và Giacaria, Đền thờ được hoàn thành, được xây cất theo Đền thờ của Salomon và cùng một kích thước. Năm 445, Nêhêmia xin vua Ba Tư xây dựng lại tường luỹ bảo vệ chung quanh. Ông thực hiện trong một thời gian kỷ lục, hai tháng thì xây xong.
Đế quốc Hylạp, anh em nhà Maccabê.
Rồi thành Giêrusalem bị đế quốc Hy lạp chiếm. Năm 166-165, một cuộc nổi dậy trong dân Do Thái, ngoài Mattathia còn có anh em nhà ái quốc Maccabê, họ nổi dậy và đã thành công. Tháng 12 năm 165 Giuđa chiếm được Đền thờ, tổ chức lễ Hanmica cũng gọi là lễ Ánh sáng, để nhắc lại ngày tẩy uế và dâng hiến lại Đền thờ cách trọng thể. Cuộc nổi dậy đó không là một sự thành công hoàn toàn nhất là về phương diện tôn giáo.
Hêrôđê xây đền thờ lần thứ ba.
Ngôi đền thứ hai tồn tại cho đến khi Pompey của Roma thôn tính Giêrusalem và Hêrôđê cả tự phong mình lên ngôi vua ở thành phố. Ông vua tiếm vị và sát nhân này cho xây lại đền thờ Zorobabel, để hoà giải với dân tộc Do Thái, nhất là giai cấp tư tế và đền bù muôn vàn tội lỗi đã xúc phạm đến dân tộc ấy. Ông cần tới ba năm để thu gom vật liệu cần thiết, và bám sát vào đồ án trước đây, chỉ tôn tạo dấu vết cổ xưa, cố gắng dựng lại cách sắp xếp thuở ban đầu, mặc dù chủ yếu dùng kỹ thuật Hy lạp – Roma.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, Hêrôđê bắt tay vào việc. Mười ngàn thợ tốt được sử dụng dưới sự giám sát của một ngàn tư tế. Chỉ những tư tế này mới được làm việc nơi cung thánh và cực thánh. Trong vòng 18 tháng, phần "Naos" (nơi cực thánh) được hoàn tất và cung hiến. Tám năm nữa để xây dựng tiền đường và hành lang. Nhưng những công việc phụ kéo dài đến thời Agrippa, phỏng năm 64 sau công nguyên nghĩa là cho tới chiều hôm trước ngày lại bị tàn phá.
Xét theo tổng thể, thì ngôi đền Hêrôđê để lại, thể hiện quan niệm kiến trúc tinh tế. Các cột hành lang quay quanh một dinh cơ đồ sộ, cái nọ chồng lên cái kia, gọi là hiên hàng cột mà tuyệt đỉnh là chính cung thánh nằm ngay trên đỉnh đồi.
Coi từ phía xa, và trong nguồn ánh sáng thuận lợi, nó có một hiệu ứng ánh sáng kỳ diệu, tuờng đá cẩm thạch trắng, trang trí vàng bạc giống như một khối tuyết lóng lánh. Nhìn từ phía núi Olivêtê, khi mặt trời mọc nó sáng chói với các mái vòm mạ vàng, các cổng, các hoa văn, các dây leo to tuớng bằng vàng ròng ở cổng chính lấp loáng dưới ánh mặt trời lung linh. Trước quang cảnh rực rỡ đó, lòng khách hành hương không khỏi bùng lên một ngọn lửa kiêu hãnh, thì thầm lời Thánh vịnh: "Tại Sion, cảnh sắc tuyệt vời, Thiên Chúa hiển minh" (Tv 59,2).
Thế nhưng, khi thiên hạ tiến đến từng đoàn lũ từ khắp nơi để tham dự các lễ hội lớn, xô lấn nhau vào cổng, tràn ngập các sân. Khi các tư tế lăng xăng đây đó để chu toàn chức vụ. Khi các tiến sĩ tranh luận lề luật, chung quanh là học trò vãng lai hay thường xuyên. Khi hội đồng Sanhedrin nhóm họp để cân nhắc. Khi các chiên cừu, bò lừa, chiên dê được dẫn qua cổng để làm lễ hiến tế, khi các cùi hủi đến để được tẩy sạch, khi các người chồng lo lắng dẫn vợ tới chịu phép thanh tẩy bằng nước "cay đắng", khi những người đổi tiền, những lái buôn bồ câu và bánh tiến, thực hiện dịch vụ ồn ào, thì kiến trúc khổng lồ này trở nên náo nhiệt, sống động, diễn tả sức sống của tất cả những thứ mà nó đứng làm tiêu biểu. Lúc ấy toàn bộ nơi chốn uy nghiêm này đầy ắp tiếng lách tách của lửa cháy, tiếng rống của súc vật bị giết, tiếng nói, giọng cười, tiếng chân bước và kèn đồng thúc giục. Đền thờ giống như một “siêu thị”, tấp nập buôn bán, ồn ào náo nhiệt. Điều đó, khiến Chúa Giêsu nổi giận làm một cuộc “thanh tẩy đền thờ” (Ga 2). Khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi hãy học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế,lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất” . Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13). Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy. “Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến đền thờ. “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa,mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5). Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như vậy ?
Chúa Giêsu làm như vậy vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm. Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
Chúa Giêsu hành động như vậy để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo : “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm. (Is 1,11)” Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16). Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính. Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
Lý do thứ ba chính là “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”. Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người. Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khàch hành hương không thể cầu nguyện được.
Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng : sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Khi người Do thái chất vấn : Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Chúa Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy.Thân thể phục sinh của Ngài là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực trong tinh thần và trong chân lý.
Đế quốc Lamã phá đền thờ
Đối với người Do Thái, tôn giáo và chính trị là một. Những người kế vị Maccabê quá trần tục, họ tranh dành nhau địa vị, người thì tự xưng là vua: Aristôbôrô I; người tự xưng là Thượng tế: Hátmon. Người Do Thái phản ứng quyết liệt, họ phủ nhận quyền lãnh đạo tôn giáo cũng như chính trị đó. Trong bối cảnh đó, người La mã đã đặt chân đến theo lời mời giảng hoà việc tranh chấp giữa vua và Thượng tế. Dịp này, người La mã tiến vào Giêrusalem, nước Giuđa bị biến thành chư hầu. Hicanô được đặt làm vua Do Thái từ năm 37-4 trước CN, ông cho xây dựng Đền thờ. Dưới sự cai trị của quan tổng trấn La mã, Pônxiô Philatô (ông được hoàng đế Tibêriô bổ nhiệm năm 26, giữ chức vụ 10 năm, rồi bị mất chức năm 36 sau vụ giết hại một số người Samaria vô tội), Chúa Giêsu bị xử tử ở Giêrusalem.
Vào năm 70 sau CN, vị tướng La mã Titus đem đại quân vây hãm thành. Ông ra lệnh không được đốt phá. Một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh phá huỷ thành và Đền thờ, ngoại trừ, như sử gia Josèphe cho biết, ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành bị phá.
Năm 132 vào thời hoàng đế Adrien, ông truyền xây một ngôi chùa thờ thần Jupiter, Giêrusalem gọi là Aelia Capitolina, là một thành chính thức thuộc về La mã. Năm 362, Julius mệnh danh là “người chối đạo” cho phép cũng như giúp mọi phương tiện cho người Do Thái xây lại Đền thờ, nhưng không thành vì khi khởi công có chuyện kỳ lạ là những ngọn lửa từ dưới nền móng bốc lên khiến thợ xây phải bỏ cuộc (sự việc đó đã được các giáo phụ như Grêgôriô Nazianze, Gioan Kim Khẩu và một số sử gia không có đạo sống vào năm 363 như Socrate, Sozomène, Theodoret kể lại).
Thời vua Constantin.
Năm 333 thời Constantin, người Do Thái được phép đến than vãn chỗ đặt Bàn thờ Toàn thiêu, ông cho phá đền Capitolina, để lộ thiên đồi Golgotha và mồ thánh. Thánh nữ Hêlêna, mẹ hoàng đế đã tìm ra Thánh giá của Chúa Giêsu và hai cây thập giá của hai tên tử tội, Constantin đã cho xây một giáo đường trùm lên khu vực đó.
Nhiều thăng trầm.
Thế kỷ thứ 5, bắt đầu có phong trào người Kitô hữu về hành hương Đất Thánh, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã cho lập nhiều lữ quán để đón tiếp các đoàn hành hương. Năm 614 người Ba Tư chiếm được Giêrusalem, đốt phá các nơi thờ tự, bắt thượng phụ Zacaria và lấy di tích Thập Giá đem theo. Ít lâu sau, Heracliô lấy lại được Thập giá trong tay người Ba Tư (629). Năm 638, người Ả rập chiếm được Giêrusalem, họ cho xây tại chính tâm Đền thờ giáo đường El Apsa, sau đó giáo đường Omar. Kể từ đó, người Do Thái thường đến than khóc tại bức tường Than Khóc. Người Hồi giáo đã chiếm Thánh địa từ lâu, nhưng các chủ nhân Ả rập này tương đối dễ dãi với các tín hữu địa phương và khách hành hương, miễn là nộp thuế cho họ. Hoàng đế Charlemange còn cho xây dựng một đan viện ở núi cây dầu. Nhưng từ năm 1009, vua Hakim phá Mồ Thánh. Năm 1071, Hồi giáo Ả Rập gốc Thổ Nhĩ Kì phá huỷ, bôi nhọ những nơi thánh thiêng nhất của Kitô giáo cũng như cản trản những đoàn hành hương Thánh địa.
Một cuộc chiến tranh mới xảy ra: chiến tranh của lòng tin. Bấy giờ, vua La mã, Alexius Commecus thỉnh ý Đức Giáo hoàng Urban II. Giáo hoàng cho triệu công nghị ở Clermont nước Pháp, người kêu mời mọi người sẵn sàng lên đường bảo vệ đức tin. Trước lời hiệu triệu vừa hùng hồn vừa thống thiết của Đức Giáo hoàng, như ngọn lửa nhiệt thành bốc cháy, mọi người từ tu sĩ, tín hữu la lên: “Chúa sẽ phù trợ”. Đạo binh Thánh giá không phải là quân đội có tổ chức mà là sự tập trung ô hợp, nhưng không vì thế mà không có người lãnh đạo. Một đội quân mà thành phần là: tu sĩ, hiệp sĩ, nhà quý tộc, binh lính, nông dân, người buôn bán, có cả trẻ em.. Họ tin rằng họ thắng chỉ vì có Chúa độ trì... năm 1096, đoàn quân thứ nhất lãnh đạo của Godfrey of Bouillon đa phần là hiệp sĩ và những nhà quí tộc. Sau chín tháng ở Antioch...Tháng 6 năm 1099 họ bắt đầu vào Giêrusalem vào ngày 15/07/1099 họ chiếm được Giêrusalem. Khi tiến vào Mồ thánh họ đi bộ, đầu để trần, đến nơi họ quì gối rồi hôn phần đất mà Chúa Giêsu chịu chết. Họ cho xây các thánh đường mới, trong đó có thánh đường Mồ thánh, nhà Tiệc ly...
Năm 1187, Saladin chiếm được Giêrusalem.
Năm 1516, lại rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 1540, Soliman II cho xây một tường luỹ ở phía Bắc chạy dọc theo tường luỹ của Agrippa, còn phía Nam nơi từ tường thành phía nam Đền thờ chạy dài đến phía bắc Nhà Tiệc Ly. Đó là bức thành hiện có và cũng từ đó bắt đầu thời suy tàn...
Giêrusalem bây giờ được phân chia thành hai phần rõ rệt. Phần ngoại thành được xây cất hiện đại, với những cơ quan đầu nảo của chính phủ Dothái. Phần Cổ Thành, nằm trong bức tường đá cổ xưa, với các nơi thánh đối với Kitô giáo, cũng như Do Thái giáo và Hồi giáo.
Ngoại thành Giêrusalem
Từ sáng sớm, chúng tôi đã lên đường để kịp ngắm Giêrusalem trong ánh bình minh rực rỡ. Nổi bật là đền thờ Hồi giáo với mái vòm bằng vàng ròng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Thành Giêrusalem, gồm hai khu vực chính là khu cổ thành được xây thêm từ ngày tái thiết quốc gia (1948) và thành Giêrusalem được gọi là khu Tân Trang. 
Chúng tôi đang ở ngoại thành Giêrusalem, đứng trên đồi Ôlivata ngắm nội thành rồi đi thăm 3 nhà thờ.
Nhà thờ Kinh Lạy Cha.
Khi các môn đệ xin Chúa dạy cầu nguyện, Chúa đã dạy kinh Lạy Cha (Mt 6,7-15). Đây là lời kinh duy nhất Chúa để lại. Tảng đá Chúa ngồi để dạy Kinh Lạy cha vẫn còn đó. Nhà thờ này do các Sr Dòng Kín Cát Minh người Pháp coi sóc.
Nơi đây có 114 phiến đá ghi kinh Lạy Cha bằng 114 ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do Đức Cố Giám Mục Phạm Ngọc Chi đặt từ năm 1959.
Shamir và chúng tôi dừng lại trước bản kinh Lạy Cha tiếng Latinh, Shamir cất kinh, mọi người cùng hát, các bà thuộc lòng kinh Latinh từ bé. Mỗi ngày vẫn hát kinh Lạy Cha, sao hôm nay lại hát hay và cảm động đến vậy ?    
Nhà nguyện Chúa thăng thiên.
Đi ngược lại một đoạn đường, chúng tôi viếng Nhà nguyện Thăng thiên.
Có một viên đá khoảng 1m2, in dấu bàn chân Chúa khi lên trời. Nhà nguyện này do đoàn thập tự quân xây, ngày nay đã về tay người Hồi giáo quản lý.
Về địa điểm Lên Trời, Kinh thánh không nói rõ. Thánh sử Luca đặt nó chung quanh Betania. Khi họ rời căn phòng mà Chúa đã hiện ra với họ. Đức Kitô Phục sinh dẫn các môn đệ tới Betania và Ngài giơ tay lên chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành cho họ, Ngài rời khỏi họ và được đưa về trời (Lc 24, 50-51). Tông đồ công vụ thì viết: “Bấy giờ các ông từ trên núi gọi là núi Oliva trở về Giêrusalem. Núi này ở gần Giêrusalem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sabát” (Cv 1,12).
Khi nói: “Ta lên cùng Cha Ta, cũng là Cha các con, lên cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa của các con” (Ga 20,17). Chúa Giêsu chẳng thể minh bạch hơn. Sự thực Ngài đã bày tỏ với các ông nhiều lần như vậy. Những lời Chúa nói lúc long trọng rời các ông dịu dàng biết bao! Nó giống như Ngài đang đứng bên bờ của các mầu nhiệm thiên giới: “Cha Ta cũng là Cha các con, Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con!”. Như thế, chúng ta và Đức Kitô chỉ có một Cha. Chúng ta là thành phần của gia đình thần linh. Chúa về trời để chuẩn bị “chỗ ở” cho mỗi người chúng ta.
Như vậy mỗi người đều sẽ có một cuộc “lên trời” hay tối thiểu một chỗ ở được chuẩn bị sẵn! Trước hết là cuộc “thăng thiên” tinh thần. Rồi ở cuối thời gian, cuộc “thăng thiên” như Chúa Giêsu: “ Hoa quả đầu mùa của những kẻ phải chết” sẽ đưa anh em mình vào chuyến xe lửa tốc hành về thiên cung. Đầu của Thân Mình Màu Nhiệm đã lên trời thì tất nhiên các chi thể sẽ theo sau một ngày nào đó.
Từ núi Cây Dầu nhìn về Giêrusalem trong nắng sớm càng thấy vẻ uy nghi, rực rỡ, sang trọng. Các môn đệ tiến lại gần và chỉ cho Chúa Giêsu những lâu đài, thành quách của Đền thờ; nhưng Ngài nói: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Các ông tò mò muốn biết điều Ngài nói sẽ xảy ra lúc nào. “Khi các con xem thấy sự tàn phá ghê sợ sẽ xảy ra trong nơi thánh mà tiên tri Đaniel đã đề cập đến, lúc bấy giờ những ai ở xứ Giuđa hãy chạy trốn lên núi; kẻ nào ở trên mái nhà thì đừng chạy xuống khuân đồ đạc ra khỏi nhà, ai ở ngoài đồng chớ nên trở về lấy áo choàng của mình. Khốn thay đà bà mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy... Trong những ngày ấy sẽ có tai họa lớn lao chưa từng xảy ra...” (Mt 24,15-22; Mc 13,14-20; Lc 21,20-24). Những gì Chúa Giêsu nói đã thành sự thật vào năm 70 sau CN dưới thời Titus, vị tướng La mã.
Chúa đứng trên núi, nhìn xuống thành Giêrusalem và thương khóc cho thành này (Lc 19, 14-42). Nhìn xuống dưới là hàng ngàn nấm mộ cổ đã có đó trước khi Chúa Giêsu ra đời. Và từ trên cao nhìn xuống thành này thật đẹp, bao quát tất cả. Giêrusalem đúng là thành thánh được Chúa chọn, dân của Chúa diễm phúc biết bao. Đứng nơi đây, cảm thấy hạnh phúc và cảm động vì cũng được đứng ngay nơi Chúa đứng khi xưa. Dấu chân con được lồng trong dấu chân Chúa.
Vườn Giệtsimani.
Đi bộ xuống một dốc dài, đường lát đá, hai bên tường dựng đứng toàn là đá tảng, chúng tôi đến vườn cây dầu. Con đường nào cũng dẫn xuống thung lũng Cedron, đến cánh đồng Giosaphat, các mồ mả, cuối cùng tới định mệnh Giệtsimani, ở đây Chúa qua cơn hấp hối khủng khiếp.
Vườn có 7 cây oliu gốc to sần sùi, trong đó có một cây đã hơn hai ngàn năm. 
Nơi đây Chúa quì cầu nguyện trước khi bước vào khổ nạn (Lc 39-44), Giuđa hôn Thầy một nụ hôn giả dối, phản bội bán Thầy. Rồi Chúa bị bắt, bị điệu đi xét xử qua 3 toà án.
Vườn Cây Dầu, Chúa quỳ cầu nguyện
Mồ hôi tuôn hòa lẫn máu đào
Xót thương Ngài rừng lá lao xao
Cảm Tình Ngài đất trời rơi lệ.
Nhà thờ của các dân tộc.
Gọi tên như vậy vì nhiều quốc gia đã đóng góp tiền của để xây nên Thánh đường này.
Trước bàn thờ, tảng đá lớn được bao quanh bằng hàng rào như chiếc mão gai, có thể đưa tay để đặt vào tảng đá. Chúng tôi được một cha dòng Phanxicô dẫn vào quỳ trước tảng đá cầu nguyện. Thật bồi hồi xúc động, được quỳ gối nơi Chúa đã từng quỳ gối cầu nguyện đến đổ mồ hôi máu. Mỗi người hôn kính tảng đá và thì thầm cầu nguyện với Chúa cách sốt mến lạ lùng.
Chính tại nơi đây đã diễn ra đêm sầu khổ tột cùng của Chúa. Thời gian là vào khoảng 10 giờ đêm, phía đông trăng tròn đã lên cao, tỏa ánh sáng huyền ảo xuống mặt đất, các tảng đá lớn phản chiếu rõ mồn một, những nấm mồ trắng lung linh nhập nhoà, những phiến lá Oliva màu bạc lấp lánh như dát kim loại. Các ngọn đuốc của đám vệ binh Đền thờ xem ra không cần thiết, tiếng lách cách gươm đao, lưỡi kiếm loảng xoảng trong đêm.
Chỉ cần vài bước lên khỏi thung lũng là Chúa Giêsu và các tông đồ đã ở dưới cái bóng to lớn của tháp đền thờ. Con đường đầy ánh trăng vì chị nguyệt đã lên cao. Bên phải Ngài là đường đi núi Môab, sông Giođanô và Biển Chết. Toàn bộ miền triền núi này người ta trồng nho, có nhiều nắng và nho xanh tươi. Vì vậy, Đức Giêsu đã nhân cơ hội để ví mình như cây nho: “Ta là thân nho, các con là cành…” (Ga 5,15).
Đêm cuối cùng Ngài không muốn gây phiền hà cho các bạn thân thiết. Cuộc Khổ Nạn đã bắt đầu. Ngày mai Ngài sẽ gặp cái chết và nấm mồ. Đức Giêsu vào vườn, chọn riêng ra ba tông đồ: Phêrô, Giacôbê và Gioan, những kẻ Ngài quí mến đặc biệt, mặc dù tất cả các tông đồ đều được Ngài yêu dấu. Ngài truyền các ông khác ngồi trên đám cỏ chờ đợi, như thể chẳng bao lâu Ngài sẽ trở lại với họ, và tiếp tục bài diễn từ hoặc đi tiếp lên đỉnh núi.
Nhưng lúc này linh hồn vĩ đại ấy, vốn vẫn dũng cảm phi thường, thì lại rùng mình sợ hãi vì viễn tượng kinh hoàng trước mắt. Tấn kịch bi thảm sắp diễn ra làm Ngài chết điếng. Phúc âm thuật lại: “Người cảm thấy hãi hùng xao xuyến” (Mc 14,33). Ngài quằn quại như không còn khả năng ở một mình với cơn ác mộng. Ngài tiết lộ nó cho các môn đệ, lo lắng như thể giải thích cho họ sự thay đổi đột ngột phong thái bình thường của mình: “Linh hồn Thầy lo buồn đến chết được”. Đấng Toàn Năng như các tiên tri loan báo, cố vấn kỳ diệu, kẻ chiến thắng sự chết và tử thần, lại xem ra ngã quị trước viễn tượng khổ giá. Ngài yêu cầu các môn đệ giúp đỡ: “Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy”. Ngài khẩn khoản họ (Mt 26,38). Nhiều lần Ngài từng dặn dò các môn đệ “canh thức”, nhưng chưa lần nào nói “với Thầy” như hôm nay. Rồi Ngài bắt đầu cơn hấp hối vượt khả năng hiểu biết của chúng ta. Điều này chẳng bao giờ tiết lộ cho loài người. Các tác giả Phúc âm không chỉ nói Ngài quì xuống đất mà dùng từ sấp mặt xuống hay ngã sấp xuống đất. Tức nằm phủ phục xuống đất. Một chén đắng mà Ngài không thể uống đã được Thiên Chúa đề nghị. Thân mình Ngài run rẩy khiếp sợ, đến nỗi nước mắt trào ra còn lẫn cả máu nữa. Ngài đã khóc với toàn bộ tồn tại của mình. Ngài khóc như một người rướm máu. Và đối với Ngài máu và nước mắt ấy là giọt sương của đêm cuối cùng trên trái đất. Câu nói: “Linh hồn Thày buồn sầu đến chết được” chưa bày tỏ hết thực tế. Lo buồn của Ngài vượt qua giới hạn của cái chết, vì chết chỉ đụng đến thân xác, và thân xác chỉ chịu đựng được có giới hạn. Có những nỗi khổ đau làm tan nát trái tim. Nhưng nếu muốn Thiên Chúa có thể trợ giúp sự yếu đuối của linh hồn, ngõ hầu tinh thần có khả năng chịu đựng xa hơn. Lúc này đối với Đức Giêsu, thần chết đã đứng ngoài ngưỡng cửa của cơn hấp hối. Nhưng về phần linh hồn thì không có giới hạn như vậy. Chén đắng chồng chất chén đắng cho tới khi giá gỗ tới như một giải thoát. Ai có thể thâm nhập được vào những đoạn trường này? Sau những giọt nước mắt hòa lẫn máu ấy, ai có khả năng mô tả? Còn bao nhiêu máu và nước mắt nữa tắm gội linh hồn Đấng Cứu Thế? Nó giống như dòng thác đổ vào vực thẳm của đại dương?
Loài người chẳng bao giờ có khả năng thấu hiểu viễn tượng khủng khiếp của Đức Giêsu, chỉ có thể phỏng đoán chút ít. Trên hiện trường thì là cái sầu khổ, đau đớn và cái chết. Đột nhiên hình bóng cây giá gỗ xuất hiện trước mắt Ngài. Cho rằng ý nghĩ về thập hình đã thường xuyên hiện diện trong tư tưởng của Ngài và Ngài đã chấp nhận nó ngay từ đầu. Ngài đã từng nói tới trong các bài thuyết giảng, thí dụ trong Gioan Ngài nói: “Chính vì giờ này mà Con đã đến” (12,27). Nhưng chúng ta không biết được tất cả sự hãi hùng bất ưng mà viễn tượng mang lại cho Chúa, sau thói quen suy tư làm cho đường nét của nó trở thành lu mờ. Khi đau đớn thâm nhập toàn bộ thân xác, và toàn bộ tâm trí tập trung vào hình ảnh của khổ nạn, thì sự hành hạ vượt ra khỏi mọi giới hạn. Đó là tình huống của Đức Giêsu xét như con người lúc này.
Thánh vịnh 54,5-6 mô tả: “Nghe trong tim mình đau thắt lại, bóng tử thần khủng khiếp chụp xuống con. Bao run sợ nhập cả vào người, cơn kinh hãi tứ bề phủ lấp’. Ứng nghiệm vào Đức Giêsu thật chính xác. Ngài bị đánh đòn trong tư tưởng và đóng đinh trong ý nghĩ trước khi sự việc xảy ra. Viễn tưởng đó kéo lê Ngài qua mảnh vườn, dốc ngược lên nhà Anna, tới chỗ ở của Caipha. Cho đến đồn binh Antonia, dọc theo các phố xá, đến lúc chết và mai táng trong mồ. Ngài trông thấy tất cả, và có lúc Ngài bị ám ảnh rằng chẳng làm thế nào thoát được. Mặt úp xuống đất, tay giang thẳng, Ngài phải nếm sự cay đắng tột cùng của kiếp người cô đơn.
Nội thành Giêrusalem nằm trong khu nội thành có chu vi 4km, được bao bọc bằng bức tường thành vĩ đại xây bằng đá, tường cao 12 mét, chung quanh có 8 cổng ra vào nằm ở 4 phía Đông Tây Nam. Cổng phía Tây bị người Hồi giáo xây bít lại.    
Nhà cửa, đền đài trong thành cổ đều được xây dựng bằng đá, kể cả các đuờng phố chằng chịt cũng được lát đá. Đá ở đây là nguồn nguyên liệu hầu như vô tận, dễ dàng khai thác tại chỗ. Cả một thành phố, đá chồng trên đá, nhìn xa,màu đá trắng sáng, tạo cho Giêrusalem một hình ảnh kiên cố, vững bền, pha chút ngạo nghễ. Người Dothái rất tự hào về thủ đô của họ, có đến gần 5000 năm lịch sử. Họ cất cao lời thánh vịnh 17:
“Người là núi đá con nương nhờ, là thành lũy cho con ẩn mình, là Đấng giải thoát con…Tôi ẩn náu nơi Chúa Trời tôi. Người là núi đá, là khiên mộc, là thành lũy chở che. Tôi chỉ cần hô lên: Tôn vinh Chúa, là thắng ngay hết mọi địch thù. Họ thâm tín rằng: Thành thánh luôn được Thiên Chúa chúc phúc. Xin Chúa từ Sion xuống cho muôn vàn ân phước. Để trong suốt cuộc đời, bạn dược thấy Giêrusalem luôn phồn vinh” (Tv 127).
Người ta thường ví Giêrusalem như viên ngọc quý trên vương niệm nhà Israel. Vì thế trong cuộc tranh chấp hiện nay, Giêrusalem là mảnh đất không thể khoan nhượng…!
Cổ thành Giêrusalem chỉ có diện tích 0,9 km2, hiện có 36.500 dân sinh sống trong đó chỉ có 4.000 người Do Thái, trên tổng số 700.000 dân của thành phố Giêrusalem hiện nay.
Hình thù của nó bây giờ có từ năm 1538 khi Soliman II Magnifico cho xây tường thành hiện hữu.
Thành Cổ Giêrusalem chia làm bốn khu phố: khu phố Do Thái với bức tường phía Tây, cũng gọi là bức tường than khóc, nơi người Do thái vẫn đến cầu nguyện và than khóc, đặc biệt trong ngày Sabát và các ngày lễ lớn; khu phố Hồi giáo từ cửa Damasco tới sân thượng với các đền thờ Hồi giáo; khu phố Kitô giáo với Vương Cung Thánh Đường Mộ Thánh; và khu phố Armeni chung quanh nhà thờ kính thánh Giacobê, vị Giám mục đầu tiên của Giêrusalem.
Hình thù của cổ thành Giêrusalem chịu ảnh hưởng của tình hình xung khắc kéo dài từ 60 năm qua. Vào cuối cuộc chiến tranh 1948-1949, Giêrusalem do nước Giordani hoàn toàn kiểm soát, và các người Do Thái buộc phải rời khỏi khu phố của mình. Sau cuộc chiến 6 ngày vào năm 1967, Israel kiểm soát toàn bộ cổ thành, và người Do Thái trở lại sống trong khu phố của họ, với các cộng đoàn nhỏ cả bên trong các khu phố khác. Trong khu phố Hồi giáo có trường Rabbi, theo khuynh hướng cực đoan Ateret Cohanim.
Nút thắt khó giải quyết nhất là khu vực bức tường phía tây (tường than khóc) và khu vực sân đền thờ Do Thái xưa kia, nơi hiện có hai đền thờ Hồi giáo.

Nguyễn Hữu An

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét