Đức Bênêđíctô XVI, giáo hoàng hòa bình, tiếp theo
Thông điệp hòa bình năm 2007 của Đức Bênêđíctô XVI: Nhân vị, Tâm điểm của Hòa bình
Có thể nói chủ đề thông điệp hòa bình năm 2006 trên đây chính là chủ đề xây nền và bao quát cho các chủ đề các năm kế tiếp. Thực vậy, với thông điệp hòa bình năm 2007, Đức Bênêđíctô XVI nói tới nhân vị như là tâm điểm của hòa bình, vì muốn phát huy hòa bình, người ta phải tôn trọng con người, và nếu mốn xây dựng hòa bình, người ta phải đặt nền tảng cho một chủ nghĩa nhân bản toàn diện đúng nghĩa.
Theo Đức Bênêđíctô XVI, chính sự kiện được tạo ra theo hình ảnh Thiên Chúa đã tạo nên nhân phẩm cho mọi cá thể nhân bản. Họ không còn là một sự vật mà là một ai đó có khả năng tự nhận thức mình, tự chiếm hữu mình, tự do hiến thân và bước vào hiệp thông với người khác. Đồng thời, họ được mời gọi bước vào một giao ước với Đấng Tạo Dựng, khiến họ vượt trên các thụ tạo khác. Ngược lại, Thiên Chúa cũng trao cho họ nhiệm vụ yêu thương và đóng góp vào tiến bộ thế giới, canh tân thế giới ấy trong công lý và hòa bình.
Sau đây là nguyên văn Thông điệp:
1.Vào đầu năm mới, tôi muốn tỏ bầy các lời cầu chúc tốt đẹp trong cầu nguyện cho hòa bình tới các Chính phủ, các nhà lãnh đạo các quốc gia và mọi người nam nữ có thiện chí. Một cách đặc biệt, tôi cầu khẩn hòa bình xuống trên tất cả những người đang kinh qua đau đớn và đau khổ, những người đang sống dưới sự đe dọa của bạo lực và xâm lược vũ trang, và những người đang chờ đợi sự giải phóng nhân bản và xã hội của họ, mà nhân phẩm của họ đang bị chà đạp. Tôi cầu khẩn bình an xuống trên các trẻ em, những người bằng sự hồn nhiên của chúng làm giàu cho nhân loại bằng lòng tốt và hy vọng, và bằng những đau khổ của chúng buộc tất cả chúng ta phải làm việc cho công lý và hòa bình. Vì lo lắng cho trẻ em, đặc biệt là những em có tương lai bị tổn hại bởi sự bóc lột và ác ý của những người lớn vô lương tâm, vào Ngày Hòa bình Thế giới này, tôi mong muốn khuyến khích mọi người suy ngẫm về chủ đề: Nhân vị, Tâm điểm của Hòa bình. Tôi tin rằng tôn trọng nhân vị sẽ thúc đẩy hòa bình và, trong khi xây dựng hòa bình, (ta cũng) xây dựng các nền tảng cho một chủ nghĩa nhân bản toàn diện. Nhờ cách này, một tương lai thanh thản sẽ được chuẩn bị cho các thế hệ sắp tới.
Nhân vị và hòa bình: hồng ân và trách vụ
2. Sách thánh quả quyết rằng “Thiên Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chính Người, theo họa ảnh của Thiên Chúa, Người đã tạo ra họ; nam và nữ Người đã tạo ra họ” (St 1:27). Như một người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi cá nhân con người có phẩm giá của một ngôi vị; họ không phải chỉ là một cái gì đó, mà là một người nào đó, có khả năng tự hiểu biết, tự sở hữu, tự hiến mình và bước vào hiệp thông với những người khác. Đồng thời, mỗi ngôi vị được kêu gọi, nhờ ân sủng, bước vào giao ước với Đấng Tạo Hóa, được kêu gọi dành cho Người một đáp ứng đức tin và tình yêu mà không một tạo vật nào khác có thể dành cho Người thay cho họ (1). Từ quan điểm siêu nhiên trên, người ta có thể hiểu nhiệm vụ trao phó cho các hữu thể nhân bản phải chín mùi trong khả năng yêu thương và đóng góp cho sự tiến bộ của thế giới, làm mới nó trong công lý và hòa bình. Trong một tổng hợp nổi bật, Thánh Augustinô dạy rằng “Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta mà không cần sự trợ giúp của chúng ta; nhưng Người không chọn cứu chúng ta mà không có sự trợ giúp của chúng ta (2)”. Do đó, mọi hữu thể nhân bản có nhiệm vụ trau dồi ý thức về khía cạnh hai mặt hồng ân và trách vụ này.
3. Cũng thế, hòa bình vừa là hồng ân vừa là trách vụ. Nếu quả hòa bình giữa các cá nhân và dân tộc, tức khả năng sống với nhau và xây dựng các mối liên hệ công bằng và liên đới, đòi hỏi chúng ta phải cam kết không ngừng, thì điều cũng đúng, có khi còn đúng hơn thế, là hòa bình là một hồng ân Thiên Chúa ban. Hòa bình là một khía cạnh của hoạt động Thiên Chúa, được tỏ hiện cả trong việc tạo ra một vũ trụ có trật tự và hài hòa lẫn trong việc cứu chuộc nhân loại, một nhân loại vốn cần được giải cứu khỏi sự rối loạn của tội lỗi. Do đó, Sáng thế và Cứu chuộc cung cấp một chìa khóa giúp chúng ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống của chúng ta trên trái đất. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 5 tháng 10 năm 1995, đã tuyên bố rằng “chúng ta không sống trong một thế giới phi lý hoặc vô nghĩa ... có một luận lý học đạo đức được thiết dựng vào cuộc sống con người và luận lý học này làm cho cuộc đối thoại giữa các cá nhân và các dân tộc trở thành khả hữu” (3). “Văn phạm” siêu việt, nghĩa là việc nói rằng bộ quy tắc điều hướng hành động cá nhân và các mối liên hệ hỗ tương của các ngôi vị phù hợp với công lý và liên đới, đã được khắc ghi vào lương tâm con người, trong đó kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa được phản ảnh. Như gần đây tôi có dịp tái khẳng định: “chúng ta tin rằng vào lúc khởi đầu mọi sự đã có Lời, có Lý trí Vĩnh cửu chứ không phải Vô lý (4)". Vì vậy, Hòa bình cũng là một trách vụ đòi hỏi mọi người phải có đáp ứng bản thân phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn gây cảm hứng cho đáp ứng này chỉ có thể là việc tôn trọng đối với nền “văn phạm” vốn đã được viết vào trái tim con người bởi Đấng Tạo Hóa thần thiêng.
Từ quan điểm trên, các quy tắc của luật tự nhiên không nên bị coi như các nghị định áp đặt từ bên ngoài, như các hạn chế đối với tự do của con người. Đúng hơn, chúng nên được hoan nghênh như lời kêu gọi để thực thi cách trung thành kế hoạch thần thiêng phổ quát vốn được khắc ghi vào bản chất của các hữu thể nhân bản. Được hướng dẫn bởi những chuẩn mực này, mọi dân tộc, bên trong các nền văn hóa tương ứng của họ, có thể tới gần mầu nhiệm cao cả nhất, tức mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, việc công nhận và tôn trọng luật tự nhiên tượng trưng nền tảng cho một cuộc đối thoại giữa những người theo các tôn giáo khác nhau và giữa những người tin và không tin. Như một điểm hội tụ tuyệt vời, đây cũng là một giả định căn bản cho nền hòa bình đích thực.
Quyền sống và quyền tự do tôn giáo
4. Bổn phận tôn trọng phẩm giá của mỗi hữu thể nhân bản, mà bản chất vốn phản ảnh hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, do đó, có nghĩa là ngôi vị đó không thể bị loại bỏ mặc tình. Những người có quyền lực chính trị, kỹ thuật hoặc kinh tế lớn hơn không thể sử dụng quyền lực đó để vi phạm các quyền của những người kém may mắn hơn. Hòa bình dựa trên sự tôn trọng quyền của mọi người. Ý thức được điều này, Giáo hội tranh đấu cho các quyền căn bản của mỗi ngôi vị. Đặc biệt, Giáo Hội cổ vũ và bảo vệ việc tôn trọng quyền mọi người có tự do sống và tự do tôn giáo. Tôn trọng quyền sống ở mọi giai đoạn thiết lập một cách vững chắc nguyên tắc có tầm quan trọng quyết định này: sự sống là một hồng ân không hoàn toàn tùy ý muốn sử dụng của chủ thể. Cũng thế, việc khẳng định quyền tự do tôn giáo đặt hữu thể nhân bản vào mối tương quan với nguyên lý siêu việt vốn kéo họ ra khỏi tính thất thường nhân bản. Quyền sống và quyền tự do phát biểu đức tin bản vị vào Thiên Chúa không tùy thuộc quyền bính con người. Hòa bình đòi phải thiết lập ra ranh giới rõ ràng giữa những gì thuộc về việc sử dụng của con người và những gì không thuộc việc sử dụng ấy: nhờ cách này, những sự xâm nhập không thể chấp nhận được vào gia tài các giá trị nhân bản chuyên biệt có thể tránh được.
5. Về những gì liên quan đến quyền sống, chúng ta phải tố cáo việc vi phạm phổ biến đối với nó trong xã hội của chúng ta: bên cạnh các nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang, khủng bố và các hình thức bạo lực khác nhau, có những cái chết thầm lặng do nghèo đói, phá thai, thử nghiệm phôi người và trợ tử gây ra. Làm thế nào chúng ta có thể không thấy trong tất cả những điều này một cuộc tấn công vào hòa bình? Phá thai và thử nghiệm phôi thai tạo thành việc bác bỏ trực tiếp thái độ chấp nhận người khác, vốn là điều không thể miễn chấp trong việc thiết lập các mối tương quan hòa bình bền vững. Về việc tự do phát biểu đức tin bản vị, một triệu chứng đáng lo ngại khác về việc thiếu hòa bình trên thế giới được tìm thấy nơi các khó khăn mà cả các Kitô hữu lẫn tín đồ của các tôn giáo khác thường gặp phải khi công khai và tự do tuyên xưng các xác tín tôn giáo của họ. Nói riêng về các Kitô hữu, tôi phải đau lòng nhấn mạnh rằng không những đôi khi họ bị ngăn cản làm như vậy; ở một số quốc gia, họ còn thực sự bị bách hại, và thậm chí gần đây, các trường hợp bi thảm đầy bạo lực tàn khốc đã được ghi chép. Có những chế độ áp đặt một tôn giáo duy nhất lên mọi người, trong khi các chế độ thế tục thường không dẫn đến sự bách hại bạo lực cho bằng sự bôi lọ có hệ thống các niềm tin tôn giáo về phương diện văn hóa. Ở cả hai trường hợp, một nhân quyền căn bản đã không được tôn trọng, với những hệ luận nghiêm trọng đối với việc chung sống hòa bình. Điều này chỉ có thể cổ vũ một não trạng và một nền văn hóa không có lợi cho hòa bình.
Quyền bình đẳng tự nhiên của mọi người
6. Tận gốc gác của nhiều căng thẳng đang đe dọa hòa bình chắc chắn có nhiều bất bình đẳng bất công vẫn còn tồn tại một cách bi thảm trong thế giới của chúng ta. Một đàng, đặc biệt xảo quyệt trong số này là sự bất bình đẳng trong việc có được các hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, nước uống, nơi ở, sức khỏe; đàng khác, có những bất bình đẳng dai dẳng giữa nam và nữ trong việc thực thi các nhân quyền căn bản.
Một yếu tố căn bản của việc xây dựng hòa bình là việc công nhận sự bình đẳng thiết yếu của các nhân vị phát sinh từ phẩm giá siêu việt chung của họ. Sự bình đẳng ở bình diện này là một điều tốt thuộc về mọi người, được ghi khắc trong “văn phạm” tự nhiên đó, vốn có thể được diễn dịch từ kế hoạch sáng tạo thần thiêng; đây là một điều tốt không thể bị làm ngơ hoặc khinh miệt mà không gây ra các hệ quả nghiêm trọng gây nguy hiểm cho hòa bình. Sự túng thiếu cực kỳ nghiêm trọng đang ảnh hưởng đến nhiều dân tộc, đặc biệt là ở châu Phi, nằm ở gốc rễ của các phản ứng bạo lực và do đó gây ra một vết thương khủng khiếp cho hòa bình.
7. Tương tự như thế, sự cân nhắc không thỏa đáng đối với thân phận phụ nữ giúp tạo ra sự bất ổn trong kết cấu xã hội. Tôi nghĩ về việc bóc lột những người phụ nữ bị coi như đồ vật, và về nhiều cách thiếu tôn trọng biểu lộ đối với phẩm giá của họ; ở một bối cảnh khác, tôi cũng nghĩ đến tâm thức dai dẳng trong một số nền văn hóa, trong đó, phụ nữ vẫn còn lệ thuộc chặt chẽ vào các quyết định độc đoán của đàn ông, với những hậu quả nghiêm trọng đối với phẩm giá bản thân của họ và việc thực thi các quyền tự do căn bản của họ. Không thể có ảo tưởng nào về một nền hòa bình an ổn cho đến khi các hình thức kỳ thị này cũng phải được khắc phục, vì chúng làm tổn thương phẩm giá bản vị mà Đấng Tạo Hóa đã in sâu vào mọi hữu thể nhân bản (5).
“Hệ sinh thái hòa bình”
8. Trong Thông điệp Centesimus Annus, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “không những Thiên Chúa ban trái đất cho con người, kẻ phải sử dụng nó một cách tôn trọng nhằm mục đích tốt đẹp ban đầu mà nó đã được trao cho họ, mà chính con người cũng là hồng ân của Thiên Chúa ban cho con người. Do đó, họ phải tôn trọng cơ cấu tự nhiên và nền luân lý họ đã được phú ban” (6)”. Nhờ việc đáp trả trách vụ này, từng được Đấng Tạo Hóa trao phó cho họ, con người nam nữ có thể tham gia vào việc đem lại một thế giới hòa bình. Bên cạnh hệ sinh thái tự nhiên, còn có điều ta có thể gọi là hệ sinh thái “nhân bản”, một hệ sinh thái, đến lượt nó, đòi phải có một hệ sinh thái “xã hội”. Tất cả những điều này có nghĩa nhân loại, nếu họ thực sự mong muốn hòa bình, phải ngày càng ý thức được các mối liên kết giữa sinh thái tự nhiên, hoặc việc tôn trọng thiên nhiên và sinh thái nhân bản. Kinh nghiệm cho thấy, coi thường môi trường luôn gây hại cho sự chung sống của con người và ngược lại. Mỗi ngày người ta càng thấy rõ ràng có một mối liên kết không thể tách biệt giữa nền hòa bình với sáng thế và nền hòa bình giữa mọi con người. Cả hai điều này giả định nền hòa bình với Thiên Chúa. Bài thơ và là lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô, được biết dưới tên “Ca khúc Anh Mặt Trời”, là một thí dụ tuyệt vời và đúng lúc về hệ sinh thái hòa bình nhiều phương diện này.
9. Mối liên kết chặt chẽ giữa hai hệ sinh thái này có thể được hiểu nhờ vấn đề ngày càng nghiêm trọng về các nguồn cung cấp năng lượng. Trong những năm gần đây, các quốc gia mới đã nhiệt tình tham gia vào việc sản xuất công nghiệp, do đó làm tăng nhu cầu năng lượng của họ. Điều này đã dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng có để có được các nguyên lực sẵn có. Trong khi đó, một số nơi trên hành tinh vẫn lạc hậu và việc phát triển trên thực tế bị ngăn chặn một cách hữu hiệu, một phần do giá năng lượng gia tăng. Điều gì sẽ xảy ra với những dân tộc đó? Những loại phát triển hoặc không phát triển nào sẽ được áp đặt lên họ bởi sự khan hiếm các nguồn cung cấp năng lượng? Cuộc chạy đua chiếm các nguồn năng lực sẽ khích động những bất công và xung đột nào? Và đâu là phản ứng của những người bị loại khỏi cuộc chạy đua này? Đây là những vấn đề cho thấy việc tôn trọng thiên nhiên có liên quan chặt chẽ với nhu cầu phải thiết lập, giữa các cá nhân và giữa các quốc gia, các mối liên hệ biết lưu ý đến phẩm giá của con người và có khả năng đáp ứng nhu cầu đích thực của họ. Sự hủy hoại môi trường, việc sử dụng nó không đúng đắn hoặc ích kỷ và việc tích trữ tài nguyên của trái đất một cách bạo động đang gây ra sự bất bình, xung đột và chiến tranh, chính xác vì chúng là các hậu quả của một khái niệm phát triển vô nhân đạo. Thật vậy, nếu sự phát triển bị giới hạn vào khía cạnh kinh tế kỹ thuật, che khuất chiều kích đạo đức - tôn giáo, thì đó không phải là việc phát triển toàn diện của con người, nhưng là sự bóp méo một chiều mà kết cục là làm cho các năng lực hủy diệt của con người xổ lồng.
Các viễn kiến giản lược về con người
10. Như thế, có một nhu cầu cấp thiết, ngay cả trong khuôn khổ các khó khăn và căng thẳng quốc tế hiện nay, phải có một cam kết đối với một hệ sinh thái nhân bản có thể hỗ trợ việc phát triển của “cây hòa bình”. Để điều này xảy ra, chúng ta phải được hướng dẫn bằng một viễn kiến về con người không bị hoen ố bởi những định kiến ý thức hệ và văn hóa hoặc bởi những lợi ích chính trị và kinh tế có thể kích thích hận thù và bạo lực. Điều dễ hiểu là các viễn kiến về con người sẽ thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa nọ. Tuy nhiên, điều không thể chấp nhận là việc nuôi dưỡng các khái niệm nhân học có chứa hạt giống thù địch và bạo lực. Cũng không thể chấp nhận được là các khái niệm về Thiên Chúa nhằm khuyến khích lòng bất khoan dung và đi tìm bạo lực chống đối người khác. Đây là một điểm phải được tái khẳng định một cách rõ ràng: chiến tranh nhân danh Thiên Chúa không bao giờ được chấp nhận! Khi một khái niệm nào đó về Thiên Chúa làm nguồn gốc cho các hành vi tội phạm, thí đó là dấu hiệu cho thấy khái niệm đó đã trở thành một ý thức hệ.
11. Tuy nhiên, ngày nay, hòa bình không chỉ bị đe dọa bởi sự xung đột giữa các viễn kiến giản lược về con người, nói cách khác, giữa các ý thức hệ. Nó cũng bị đe dọa bởi sự thờ ơ đối với những gì cấu thành bản chất thực sự của con người. Nhiều người đương thời của chúng ta thực sự phủ nhận sự hiện hữu của một bản chất con người chuyên biệt và do đó mở cửa cho những diễn giải ngông cuồng nhất về những gì chủ yếu cấu thành nên một hữu thể nhân bản. Ở đây cũng thế, sự rõ ràng là điều cần thiết: một viễn kiến “yếu” về con người, một viễn kiến sẽ dành chỗ cho mọi thứ quan niệm, kể cả những quan niệm kỳ quái nhất, chỉ ủng hộ hòa bình ở ngoài mặt. Trong thực tế, nó cản trở cuộc đối thoại chân chính và mở đường cho những sự áp đặt độc đoán, cuối cùng khiến con người hết đường tự vệ và kết quả, trở thành con mồi dễ dàng để bị áp bức và bạo lực.
Các nhân quyền và các tổ chức quốc tế
12. Một nền hòa bình thực sự và ổn định giả định sự tôn trọng các nhân quyền. Tuy nhiên, nếu những quyền này dựa trên một khái niệm yếu về con người, làm thế nào chúng vẫn không tự làm cho mình yếu đi? Ở đây chúng ta có thể thấy sự thiếu sót sâu xa như thế nào của một khái niệm duy tương đối về con người khi nó đụng tới việc biện minh và bảo vệ các quyền của họ. Khó khăn trong trường hợp này khá rõ ràng: các quyền được đề xuất như tuyệt đối, tuy nhiên nền tảng trên đó chúng được giả thiết dựa vào chỉ là tương đối. Chúng ta có thể ngạc nhiên hay không, khi đối diện với những yêu cầu “bất tiện” được đặt ra bởi quyền này hay quyền nọ, một ai đó sẽ nghi vấn nó hoặc nhất định sẽ đặt nó sang một bên? Chỉ khi chúng được đặt nền tảng trong các yêu cầu khách quan của bản nhiên do Đấng Tạo Hóa ban tặng cho con người, thì các quyền được gán cho họ mới được khẳng định mà không sợ mâu thuẫn. Hơn nữa, không cần phải nói, các nhân quyền ngụ hàm các nghĩa vụ tương ứng. Về phương diện này, Mahatma Gandhi nói một cách khôn ngoan rằng: “Sông Hằng nhân quyền tuôn chẩy từ dãy Hi Mã Lạp Sơn nghĩa vụ”. Sự rõ ràng về các giả thiết căn bản này là điều cần thiết nếu các nhân quyền, ngày nay liên tục bị tấn công, phải được bảo vệ thỏa đáng. Không có sự rõ ràng như thế, biểu thức “nhân quyền” kết cuộc sẽ trở thành thuộc tính của các chủ thể khác nhau: trong một số trường hợp, là nhân vị được đánh dấu bởi phẩm giá và các quyền vĩnh viễn luôn có giá trị, ở mọi nơi và cho mọi người, nhưng trong các trường hợp khác, là một ngôi vị với một phẩm giá và các quyền bị liên tục thương lượng, liên quan đến nội dung, thời gian và địa điểm.
13. Việc bảo vệ các nhân quyền liên tục được các cơ quan quốc tế nhắc đến và đặc biệt là Tổ chức Liên Hiệp Quốc, nơi tự đặt cho mình nhiệm vụ căn bản là cổ vũ các nhân quyền được nêu ra trong Bản Tuyên ngôn Phổ Quát năm 1948. Tuyên ngôn đó được coi là một loại cam kết luân lý được toàn thể nhân loại đảm nhận. Có một sự thật sâu sắc về việc này, đặc biệt nếu các quyền được mô tả trong Tuyên ngôn được coi như không chỉ dựa trên các quyết định của hội đồng đã phê chuẩn chúng, mà dựa trên chính bản chất của con người và phẩm giá không thể chuyển nhượng của họ như một ngôi vị được Thiên Chúa tạo ra. Thành thử, điều quan trọng đối với các cơ quan quốc tế là không quên nền tảng tự nhiên của các nhân quyền. Điều này sẽ cho phép họ tránh được nguy cơ, mà không may đang hiện diện khắp nơi, sa vào việc giải thích đơn thuần có tính duy nghiệm về các quyền đó. Nếu điều này xảy ra, các cơ quan quốc tế kết cục sẽ thiếu thẩm quyền cần thiết để thi hành vai trò của họ như những người bảo vệ các quyền căn bản của con người và của các dân tộc, vốn là sự biện minh chính cho sự hiện hữu và hoạt động của họ.
Luật nhân đạo quốc tế và luật nội bộ của các quốc gia
14. Sự thừa nhận rằng có các nhân quyền bất khả nhượng nối kết với bản chất chung của con người chúng ta đã dẫn đến việc thành lập một bộ luật nhân đạo quốc tế được các quốc gia cam kết tôn trọng, ngay cả trong trường hợp chiến tranh. Không may, chưa nói đến các trường hợp trong quá khứ, điều này đã không được thực thi một cách nhất quán trong một số tình huống chiến tranh gần đây. Chẳng hạn, trường hợp tranh chấp xảy ra vài tháng trước đây ở miền nam Lebanon, nơi nhiệm vụ “bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân vô tội”, và tránh liên quan đến thường dân đã phần lớn bị làm ngơ. Tình hình đau lòng ở Lebanon và hình thức xung đột mới, nhất là từ khi mối đe dọa khủng bố đã xổ lồng nhiều hình thức bạo lực hoàn toàn mới, đòi hỏi cộng đồng quốc tế tái khẳng định luật nhân đạo quốc tế, và áp dụng nó vào mọi tình huống xung đột vũ trang ngày nay, kể cả những tình huống hiện không được quy định bởi luật pháp quốc tế. Hơn nữa, đại nạn khủng bố đòi một suy tư sâu sắc về các giới hạn đạo đức hạn chế việc sử dụng các phương pháp hiện đại để bảo đảm bảo an ninh nội bộ. Càng ngày, các cuộc chiến tranh không được tuyên bố, nhất là khi chúng được khởi xướng bởi các nhóm khủng bố quyết tâm đạt các mục đích của họ bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn. Trước những biến cố đáng lo ngại trong những năm gần đây, các quốc gia không thể không nhận ra sự cần thiết phải thiết lập các quy tắc rõ ràng hơn để phản công một cách hữu hiệu sự xuống dốc nghiêm trọng mà chúng ta đang chứng kiến. Chiến tranh luôn đại diện cho một thất bại của cộng đồng quốc tế và một mất mát nghiêm trọng đối với nhân loại. Khi, bất chấp mọi nỗ lực, chiến tranh vẫn nổ ra, ít nhất là các nguyên tắc thiết yếu của nhân loại và các giá trị căn bản của mọi cuộc chung sống dân sự phải được bảo vệ; các quy tắc ứng xử phải được thiết lập nhằm hạn chế thiệt hại càng nhiều càng tốt và giúp giảm bớt sự đau khổ của thường dân và của mọi nạn nhân của các cuộc xung đột (7).
15. Một vấn đề đáng lo ngại khác là mong muốn gần đây được một số quốc gia biểu lộ muốn thủ đắc vũ khí hạch nhân. Điều này đã làm tăng thêm bầu khí bất trắc và sợ hãi phổ quát về một thảm họa nguyên tử có thể xảy ra. Chúng ta được kịp thời đưa trở lại thời kỳ đầy những lo lắng sâu xa của “chiến tranh lạnh”. Khi nó kết thúc, người ta hy vọng rằng nguy cơ nguyên tử đã dứt khoát được khắc phục và nhân loại cuối cùng đã có thể thở phào nhẹ nhõm lâu dài. Về phương diện này, lời cảnh báo của Công đồng Vatican thứ hai quả đúng lúc khi cho rằng “mọi hành động chiến tranh hướng đến việc hủy diệt bừa bãi toàn bộ các thành phố hoặc khu vực rộng lớn với các cư dân của chúng là một tội ác chống lại Thiên Chúa và nhân loại, đáng bị lên án một cách mạnh mẽ và tuyệt đối ( 8)”. Không may, những đám mây đe dọa cứ tiếp tục tập trung trên đường chân trời của nhân loại. Cách để đảm bảo một tương lai hòa bình cho mọi người được tìm thấy không những trong các hiệp định quốc tế về việc không phổ biến các vũ khí hạch nhân, mà còn trong cam kết kiên quyết tìm cách giảm thiểu và tháo dỡ chúng cách dứt khoát. Ước mong mọi nỗ lực được đưa ra để, qua đàm phán, đạt tới các mục tiêu này! Số phận của cả gia đình nhân loại đang bị đe dọa!
Giáo hội như người bảo vệ tính siêu việt của nhân vị
16. Cuối cùng, tôi muốn đưa ra một lời kêu gọi khẩn cấp đối với dân Chúa: mọi Kitô hữu hãy cam kiến tạo hòa bình không mệt mỏi và hăng hái bảo vệ phẩm giá nhân vị và các quyền bất khả nhượng của họ.
Với lòng biết ơn Chúa đã kêu gọi họ thuộc về Giáo hội của Người, vốn là “dấu hiệu và bảo đảm chiều kích siêu việt của nhân vị”, (9) trên thế giới, người Kitô hữu sẽ không ngừng cầu khẩn Thiên Chúa ban cho thiện ích hòa bình căn bản, vốn có tầm quan trọng hàng đầu trong cuộc sống của mỗi người. Hơn nữa, họ sẽ tự hào phục vụ chính nghĩa hòa bình với lòng tận tụy đại lượng, cung ứng sự giúp đỡ cho các anh chị em của mình, nhất là những người, ngoài việc chịu đựng nghèo nàn và thiếu thốn, còn bị tước mất thiện ích quý giá này. Chúa Giêsu đã tiết lộ với chúng ta rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4: 8) và ơn gọi cao qúy nhất của mỗi người là tình yêu. Trong Chúa Kitô, chúng ta có thể tìm thấy lý do tối hậu để trở thành những người tranh đấu trung thành cho nhân phẩm và can đảm xây dựng hòa bình.
17 Như thế, mọi tín hữu hãy luôn góp phần vào việc thăng tiến chủ nghĩa nhân bản toàn điện đích thực phù hợp với giáo huấn của các Thông điệp Populorum Progressio và Sollicitudo Rei Socialis, mà các lễ kỷ niệm 40 năm và 20 năm chúng ta sẽ mừng vào năm nay. Với Nữ vương Hòa bình, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, “Hòa bình của chúng ta” (Eph 2:14), tôi phó thác lời cầu nguyện khẩn cấp của tôi cho toàn thể nhân loại vào đầu năm 2007, năm mà chúng ta nhìn tới với một trái tim tràn đầy hy vọng, bất chấp các nguy hiểm và khó khăn đang bao vây chúng ta. Xin Đức Maria chỉ cho chúng ta thấy, nơi Con của ngài, Con đường hòa bình và soi sáng viễn kiến của chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô trong khuôn mặt mỗi nhân vị, trái tim của hòa bình!
Tại Điện Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2006.
Bênêđíctô PP. XVI
Ghi chú
(1) Sách Giáo lý Của Giáo Hội Công Giáo, 357.
(2) Sermo 169, 11, 13: PL 38, 923.
(3) Số 3.
(4) Bài giảng tại Islinger Feld, Regensburg, ngày 12 tháng 9 năm 2006.
(5) Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về sự cộng tác của mọi người nam nữ trong Giáo hội và trong thế giới (31 tháng 5 năm 2004), 15-16.
(6) Số 38.
(7) Về phương diện này, Sách Giáo lý Của Giáo Hội Công Giáo ấn định các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chính xác: x. 2307-2317.
(8) Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 80.
(9) Ibid., 76.
Có thể nói chủ đề thông điệp hòa bình năm 2006 trên đây chính là chủ đề xây nền và bao quát cho các chủ đề các năm kế tiếp. Thực vậy, với thông điệp hòa bình năm 2007, Đức Bênêđíctô XVI nói tới nhân vị như là tâm điểm của hòa bình, vì muốn phát huy hòa bình, người ta phải tôn trọng con người, và nếu mốn xây dựng hòa bình, người ta phải đặt nền tảng cho một chủ nghĩa nhân bản toàn diện đúng nghĩa.
Theo Đức Bênêđíctô XVI, chính sự kiện được tạo ra theo hình ảnh Thiên Chúa đã tạo nên nhân phẩm cho mọi cá thể nhân bản. Họ không còn là một sự vật mà là một ai đó có khả năng tự nhận thức mình, tự chiếm hữu mình, tự do hiến thân và bước vào hiệp thông với người khác. Đồng thời, họ được mời gọi bước vào một giao ước với Đấng Tạo Dựng, khiến họ vượt trên các thụ tạo khác. Ngược lại, Thiên Chúa cũng trao cho họ nhiệm vụ yêu thương và đóng góp vào tiến bộ thế giới, canh tân thế giới ấy trong công lý và hòa bình.
Sau đây là nguyên văn Thông điệp:
1.Vào đầu năm mới, tôi muốn tỏ bầy các lời cầu chúc tốt đẹp trong cầu nguyện cho hòa bình tới các Chính phủ, các nhà lãnh đạo các quốc gia và mọi người nam nữ có thiện chí. Một cách đặc biệt, tôi cầu khẩn hòa bình xuống trên tất cả những người đang kinh qua đau đớn và đau khổ, những người đang sống dưới sự đe dọa của bạo lực và xâm lược vũ trang, và những người đang chờ đợi sự giải phóng nhân bản và xã hội của họ, mà nhân phẩm của họ đang bị chà đạp. Tôi cầu khẩn bình an xuống trên các trẻ em, những người bằng sự hồn nhiên của chúng làm giàu cho nhân loại bằng lòng tốt và hy vọng, và bằng những đau khổ của chúng buộc tất cả chúng ta phải làm việc cho công lý và hòa bình. Vì lo lắng cho trẻ em, đặc biệt là những em có tương lai bị tổn hại bởi sự bóc lột và ác ý của những người lớn vô lương tâm, vào Ngày Hòa bình Thế giới này, tôi mong muốn khuyến khích mọi người suy ngẫm về chủ đề: Nhân vị, Tâm điểm của Hòa bình. Tôi tin rằng tôn trọng nhân vị sẽ thúc đẩy hòa bình và, trong khi xây dựng hòa bình, (ta cũng) xây dựng các nền tảng cho một chủ nghĩa nhân bản toàn diện. Nhờ cách này, một tương lai thanh thản sẽ được chuẩn bị cho các thế hệ sắp tới.
Nhân vị và hòa bình: hồng ân và trách vụ
2. Sách thánh quả quyết rằng “Thiên Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chính Người, theo họa ảnh của Thiên Chúa, Người đã tạo ra họ; nam và nữ Người đã tạo ra họ” (St 1:27). Như một người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi cá nhân con người có phẩm giá của một ngôi vị; họ không phải chỉ là một cái gì đó, mà là một người nào đó, có khả năng tự hiểu biết, tự sở hữu, tự hiến mình và bước vào hiệp thông với những người khác. Đồng thời, mỗi ngôi vị được kêu gọi, nhờ ân sủng, bước vào giao ước với Đấng Tạo Hóa, được kêu gọi dành cho Người một đáp ứng đức tin và tình yêu mà không một tạo vật nào khác có thể dành cho Người thay cho họ (1). Từ quan điểm siêu nhiên trên, người ta có thể hiểu nhiệm vụ trao phó cho các hữu thể nhân bản phải chín mùi trong khả năng yêu thương và đóng góp cho sự tiến bộ của thế giới, làm mới nó trong công lý và hòa bình. Trong một tổng hợp nổi bật, Thánh Augustinô dạy rằng “Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta mà không cần sự trợ giúp của chúng ta; nhưng Người không chọn cứu chúng ta mà không có sự trợ giúp của chúng ta (2)”. Do đó, mọi hữu thể nhân bản có nhiệm vụ trau dồi ý thức về khía cạnh hai mặt hồng ân và trách vụ này.
3. Cũng thế, hòa bình vừa là hồng ân vừa là trách vụ. Nếu quả hòa bình giữa các cá nhân và dân tộc, tức khả năng sống với nhau và xây dựng các mối liên hệ công bằng và liên đới, đòi hỏi chúng ta phải cam kết không ngừng, thì điều cũng đúng, có khi còn đúng hơn thế, là hòa bình là một hồng ân Thiên Chúa ban. Hòa bình là một khía cạnh của hoạt động Thiên Chúa, được tỏ hiện cả trong việc tạo ra một vũ trụ có trật tự và hài hòa lẫn trong việc cứu chuộc nhân loại, một nhân loại vốn cần được giải cứu khỏi sự rối loạn của tội lỗi. Do đó, Sáng thế và Cứu chuộc cung cấp một chìa khóa giúp chúng ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống của chúng ta trên trái đất. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 5 tháng 10 năm 1995, đã tuyên bố rằng “chúng ta không sống trong một thế giới phi lý hoặc vô nghĩa ... có một luận lý học đạo đức được thiết dựng vào cuộc sống con người và luận lý học này làm cho cuộc đối thoại giữa các cá nhân và các dân tộc trở thành khả hữu” (3). “Văn phạm” siêu việt, nghĩa là việc nói rằng bộ quy tắc điều hướng hành động cá nhân và các mối liên hệ hỗ tương của các ngôi vị phù hợp với công lý và liên đới, đã được khắc ghi vào lương tâm con người, trong đó kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa được phản ảnh. Như gần đây tôi có dịp tái khẳng định: “chúng ta tin rằng vào lúc khởi đầu mọi sự đã có Lời, có Lý trí Vĩnh cửu chứ không phải Vô lý (4)". Vì vậy, Hòa bình cũng là một trách vụ đòi hỏi mọi người phải có đáp ứng bản thân phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn gây cảm hứng cho đáp ứng này chỉ có thể là việc tôn trọng đối với nền “văn phạm” vốn đã được viết vào trái tim con người bởi Đấng Tạo Hóa thần thiêng.
Từ quan điểm trên, các quy tắc của luật tự nhiên không nên bị coi như các nghị định áp đặt từ bên ngoài, như các hạn chế đối với tự do của con người. Đúng hơn, chúng nên được hoan nghênh như lời kêu gọi để thực thi cách trung thành kế hoạch thần thiêng phổ quát vốn được khắc ghi vào bản chất của các hữu thể nhân bản. Được hướng dẫn bởi những chuẩn mực này, mọi dân tộc, bên trong các nền văn hóa tương ứng của họ, có thể tới gần mầu nhiệm cao cả nhất, tức mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, việc công nhận và tôn trọng luật tự nhiên tượng trưng nền tảng cho một cuộc đối thoại giữa những người theo các tôn giáo khác nhau và giữa những người tin và không tin. Như một điểm hội tụ tuyệt vời, đây cũng là một giả định căn bản cho nền hòa bình đích thực.
Quyền sống và quyền tự do tôn giáo
4. Bổn phận tôn trọng phẩm giá của mỗi hữu thể nhân bản, mà bản chất vốn phản ảnh hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, do đó, có nghĩa là ngôi vị đó không thể bị loại bỏ mặc tình. Những người có quyền lực chính trị, kỹ thuật hoặc kinh tế lớn hơn không thể sử dụng quyền lực đó để vi phạm các quyền của những người kém may mắn hơn. Hòa bình dựa trên sự tôn trọng quyền của mọi người. Ý thức được điều này, Giáo hội tranh đấu cho các quyền căn bản của mỗi ngôi vị. Đặc biệt, Giáo Hội cổ vũ và bảo vệ việc tôn trọng quyền mọi người có tự do sống và tự do tôn giáo. Tôn trọng quyền sống ở mọi giai đoạn thiết lập một cách vững chắc nguyên tắc có tầm quan trọng quyết định này: sự sống là một hồng ân không hoàn toàn tùy ý muốn sử dụng của chủ thể. Cũng thế, việc khẳng định quyền tự do tôn giáo đặt hữu thể nhân bản vào mối tương quan với nguyên lý siêu việt vốn kéo họ ra khỏi tính thất thường nhân bản. Quyền sống và quyền tự do phát biểu đức tin bản vị vào Thiên Chúa không tùy thuộc quyền bính con người. Hòa bình đòi phải thiết lập ra ranh giới rõ ràng giữa những gì thuộc về việc sử dụng của con người và những gì không thuộc việc sử dụng ấy: nhờ cách này, những sự xâm nhập không thể chấp nhận được vào gia tài các giá trị nhân bản chuyên biệt có thể tránh được.
5. Về những gì liên quan đến quyền sống, chúng ta phải tố cáo việc vi phạm phổ biến đối với nó trong xã hội của chúng ta: bên cạnh các nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang, khủng bố và các hình thức bạo lực khác nhau, có những cái chết thầm lặng do nghèo đói, phá thai, thử nghiệm phôi người và trợ tử gây ra. Làm thế nào chúng ta có thể không thấy trong tất cả những điều này một cuộc tấn công vào hòa bình? Phá thai và thử nghiệm phôi thai tạo thành việc bác bỏ trực tiếp thái độ chấp nhận người khác, vốn là điều không thể miễn chấp trong việc thiết lập các mối tương quan hòa bình bền vững. Về việc tự do phát biểu đức tin bản vị, một triệu chứng đáng lo ngại khác về việc thiếu hòa bình trên thế giới được tìm thấy nơi các khó khăn mà cả các Kitô hữu lẫn tín đồ của các tôn giáo khác thường gặp phải khi công khai và tự do tuyên xưng các xác tín tôn giáo của họ. Nói riêng về các Kitô hữu, tôi phải đau lòng nhấn mạnh rằng không những đôi khi họ bị ngăn cản làm như vậy; ở một số quốc gia, họ còn thực sự bị bách hại, và thậm chí gần đây, các trường hợp bi thảm đầy bạo lực tàn khốc đã được ghi chép. Có những chế độ áp đặt một tôn giáo duy nhất lên mọi người, trong khi các chế độ thế tục thường không dẫn đến sự bách hại bạo lực cho bằng sự bôi lọ có hệ thống các niềm tin tôn giáo về phương diện văn hóa. Ở cả hai trường hợp, một nhân quyền căn bản đã không được tôn trọng, với những hệ luận nghiêm trọng đối với việc chung sống hòa bình. Điều này chỉ có thể cổ vũ một não trạng và một nền văn hóa không có lợi cho hòa bình.
Quyền bình đẳng tự nhiên của mọi người
6. Tận gốc gác của nhiều căng thẳng đang đe dọa hòa bình chắc chắn có nhiều bất bình đẳng bất công vẫn còn tồn tại một cách bi thảm trong thế giới của chúng ta. Một đàng, đặc biệt xảo quyệt trong số này là sự bất bình đẳng trong việc có được các hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, nước uống, nơi ở, sức khỏe; đàng khác, có những bất bình đẳng dai dẳng giữa nam và nữ trong việc thực thi các nhân quyền căn bản.
Một yếu tố căn bản của việc xây dựng hòa bình là việc công nhận sự bình đẳng thiết yếu của các nhân vị phát sinh từ phẩm giá siêu việt chung của họ. Sự bình đẳng ở bình diện này là một điều tốt thuộc về mọi người, được ghi khắc trong “văn phạm” tự nhiên đó, vốn có thể được diễn dịch từ kế hoạch sáng tạo thần thiêng; đây là một điều tốt không thể bị làm ngơ hoặc khinh miệt mà không gây ra các hệ quả nghiêm trọng gây nguy hiểm cho hòa bình. Sự túng thiếu cực kỳ nghiêm trọng đang ảnh hưởng đến nhiều dân tộc, đặc biệt là ở châu Phi, nằm ở gốc rễ của các phản ứng bạo lực và do đó gây ra một vết thương khủng khiếp cho hòa bình.
7. Tương tự như thế, sự cân nhắc không thỏa đáng đối với thân phận phụ nữ giúp tạo ra sự bất ổn trong kết cấu xã hội. Tôi nghĩ về việc bóc lột những người phụ nữ bị coi như đồ vật, và về nhiều cách thiếu tôn trọng biểu lộ đối với phẩm giá của họ; ở một bối cảnh khác, tôi cũng nghĩ đến tâm thức dai dẳng trong một số nền văn hóa, trong đó, phụ nữ vẫn còn lệ thuộc chặt chẽ vào các quyết định độc đoán của đàn ông, với những hậu quả nghiêm trọng đối với phẩm giá bản thân của họ và việc thực thi các quyền tự do căn bản của họ. Không thể có ảo tưởng nào về một nền hòa bình an ổn cho đến khi các hình thức kỳ thị này cũng phải được khắc phục, vì chúng làm tổn thương phẩm giá bản vị mà Đấng Tạo Hóa đã in sâu vào mọi hữu thể nhân bản (5).
“Hệ sinh thái hòa bình”
8. Trong Thông điệp Centesimus Annus, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “không những Thiên Chúa ban trái đất cho con người, kẻ phải sử dụng nó một cách tôn trọng nhằm mục đích tốt đẹp ban đầu mà nó đã được trao cho họ, mà chính con người cũng là hồng ân của Thiên Chúa ban cho con người. Do đó, họ phải tôn trọng cơ cấu tự nhiên và nền luân lý họ đã được phú ban” (6)”. Nhờ việc đáp trả trách vụ này, từng được Đấng Tạo Hóa trao phó cho họ, con người nam nữ có thể tham gia vào việc đem lại một thế giới hòa bình. Bên cạnh hệ sinh thái tự nhiên, còn có điều ta có thể gọi là hệ sinh thái “nhân bản”, một hệ sinh thái, đến lượt nó, đòi phải có một hệ sinh thái “xã hội”. Tất cả những điều này có nghĩa nhân loại, nếu họ thực sự mong muốn hòa bình, phải ngày càng ý thức được các mối liên kết giữa sinh thái tự nhiên, hoặc việc tôn trọng thiên nhiên và sinh thái nhân bản. Kinh nghiệm cho thấy, coi thường môi trường luôn gây hại cho sự chung sống của con người và ngược lại. Mỗi ngày người ta càng thấy rõ ràng có một mối liên kết không thể tách biệt giữa nền hòa bình với sáng thế và nền hòa bình giữa mọi con người. Cả hai điều này giả định nền hòa bình với Thiên Chúa. Bài thơ và là lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô, được biết dưới tên “Ca khúc Anh Mặt Trời”, là một thí dụ tuyệt vời và đúng lúc về hệ sinh thái hòa bình nhiều phương diện này.
9. Mối liên kết chặt chẽ giữa hai hệ sinh thái này có thể được hiểu nhờ vấn đề ngày càng nghiêm trọng về các nguồn cung cấp năng lượng. Trong những năm gần đây, các quốc gia mới đã nhiệt tình tham gia vào việc sản xuất công nghiệp, do đó làm tăng nhu cầu năng lượng của họ. Điều này đã dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng có để có được các nguyên lực sẵn có. Trong khi đó, một số nơi trên hành tinh vẫn lạc hậu và việc phát triển trên thực tế bị ngăn chặn một cách hữu hiệu, một phần do giá năng lượng gia tăng. Điều gì sẽ xảy ra với những dân tộc đó? Những loại phát triển hoặc không phát triển nào sẽ được áp đặt lên họ bởi sự khan hiếm các nguồn cung cấp năng lượng? Cuộc chạy đua chiếm các nguồn năng lực sẽ khích động những bất công và xung đột nào? Và đâu là phản ứng của những người bị loại khỏi cuộc chạy đua này? Đây là những vấn đề cho thấy việc tôn trọng thiên nhiên có liên quan chặt chẽ với nhu cầu phải thiết lập, giữa các cá nhân và giữa các quốc gia, các mối liên hệ biết lưu ý đến phẩm giá của con người và có khả năng đáp ứng nhu cầu đích thực của họ. Sự hủy hoại môi trường, việc sử dụng nó không đúng đắn hoặc ích kỷ và việc tích trữ tài nguyên của trái đất một cách bạo động đang gây ra sự bất bình, xung đột và chiến tranh, chính xác vì chúng là các hậu quả của một khái niệm phát triển vô nhân đạo. Thật vậy, nếu sự phát triển bị giới hạn vào khía cạnh kinh tế kỹ thuật, che khuất chiều kích đạo đức - tôn giáo, thì đó không phải là việc phát triển toàn diện của con người, nhưng là sự bóp méo một chiều mà kết cục là làm cho các năng lực hủy diệt của con người xổ lồng.
Các viễn kiến giản lược về con người
10. Như thế, có một nhu cầu cấp thiết, ngay cả trong khuôn khổ các khó khăn và căng thẳng quốc tế hiện nay, phải có một cam kết đối với một hệ sinh thái nhân bản có thể hỗ trợ việc phát triển của “cây hòa bình”. Để điều này xảy ra, chúng ta phải được hướng dẫn bằng một viễn kiến về con người không bị hoen ố bởi những định kiến ý thức hệ và văn hóa hoặc bởi những lợi ích chính trị và kinh tế có thể kích thích hận thù và bạo lực. Điều dễ hiểu là các viễn kiến về con người sẽ thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa nọ. Tuy nhiên, điều không thể chấp nhận là việc nuôi dưỡng các khái niệm nhân học có chứa hạt giống thù địch và bạo lực. Cũng không thể chấp nhận được là các khái niệm về Thiên Chúa nhằm khuyến khích lòng bất khoan dung và đi tìm bạo lực chống đối người khác. Đây là một điểm phải được tái khẳng định một cách rõ ràng: chiến tranh nhân danh Thiên Chúa không bao giờ được chấp nhận! Khi một khái niệm nào đó về Thiên Chúa làm nguồn gốc cho các hành vi tội phạm, thí đó là dấu hiệu cho thấy khái niệm đó đã trở thành một ý thức hệ.
11. Tuy nhiên, ngày nay, hòa bình không chỉ bị đe dọa bởi sự xung đột giữa các viễn kiến giản lược về con người, nói cách khác, giữa các ý thức hệ. Nó cũng bị đe dọa bởi sự thờ ơ đối với những gì cấu thành bản chất thực sự của con người. Nhiều người đương thời của chúng ta thực sự phủ nhận sự hiện hữu của một bản chất con người chuyên biệt và do đó mở cửa cho những diễn giải ngông cuồng nhất về những gì chủ yếu cấu thành nên một hữu thể nhân bản. Ở đây cũng thế, sự rõ ràng là điều cần thiết: một viễn kiến “yếu” về con người, một viễn kiến sẽ dành chỗ cho mọi thứ quan niệm, kể cả những quan niệm kỳ quái nhất, chỉ ủng hộ hòa bình ở ngoài mặt. Trong thực tế, nó cản trở cuộc đối thoại chân chính và mở đường cho những sự áp đặt độc đoán, cuối cùng khiến con người hết đường tự vệ và kết quả, trở thành con mồi dễ dàng để bị áp bức và bạo lực.
Các nhân quyền và các tổ chức quốc tế
12. Một nền hòa bình thực sự và ổn định giả định sự tôn trọng các nhân quyền. Tuy nhiên, nếu những quyền này dựa trên một khái niệm yếu về con người, làm thế nào chúng vẫn không tự làm cho mình yếu đi? Ở đây chúng ta có thể thấy sự thiếu sót sâu xa như thế nào của một khái niệm duy tương đối về con người khi nó đụng tới việc biện minh và bảo vệ các quyền của họ. Khó khăn trong trường hợp này khá rõ ràng: các quyền được đề xuất như tuyệt đối, tuy nhiên nền tảng trên đó chúng được giả thiết dựa vào chỉ là tương đối. Chúng ta có thể ngạc nhiên hay không, khi đối diện với những yêu cầu “bất tiện” được đặt ra bởi quyền này hay quyền nọ, một ai đó sẽ nghi vấn nó hoặc nhất định sẽ đặt nó sang một bên? Chỉ khi chúng được đặt nền tảng trong các yêu cầu khách quan của bản nhiên do Đấng Tạo Hóa ban tặng cho con người, thì các quyền được gán cho họ mới được khẳng định mà không sợ mâu thuẫn. Hơn nữa, không cần phải nói, các nhân quyền ngụ hàm các nghĩa vụ tương ứng. Về phương diện này, Mahatma Gandhi nói một cách khôn ngoan rằng: “Sông Hằng nhân quyền tuôn chẩy từ dãy Hi Mã Lạp Sơn nghĩa vụ”. Sự rõ ràng về các giả thiết căn bản này là điều cần thiết nếu các nhân quyền, ngày nay liên tục bị tấn công, phải được bảo vệ thỏa đáng. Không có sự rõ ràng như thế, biểu thức “nhân quyền” kết cuộc sẽ trở thành thuộc tính của các chủ thể khác nhau: trong một số trường hợp, là nhân vị được đánh dấu bởi phẩm giá và các quyền vĩnh viễn luôn có giá trị, ở mọi nơi và cho mọi người, nhưng trong các trường hợp khác, là một ngôi vị với một phẩm giá và các quyền bị liên tục thương lượng, liên quan đến nội dung, thời gian và địa điểm.
13. Việc bảo vệ các nhân quyền liên tục được các cơ quan quốc tế nhắc đến và đặc biệt là Tổ chức Liên Hiệp Quốc, nơi tự đặt cho mình nhiệm vụ căn bản là cổ vũ các nhân quyền được nêu ra trong Bản Tuyên ngôn Phổ Quát năm 1948. Tuyên ngôn đó được coi là một loại cam kết luân lý được toàn thể nhân loại đảm nhận. Có một sự thật sâu sắc về việc này, đặc biệt nếu các quyền được mô tả trong Tuyên ngôn được coi như không chỉ dựa trên các quyết định của hội đồng đã phê chuẩn chúng, mà dựa trên chính bản chất của con người và phẩm giá không thể chuyển nhượng của họ như một ngôi vị được Thiên Chúa tạo ra. Thành thử, điều quan trọng đối với các cơ quan quốc tế là không quên nền tảng tự nhiên của các nhân quyền. Điều này sẽ cho phép họ tránh được nguy cơ, mà không may đang hiện diện khắp nơi, sa vào việc giải thích đơn thuần có tính duy nghiệm về các quyền đó. Nếu điều này xảy ra, các cơ quan quốc tế kết cục sẽ thiếu thẩm quyền cần thiết để thi hành vai trò của họ như những người bảo vệ các quyền căn bản của con người và của các dân tộc, vốn là sự biện minh chính cho sự hiện hữu và hoạt động của họ.
Luật nhân đạo quốc tế và luật nội bộ của các quốc gia
14. Sự thừa nhận rằng có các nhân quyền bất khả nhượng nối kết với bản chất chung của con người chúng ta đã dẫn đến việc thành lập một bộ luật nhân đạo quốc tế được các quốc gia cam kết tôn trọng, ngay cả trong trường hợp chiến tranh. Không may, chưa nói đến các trường hợp trong quá khứ, điều này đã không được thực thi một cách nhất quán trong một số tình huống chiến tranh gần đây. Chẳng hạn, trường hợp tranh chấp xảy ra vài tháng trước đây ở miền nam Lebanon, nơi nhiệm vụ “bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân vô tội”, và tránh liên quan đến thường dân đã phần lớn bị làm ngơ. Tình hình đau lòng ở Lebanon và hình thức xung đột mới, nhất là từ khi mối đe dọa khủng bố đã xổ lồng nhiều hình thức bạo lực hoàn toàn mới, đòi hỏi cộng đồng quốc tế tái khẳng định luật nhân đạo quốc tế, và áp dụng nó vào mọi tình huống xung đột vũ trang ngày nay, kể cả những tình huống hiện không được quy định bởi luật pháp quốc tế. Hơn nữa, đại nạn khủng bố đòi một suy tư sâu sắc về các giới hạn đạo đức hạn chế việc sử dụng các phương pháp hiện đại để bảo đảm bảo an ninh nội bộ. Càng ngày, các cuộc chiến tranh không được tuyên bố, nhất là khi chúng được khởi xướng bởi các nhóm khủng bố quyết tâm đạt các mục đích của họ bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn. Trước những biến cố đáng lo ngại trong những năm gần đây, các quốc gia không thể không nhận ra sự cần thiết phải thiết lập các quy tắc rõ ràng hơn để phản công một cách hữu hiệu sự xuống dốc nghiêm trọng mà chúng ta đang chứng kiến. Chiến tranh luôn đại diện cho một thất bại của cộng đồng quốc tế và một mất mát nghiêm trọng đối với nhân loại. Khi, bất chấp mọi nỗ lực, chiến tranh vẫn nổ ra, ít nhất là các nguyên tắc thiết yếu của nhân loại và các giá trị căn bản của mọi cuộc chung sống dân sự phải được bảo vệ; các quy tắc ứng xử phải được thiết lập nhằm hạn chế thiệt hại càng nhiều càng tốt và giúp giảm bớt sự đau khổ của thường dân và của mọi nạn nhân của các cuộc xung đột (7).
15. Một vấn đề đáng lo ngại khác là mong muốn gần đây được một số quốc gia biểu lộ muốn thủ đắc vũ khí hạch nhân. Điều này đã làm tăng thêm bầu khí bất trắc và sợ hãi phổ quát về một thảm họa nguyên tử có thể xảy ra. Chúng ta được kịp thời đưa trở lại thời kỳ đầy những lo lắng sâu xa của “chiến tranh lạnh”. Khi nó kết thúc, người ta hy vọng rằng nguy cơ nguyên tử đã dứt khoát được khắc phục và nhân loại cuối cùng đã có thể thở phào nhẹ nhõm lâu dài. Về phương diện này, lời cảnh báo của Công đồng Vatican thứ hai quả đúng lúc khi cho rằng “mọi hành động chiến tranh hướng đến việc hủy diệt bừa bãi toàn bộ các thành phố hoặc khu vực rộng lớn với các cư dân của chúng là một tội ác chống lại Thiên Chúa và nhân loại, đáng bị lên án một cách mạnh mẽ và tuyệt đối ( 8)”. Không may, những đám mây đe dọa cứ tiếp tục tập trung trên đường chân trời của nhân loại. Cách để đảm bảo một tương lai hòa bình cho mọi người được tìm thấy không những trong các hiệp định quốc tế về việc không phổ biến các vũ khí hạch nhân, mà còn trong cam kết kiên quyết tìm cách giảm thiểu và tháo dỡ chúng cách dứt khoát. Ước mong mọi nỗ lực được đưa ra để, qua đàm phán, đạt tới các mục tiêu này! Số phận của cả gia đình nhân loại đang bị đe dọa!
Giáo hội như người bảo vệ tính siêu việt của nhân vị
16. Cuối cùng, tôi muốn đưa ra một lời kêu gọi khẩn cấp đối với dân Chúa: mọi Kitô hữu hãy cam kiến tạo hòa bình không mệt mỏi và hăng hái bảo vệ phẩm giá nhân vị và các quyền bất khả nhượng của họ.
Với lòng biết ơn Chúa đã kêu gọi họ thuộc về Giáo hội của Người, vốn là “dấu hiệu và bảo đảm chiều kích siêu việt của nhân vị”, (9) trên thế giới, người Kitô hữu sẽ không ngừng cầu khẩn Thiên Chúa ban cho thiện ích hòa bình căn bản, vốn có tầm quan trọng hàng đầu trong cuộc sống của mỗi người. Hơn nữa, họ sẽ tự hào phục vụ chính nghĩa hòa bình với lòng tận tụy đại lượng, cung ứng sự giúp đỡ cho các anh chị em của mình, nhất là những người, ngoài việc chịu đựng nghèo nàn và thiếu thốn, còn bị tước mất thiện ích quý giá này. Chúa Giêsu đã tiết lộ với chúng ta rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4: 8) và ơn gọi cao qúy nhất của mỗi người là tình yêu. Trong Chúa Kitô, chúng ta có thể tìm thấy lý do tối hậu để trở thành những người tranh đấu trung thành cho nhân phẩm và can đảm xây dựng hòa bình.
17 Như thế, mọi tín hữu hãy luôn góp phần vào việc thăng tiến chủ nghĩa nhân bản toàn điện đích thực phù hợp với giáo huấn của các Thông điệp Populorum Progressio và Sollicitudo Rei Socialis, mà các lễ kỷ niệm 40 năm và 20 năm chúng ta sẽ mừng vào năm nay. Với Nữ vương Hòa bình, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, “Hòa bình của chúng ta” (Eph 2:14), tôi phó thác lời cầu nguyện khẩn cấp của tôi cho toàn thể nhân loại vào đầu năm 2007, năm mà chúng ta nhìn tới với một trái tim tràn đầy hy vọng, bất chấp các nguy hiểm và khó khăn đang bao vây chúng ta. Xin Đức Maria chỉ cho chúng ta thấy, nơi Con của ngài, Con đường hòa bình và soi sáng viễn kiến của chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô trong khuôn mặt mỗi nhân vị, trái tim của hòa bình!
Tại Điện Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2006.
Bênêđíctô PP. XVI
Ghi chú
(1) Sách Giáo lý Của Giáo Hội Công Giáo, 357.
(2) Sermo 169, 11, 13: PL 38, 923.
(3) Số 3.
(4) Bài giảng tại Islinger Feld, Regensburg, ngày 12 tháng 9 năm 2006.
(5) Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về sự cộng tác của mọi người nam nữ trong Giáo hội và trong thế giới (31 tháng 5 năm 2004), 15-16.
(6) Số 38.
(7) Về phương diện này, Sách Giáo lý Của Giáo Hội Công Giáo ấn định các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chính xác: x. 2307-2317.
(8) Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 80.
(9) Ibid., 76.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét