Đoàn Hành Hương Giáo Phận Ban Mê Thuột
Gặp Gỡ Đức Thánh Cha Tại Thái Lan (2)
Sau một đêm bình an và hạnh phúc, đoàn hành hương lên đường từ
5 giờ sáng để đến Nhà thờ Giáo xứ Thánh Phêrô thuộc huyện Sam Phran, tỉnh
Nakhon Pathom. Tại đây Đức Thánh Cha gặp gỡ các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và
giáo lý viên; và đối diện là Đền thánh Chân phước Nicolas Bunkerd Kitbamrung, tại
đây Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ với các Giám mục Thái Lan và
các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu.
Nhà thờ Giáo xứ Thánh Phêrô
Giáo xứ Thánh Phêrô được thành lập vào năm 1840. Lúc đầu được
làm bằng tre, sau đó được trùng tu lại nhiều lần, lần cuối cùng vào năm 1989.
Vào lúc 9 giờ 30, Đức Thánh Cha đến giáo xứ thánh Phêrô. Trước
khi vào nhà thờ, Đức Thánh Cha đi thăm tất các các tín hữu có mặt tại giáo xứ
thánh Phêrô. Để được tận mắt nhìn thấy vị đại diện Chúa Kitô bằng xương bằng thịt
với cự ly gần nhất, đoàn hành hương giáo phận Ban Mê Thuột, đã vào vị trí của
mình rất sớm, ngồi sát hàng rào danh dự để đón chờ Đức Thánh Cha. Thật là hạnh
phúc, đoàn là một số rất ít trong khoảng 7000 tín hữu Việt Nam sang Thái Lan được
vào giáo xứ thánh Phêrô.
Khi bước chân vào khu vực G5 của người Việt Nam, mỗi người được
trao 2 lá cờ để chào đón Đức Thánh Cha, được trao một gói quà sáng gồm: 1 chai
nước suối, 1 cái bánh ngọt và 1 gói xôi thịt cùng 1 cuốn sách Pilgrim of
Companionship and Fraternity.
Sau khi chào thăm mọi tín hữu, Đức Thánh Cha vào nhà thờ. Tại bàn thờ, một linh mục, một nữ tu, một
chủng sinh và một giáo lý viên dâng hoa cho Ngài. Ngài đặt hoa dưới chân tượng
Thánh Phêrô và thinh lặng cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và giáo lý viên
- Lòng biết ơn
Trong buổi nói chuyện với các linh mục, tu sĩ và giáo lý
viên, Đức Thánh Cha nhắc nhở các tu sĩ không được quên cám ơn mỗi
ngày về ơn gọi của mình: “Nghĩ đến lịch sử
ơn gọi của mỗi người, giúp chúng ta khám phá và nhận ra ngọn lửa của Thánh
Linh. Thật là đẹp và quan trọng khi biết tạ ơn. Lòng biết ơn luôn là một ‘vũ
khí mạnh mẽ’. Chỉ khi chúng ta suy gẫm và cám ơn một cách cụ thể, Chúa Thánh Thần
sẽ ban cho chúng ta làn gió tươi mát, làm mới lại đời sống và ơn gọi của chúng
ta”.
- Đánh thức cái đẹp
Khi một nữ tu làm chứng về việc theo đạo của mình nhờ nét đẹp
dịu dàng của Mẹ Maria, một Trinh Nữ. Ngài nói : “Sơ Bernadetta nói với chúng ta về
cách Chúa thu hút anh chị em qua cái đẹp, nét đẹp của một hình ảnh Trinh Nữ.
Cái nhìn đặc biệt của Trinh Nữ đã đi vào tâm hồn của anh chị em và khơi dậy ước
muốn được biết thêm Trinh Nữ. Người phụ nữ này là ai? Đây không phải là lời
nói, ý tưởng trừu tượng hay lý luận lạnh lùng. Tất cả bắt đầu bằng một cái nhìn
đẹp khiến anh chị em say mê. Hãy đánh thức cái đẹp, vì nó có thể mở ra những
chân trời mới và đưa ra những câu hỏi mới. Một cuộc đời tận hiến không thể mở
ra cho sự ngạc nhiên thì nó chỉ là một cuộc sống nữa vời”.
- Sứ vụ cho thế giới
Từ cuộc sống cá nhân của người tận hiến, Đức Thánh Cha đề cập
đến sứ vụ cho anh chị em: “Chúa không kêu
gọi chúng ta, sai chúng ta vào thế giới để làm cho gánh nặng của anh chị em trở
nên nặng nề hơn, nhưng để chia sẻ một niềm vui, một chân trời mới, đẹp và đáng
ngạc nhiên. Chính điều này thúc đẩy chúng ta không ngại tìm kiếm những biểu tượng
và hình ảnh mới, một thứ âm nhạc đặc biệt giúp người dân Thái Lan đánh thức kỳ
quan mà Chúa muốn ban cho chúng ta. Chúng ta không được sợ làm cho Tin Mừng
ngày càng được hội nhập vào văn hóa. Cần phải tìm kiếm những hình thức mới để
loan truyền Lời có khả năng rung chuyển và đánh thức ước muốn biết Chúa. Hãy
can đảm tìm cách rao giảng đức tin "theo tiếng địa phương", theo cách
của một người mẹ hát ru con mình”.
- Cầu nguyện
Về đời sống cầu nguyện, một yếu tố vô cùng quan trọng của đời
thánh hiến, Ngài khẳng định rằng: Thành quả tông đồ được duy trì nhờ cầu nguyện.
Suy ngẫm trong hành động, cho phép Thiên Chúa đi vào những điều nhỏ nhặt mỗi
ngày. Không có cầu nguyện, cả cuộc đời và sứ mệnh của chúng ta sẽ mất đi ý
nghĩa, sức mạnh và lòng nhiệt thành. Thánh Giáo hoàng Phaolô VI nói: một trong
những kẻ thù tồi tệ nhất của việc loan báo Tin Mừng là thiếu lòng nhiệt thành
(Eveachii Nuntiandi, 80). Và lòng nhiệt thành đối với tu sĩ, linh mục và giáo
lý viên được nuôi dưỡng trong cuộc gặp gỡ kép này: với Chúa và với anh chị em.
Kết thúc bài nói chuyện, ĐTC khuyên các tu sĩ đừng để mình bị
rơi vào cám dỗ nghĩ rằng mình chỉ là số ít; nhưng hãy nghĩ mình là những dụng cụ
bé nhỏ trong bày tay sáng tạo của Chúa. Ngài sẽ viết trên đó những trang đẹp nhất
trong lịch sử cứu độ ở những vùng đất này.
Sau bài huấn dụ, Đức Thánh Cha cùng cầu nguyện với cộng đoàn
và ban phép lành cho tất cả. (3)
Kế đến, lúc 11g, Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám mục Thái Lan
và các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Đền thánh Chân phước
Nicholas Boonkerd Kitbamrung.
Chân phước Nicolas Bunkerd
Kitbamrung
Nicolas Bunkerd Kitbamrung sinh ngày 31.01.1898 tại huyện Nakhon Chaisri thuộc tỉnh Nakhon Pathom, bấy giờ thuộc Bangkok, cách thủ đô 30 cây số. Thân phụ ngài là Ông Joseph Poxang, thành hôn với Agnès Thiang ngày 20.11.1893, và Bunkerd là con đầu lòng được cha René Perros, thuộc Hội thừa sai rửa tội với tên thánh là Benedictus, nhưng luôn được gọi là Nicolas.
Bunkerd có 5 người em và tất cả đều được
giáo dục trong tinh thần Công Giáo nhờ tiếp xúc với các thừa sai. Khi còn nhỏ,
Nicolas Bunkerd thường giúp lễ và tỏ ra có tính tình nhút nhát, và xa tránh các
bạn xấu. Năm 13 tuổi, cậu Bunkerd được gửi vào tiểu chủng viện Bang Xang, và
trong những năm tại đây, cậu cũng sinh hoạt mục vụ với giới trẻ. Lên đại chủng
viện Penang ở Malaysia vào năm 1920, bấy giờ là trung tâm quốc tế đào tạo các
linh mục cho vùng Đông Nam Á.
Thầy Bunkerd Kitbunchu có trí khôn thông
minh, tính tình cương quyết, sức khỏe và hạnh kiểm tốt, kết quả các kỳ thi có
điểm rất cao. Tính tình mạnh mẽ khiến cho thầy ban đầu có vẻ tự phụ, nhạy cảm,
dễ nổi giận và hơi cứng đầu, nhưng khi các bề trên cảnh giác, thì thầy quyết
tâm cải tiến, sửa chữa và xin các bề trên tiếp tục khuyên bảo.
Hoạt động tông đồ
Ngày 24.01.1926, thầy Nicolas Bunkerd
thụ phong linh mục cùng với 4 thầy bạn tại Nhà thờ chính tòa Bangkok. Và bắt
đầu hoạt động mục vụ và truyền giáo, trước hết làm cha phó tại Bang-Nok-Khnuek,
của cha Durand, thuộc Hội thừa sai Paris.
Ngày 01.01.1928, cha Nicolas Bunkerd
được cử làm cha phó tại Phisatnulok dưới sự hướng dẫn của cha thừa sai Mirabel
người Pháp. Cha làm việc trong xứ đạo và học tiếng Hoa. Từ năm 1930 đến 1937,
cha được gửi đi làm việc truyền giáo tại miền Bắc Thái. Đây là một công việc
rất phức tạp: phục hồi các tín hữu Công Giáo, vì nghèo đói nên đã lơ là việc
hành đạo, những cuộc du hành ở những miền hiểm trở, đường đi khó khăn và chưa
được khai phá ở biên giới Lào. Tại Chiang Mai, một nhà nguyện được thiết lập
như trung tâm hoạt động tông đồ. Từ đó, cha Nicolas Bunkerd mở các chuyến đi
truyền giáo cho đến tận Miến Điện, vượt qua những con đường núi hiểm trở, qua
những con sông nước chảy xiết.
Thay đổi nhiệm sở
Năm 1937, Cha Bunkerd lại đổi nhiệm sở
lần thứ tư và được gửi tới huyện Khorat với nhiệm vụ cha sở. Lúc ấy cha đã 42
tuổi và đạt được những thành quả rất tốt trong việc hồi phục các tín hữu Công
Giáo đã đi trệch đường. Cha tổ chức các lớp giáo lý cho người ngoại đạo, cho
người dự tòng; cha cũng kiêm nhiệm thêm giáo xứ lân cận Non-Kaew từ năm 1938
đến 1941. Trong lúc đó, chiến tranh bùng nổ tại Đông Dương và Thái Lan cũng bị
can dự. Cha bị tố cáo là làm gián điệp cho Pháp nên bị bắt ngày 12.01.1941 và
giam tại nhà tù ở địa phương, rồi 40 ngày sau giải tới nhà tù quân sự ở thủ đô.
Tại đây, cha bị xét xử và lên án 15 năm tù, nhưng vì bị bệnh lao phổi, cha qua
đời ngày 12.01.1944, sau bao nhiêu ngược đãi và hành hạ, lao lực trong tù.
Con đường tử đạo
Vụ cha Bunkerd bị bắt và những lý do
khiến cha bị kết án nằm trong khuôn khổ cuộc bách hại chống Công Giáo tại Thái
Lan, trong các năm 1930 và đầu thập niên 1940. Cha Nicolas Bunkerd bị kết án vì
một số nhóm bài người nước ngoài, các chính trị gia bài Công Giáo ghét luôn cả
các tín hữu Công Giáo thời đó, và nhất là nếu đó là một linh mục Công Giáo.
Sau 3 năm bị cầm tù, vị Tôi Tớ Chúa chết
vì bệnh lao, mắc phải trong tù, và không được săn sóc. Cha đã dạy giáo lý và
rửa tội cho 68 tù nhân. Cha sống những năm tù gay go và bất công với tinh thần
bình thản, chấp nhận số phận và lòng bác ái Kitô trung thành, chấp nhận hoàn
cảnh, không kêu than, và coi đó như ý Chúa: Cha tha thứ cho những kẻ vu khống
và bách hại cha.
Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
tôn phong chân phước tại Roma ngày 05 tháng 03 Năm Thánh 2000.
Cha Nicolas Bunkerd Kitbamrung thật là
một mẫu gương quan trọng cho các Linh Mục tại các xứ truyền giáo ngày nay
thường bị bách hại. Cha cũng giúp tái đẩy mạnh linh đạo linh mục triều trong
Ngàn Năm Thứ Ba. (4)
Gặp gỡ các Giám mục Thái Lan và Liên hội đồng Giám mục Châu Á
Sau khi gặp
các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên, tại giáo xứ Thánh Phêrô, Đức
Thánh Cha đến đền thánh chân phước Chân phước Nicholas Bunkerd Kitbamrung ở đối
diện. Tại đây, Đức Thánh Cha có buổi nói chuyện với các Giám mục Thái Lan và
Liên hội đồng Giám mục Châu Á, để
nói với các ngài rằng Giáo Hội đang đối diện với nhiều thách đố, nhưng gương
sáng các nhà truyền giáo tiên khởi của Thái Lan và Châu Á, có thể mang đến cho
chúng ta niềm hy vọng và sức mạnh.
Đôi nét về Liên Hội đồng Giám mục Á châu
Liên Hội đồng Giám mục Á châu (LHĐGMAC) (The Federation of Asian Bishop’Conferences / FABC), là một
tổ chức được Tòa thánh phê chuẩn, có tính xuyên quốc gia, nhằm liên kết các Hội
đồng Giám mục các Giáo Hội Công giáo địa phương ở châu Á lại với nhau trong
tình hữu nghị và hợp tác.
LHĐGMAC được hình thành từ cuộc gặp gỡ của 180 giám mục từ khắp
châu Á, tại Hội nghị các giám mục Á châu (ABM: Asian Bishops’ Meeting), ở
Manila (Philippines) vào tháng 11 năm 1970, nhân dịp Đức giáo hoàng Phaolô VI
viếng thăm nước này.
Hiện nay, LHĐGMAC có 18 thành viên chính thức: (1) Bangladesh, (2)
Indonesia, (3) Nhật, (4) Kazakhstan, (5) Hàn Quốc, (6) Lào–Cambodia, (7)
Malaysia–Singapore–Brunei, (8) Myanmar, (9) Pakistan, (10) Philippines, (11)
Sri Lanka, (12) Taiwan, (13) Thái Lan (14) Việt Nam và Ấn độ [gồm: (15) CBCI
(Catholic Bishop’s Conference of India): Hội đồng giám mục Ấn Độ, (16) CCBI
(Conference of the Catholic Bishops of India): Hội đồng Giám mục Ấn độ lễ chế
Latinh, (17) SMBS (Syro–Malabar Bishops’ Synod): Thượng Hội đồng Giám mục lễ
chế Syro–Malabar và (18) Syro–Malankara (Holy Episcopal Synod): Thượng Hội đồng
giám mục lễ chế Syro–Malankara.
Ngoài ra, LHĐGMAC còn có 13 thành viên không chính thức (thành viên
“liên kết”): (1) Giáo phận Baucau (Timor–Leste), (2) Giáo phận Dili
(Timor–Leste), (3) Giáo phận Maliana (Timor–Leste), (4) Giáo phận Hồng Kông
(Trung Quốc), (5) Giáo phận Ma cao (Trung Quốc), (6) Mông Cổ, (7) Nepal, (8)
Giáo phận thánh Giuse (Irkutsk, Siberia), (9) Giáo phận Chúa Hiển dung
(Novosibirsk, Siberia), (10) Kyrgyzstan, (11) Tajikistan, (12) Turkmenistan và
(13) Uzbekistan (xem Mạnh Hữu, WHĐ).
Chức năng của LHĐGMAC
LHĐGMAC không phải là một “Hội đồng Giám mục cấp cao” bao trùm lên
trên các Hội đồng Giám mục thành viên. LHĐGMAC tôn trọng quyền tự chủ của mỗi
giám mục, của từng HĐGM thành viên, và của từng Hội nghị miền trong LHĐGMAC.
LHĐGMAC là một “Hiệp hội tự nguyện của các Hội đồng Giám mục ở Nam Á, Đông Nam
Á, Đông Á và Trung Á”. Là một “hiệp hội tự nguyện”, các quyết nghị cũng như
khuyến nghị của LHĐGMAC không có tính “ràng buộc pháp lý”. Mục đích chính của
LHĐGMAC, như được giới thiệu, là củng cố tình liên đới và đồng trách nhiệm giữa
các thành viên vì lợi ích của Giáo Hội và của xã hội tại châu Á.
* Nghiên
cứu các cách thức và phương tiện để thúc đẩy công việc tông đồ, đặc biệt dưới
ánh sáng của Công đồng Vatican II và các văn kiện chính thức hậu công đồng và
theo các đòi hỏi của châu Á.
* Hoạt
động cho việc tăng triển sự hiện diện năng động của Giáo Hội trong sự phát triển
toàn diện của các dân tộc châu Á.
* Giúp
việc học hỏi các vấn đề của mối quan tâm chung của Giáo Hội tại châu Á và tìm
ra các khả năng đi đến các kết luận và giải đáp cũng như hành động phối hợp.
* Tạo
sự thông tin và hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương và các giám mục tại châu
Á.
* Phục
vụ các Hội đồng Giám mục châu Á nhằm giúp các ngài đáp ứng tốt hơn các nhu cầu
của Dân Chúa.
* Củng
cố một sự phát triển có tổ chức hơn các tổ chức và phong trào trong Giáo Hội ở
tầm mức quốc tế.
* Củng
cố sự trao đổi và hợp tác đại kết và liên tôn. (5)
Mở đầu bài nói chuyện, Đức Thánh Cha nhắc đến mẫu
gương hy sinh dâng hiến cả cuộc đời của Chân phước Nicolás Bunkerd Kitbamrung,
cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, dạy giáo lý, đào tạo các môn đệ của Chúa tại
Thái Lan, cũng như một phần Việt Nam và dọc biên giới với Lào, và được phúc tử
đạo. Đức Thánh Cha mời gọi các Giám mục
đặt cuộc gặp gỡ này dưới cái nhìn của Chân phước, để mẫu gương của Chân phước
gia tăng lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho các Giáo hội châu Á.
Liên quan tới việc năm 2020 Liên hội đồng Giám mục Á
châu sẽ kỷ niệm 50 năm thành lập. Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng đây là một cơ hội
tốt để trở về thăm những “nơi thánh thiêng”, nơi gìn giữ cội rễ truyền giáo và
để Chúa Thánh Thần thúc đẩy theo bước chân của tình yêu đầu tiên.
- Hiện trạng xã hội Á châu, vai trò của các vị mục tử
Đi vào thực tế xã hội Á châu, Đức Thánh Cha nhận định
rằng đây là một lục địa đa văn hóa và đa tôn giáo, điều này là tốt đẹp và phong
phú. Nhưng bên cạnh đó tiến bộ công nghệ làm cho cuộc sống được mở ra, nhưng
cũng làm cho chủ nghĩa tiêu dùng ngày càng tăng, dẫn đến bất bình đẳng về kinh
tế và xã hội tồn tại giữa người giàu và người nghèo. Đứng trước hiện trạng này,
các vị mục tử cùng đấu tranh với dân tộc mình. Điều cần thiết là nhớ đến các vị
truyền giáo đầu tiên để "học từ các ngài cách các ngài đối diện với những
khó khăn của thời đại của các ngài" (Evangelii Gaudium, 263), giúp chúng
ta tháo bỏ mọi thứ đã "bám chặt vào chúng ta", làm cho hành trình trở
nên nặng nề.
- Vai trò của Chúa Thánh Thần
Một điều quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng đối
đó là tin tưởng, biết rằng chính Chúa Thánh Thần là Đấng đầu tiên đi trước và
kêu gọi. Chúa Thánh Thần đến trước nhà truyền giáo và ở lại với họ. Chúa Thánh
Thần nâng đỡ và thúc đẩy các Tông đồ và nhiều nhà truyền giáo không bỏ qua bất
kỳ vùng đất, con người, văn hóa hay hoàn cảnh nào.
- Một phần của dân tộc mình
Đức Thánh Cha nhắc nhở các Giám mục hãy nhớ rằng chúng
ta cũng là một phần của dân tộc này; chúng ta được chọn như những người phục
vụ, không phải là ông chủ. Chúng ta phải đồng hành những người mà chúng ta phục
vụ với sự kiên nhẫn và dịu dàng, lắng nghe, tôn trọng phẩm giá của họ, luôn
khuyến khích và đánh giá các sáng kiến tông đồ của họ.
- Tương quan với các linh mục
Trong tương quan với linh mục, Ngài nói: “Tôi mời gọi
anh em luôn luôn mở cửa cho các linh mục của anh em. Chúng ta đừng quên rằng
người thân cận gần gũi nhất của giám mục là linh mục. Hãy gần gũi, lắng nghe,
nâng đỡ các linh mục trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt khi anh em thấy các linh mục
nản lòng hoặc thờ ơ, đó là điều tồi tệ nhất trong những cám dỗ của ma quỷ. Và
anh em làm điều đó không phải với tư cách là thẩm phán, mà là những người cha,
không phải là những người quản lý sử dụng các linh mục, mà như những người anh
cả. Tạo ra một bầu không khí tin tưởng, thúc đẩy cuộc đối thoại chân thành và
cởi mở, tìm kiếm và xin ân sủng để có sự kiên nhẫn như Chúa có với mỗi chúng
ta, điều đó thực sự tuyệt vời!”
Kết thúc bài huấn dụ Đức Thánh Cha động viên: Mặc dù
trong tương lai không thiếu những vấn đề chúng ta phải đối diện, nhưng tin
tưởng chính Chúa là người đến với sức mạnh Phục sinh biến mọi tai ương, mọi vết
thương thành nguồn sống. Chúng ta nhìn về tương lai và xác tín rằng chúng ta
không đi một mình, Chúa đang chờ đợi và mời chúng ta nhận ra Ngài, trước hết
trong việc bẻ bánh.(6)
Đức Thánh Cha Phanxicô rời khỏi giáo xứ thánh Phêrô
vào lúc 12 giờ.
Khi đoàn hành hương đến Thái Lan để gặp Đức Thánh Cha,
mọi người vui mừng và hân hoan. Nhất là được tiếp đón chu đáo, nồng hậu và
nhiệt tình. Chính Đức Thánh Cha cũng kinh ngạc trước sự tiếp đón Ngài bởi một
một cộng đoàn tín hữu nhỏ bé ở Thái Lan. Sự nhiệt tình của nhân dân Thái đới
với Đức Thánh Cha và với mọi người đã để lại một dấu ấn đẹp trong tâm hồn mọi
khách hành hương.
Ước mong một ngay không xa, người dân Việt không phải
đi qua những nước láng giềng để được gặp vị đại diện Chúa Kitô ở trần gian, mà
có thể đón tiếp ngài ngay chính trên quê hương Việt Nam yêu dấu của mình.
11.2019
Gb. Nguyễn Thái Hùng
+++++++++++++++++++++++++
(5)(http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/GiaoHoiAChau/GiaoHoiAC/06DoiNetLHDGMAC.htm)
Phụ lục 2
Bài phát
biểu của Đức Thánh Cha trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và
giáo lý viên
tại Giáo xứ Thánh Phêrô, Thái Lan
lúc 10h00, ngày 22-11-2019
Xin chào anh chị em thân mến!
Tôi cảm ơn Đức cha Joseph [Pradhan Sridarunil] đại diện anh chị em chào
mừng tôi. Tôi rất vui khi gặp anh chị em, để lắng nghe anh chị em, để chia sẻ
niềm vui với anh chị em và để cảm nhận hoạt động của Thần Khí giữa chúng ta.
Tôi cảm ơn tất cả các giáo lý viên, linh mục, tu sĩ, và chủng sinh, vì ân ban gặp
gỡ với nhau hôm nay.
Tôi cũng cảm ơn Benedetta vì đã chia sẻ về cuộc sống và chứng từ của mình.
Khi tôi lắng nghe thì trong tôi dâng lên lòng biết ơn đối với tất cả các nhà
thừa sai, cả nam lẫn nữ, những người đã để lại dấu ấn vì cuộc đời phục vụ của
mình. Benedetta, con đã nói với chúng tôi về dòng “Con gái của lòng bác ái -
the Daughters of Charity”. Trước tiên, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với tất
cả những người sống đời tận hiến đã làm nảy sinh những thành quả to lớn bởi
việc tử đạo thầm lặng qua sự trung thành và tận tụy hàng ngày. Tôi không biết
liệu họ có thể hiểu được tầm quan trọng hay nếm thử được thành quả của sự tận
tụy của họ hay không, nhưng chắc chắn cuộc sống của họ đã mang lại rất nhiều
điều tốt đẹp. Họ là một lời hứa của hy vọng. Vì lý do này, khi bắt đầu cuộc gặp
gỡ của chúng ta, tôi xin anh chị em đặc biệt ghi nhớ tất cả những giáo lý viên
và những người nam nữ sống đời tận hiến đã đưa chúng ta vào tình yêu và tình
bạn với Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy cảm ơn họ và các thành viên cao tuổi
trong cộng đồng của chúng ta, những người không thể có mặt ngày hôm nay. Nói
với họ rằng Đức Giáo hoàng gửi cho họ một phước lành lòng biết ơn, và lần lượt
xin họ ban phước.
Tôi tin rằng hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta được ghi dấu ấn bởi bởi
những người đã giúp chúng ta khám phá và nhận ra ngọn lửa của Thần Khí. Thật là
tốt và cũng rất quan trọng để biết ơn. Lòng biết ơn luôn luôn là vũ khí mạnh
mẽ. Chỉ khi chúng ta có thể suy ngẫm và cảm nhận lòng biết ơn thực sự đối với
tất cả những cách mà chúng ta đã cảm nghiệm tình yêu, sự rộng lượng, liên đới
và tin tưởng của Thiên Chúa, cũng như sự tha thứ, kiên nhẫn, chịu đựng và lòng
trắc ẩn của Ngài, thì chúng ta mới để cho Thần Khí Chúa ban cho chúng ta sự
tươi mới, một sự tươi mới thật (và không đơn giản là vá lại) trong cuộc sống và
nhiệm vụ của chúng ta (Thư gửi các linh mục, ngày 4 tháng 8 năm 2019). Vì vậy,
chúng ta hãy nghĩ về họ với lòng biết ơn, và, nhờ họ, chúng ta cũng có thể cảm
nhận được lời mời gọi để trở thành những người mang lại đời sống mới mà Chúa
ban cho chúng ta. Như những người được kêu gọi để sinh hoa trái tông đồ, để đấu
tranh dũng cảm cho những điều mà Chúa yêu thương và mà Ngài đã hiến mạng sống
của Ngài, chúng ta hãy xin ân sủng để trái tim chúng ta cùng chung nhịp đập với
ngài. Tôi thậm chí sẽ xin anh chị em sẵn sàng chịu tổn thương cho
tình yêu đó, để cùng chịu đau khổ cho Chúa Giêsu và cho vương quốc của Ngài.
Ở đây chúng ta có thể tự hỏi, làm thế nào để chúng ta làm trổ sinh hoa trái
của việc tông đồ?
Benedetta, con đã nói về việc Chúa thu hút con trước bằng vẽ đẹp của Ngài
như thế nào. Đó là vẻ đẹp của một hình ảnh về Đức Mẹ, với ánh mắt đặc biệt nhìn
xuyên qua trái tim con và khiến con muốn hiểu rõ hơn về Đức Mẹ. Người nữ đó là
ai? Điều đó không diễn tả được bằng lời nói, ý tưởng trừu tượng hay tam đoạn
luận lạnh lùng. Tất cả bắt đầu với một cái nhìn đẹp làm say đắm con. Sự khôn
ngoan tuyệt vời đã được ẩn giấu trong lời nói của con. Chúng ta hãy chú ý tới
cái đẹp, đến một cảm giác tuyệt vời có khả năng mở ra những chân trời mới và
đưa ra những vấn nạn mới.
Một cuộc sống tận hiến không có khả năng cởi mở trước những bất ngờ chỉ là
một cuộc đời nửa vời. Chúa đã kêu gọi chúng ta và đưa chúng ta vào thế giới này
không phải để áp đặt lên chúng ta nghĩa vụ với mọi người, hoặc đặt nhiều gánh
nặng lên chúng ta, nhưng là để chia sẻ niềm vui, một chân trời mới tươi đẹp và
đầy ngạc nhiên. Tôi thực sự thích những lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI,
những lời mà tôi cho rằng không chỉ đúng mà còn là những lời tiên tri cho thời
đại chúng ta, Giáo hội không phát triển bằng cách chiêu dụ mà bằng sự hấp dẫn.
“Rao giảng Đức Kitô có nghĩa là cho thấy rằng: tin Ngài và theo Ngài không chỉ
là điều đúng và chính đáng, mà còn là một cái gì đẹp, có khả năng đổ đầy đời
sống bằng sự rực rỡ mới mẻ và niềm vui sâu xa, ngay cả giữa những hoàn cảnh khó
khăn” (Evangelii Gaudium, 167). Điều này có nghĩa là chúng ta không ngại tìm
kiếm những biểu tượng và hình ảnh mới, ví dụ âm nhạc đặc biệt có thể giúp đánh
thức trong người dân Thái Lan sự kinh ngạc mà Chúa muốn ban cho chúng ta. Chúng
ta đừng sợ tiếp tục đi gieo hạt giống Tin Mừng. Chúng ta cần tìm kiếm những
cách mới để thông truyền Lời Chúa, những cách có khả năng huy động và thức tỉnh
một khao khát muốn tìm biết Chúa. Chúa là ai? Đấng chịu đóng đinh mà những
người này đang tin theo là ai?
Khi tôi chuẩn bị cho cuộc họp này, tôi đã đọc, với một nỗi đau, rằng đối
với nhiều người, Kitô giáo là một đức tin ngoại quốc, một tôn giáo dành cho
người nước ngoài. Điều này sẽ thúc đẩy chúng ta tìm cách nói về đức tin trong
chính ngôn ngữ bản địa “phương ngữ”, giống như một người mẹ hát những bài hát
ru cho con mình. Với sự thân mật tương tự, chúng ta hãy khoác cho đức tin một
khuôn mặt và xác thịt Thái Lan, điều này quan trọng hơn nhiều so với việc chỉ
biên dịch. Hãy để Tin Mừng bỏ đi trang phục nước ngoài; hãy để cho Tin Mừng
“hát” cách đơn giản với âm nhạc bản địa của vùng đất này và truyền cảm hứng cho
những trái tim của anh chị em chúng ta với cùng một vẻ đẹp khiến trái tim chúng
ta rực cháy. Tôi khuyến khích anh chị em cầu nguyện với Đức Mẹ, đấng đã làm say
đắm Benedetta bằng vẻ đẹp của mình, và cầu nguyện tự tin đơn sơ như một đứa trẻ
rằng: “giờ đây, hãy ban cho chúng con một sự nhiệt thành mới, được sinh ra từ
sự phục sinh, mà chúng con có thể mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự
sống chiến thắng cái chết. Hãy cho chúng con một lòng can đảm thiêng liêng để
tìm kiếm những con đường mới, hầu món quà về vẻ đẹp không phai mờ có thể đến
với mọi người” (Evangelii Gaudium, 288).
Cái nhìn Đức Mẹ thúc đẩy chúng ta nhìn vào nơi Đức Mẹ nhìn, hướng mắt Chúa
Giêsu và làm bất cứ điều gì Ngài nói với chúng ta (x. Ga 21-12). Chúa Giêsu là
một ánh mắt quyến rũ bởi vì ánh mắt ấy có thể thâm nhập vào bên trong để tìm và
tôn vinh vẻ đẹp đích thực hiện diện trong mỗi người. Đó là một cái nhìn mà như
Tin Mừng dạy chúng ta, phá vỡ mọi định mệnh, chủ nghĩa số phận và giai cấp. Khi
nhiều người chỉ nhìn thấy một tội nhân, một kẻ phạm thượng, một người thu thuế,
một kẻ bất lương hay thậm chí là một kẻ phản bội, thì Chúa Giêsu lại có thể
nhận ra đó là những tông đồ. Đó là vẻ đẹp mà ánh mắt của Ngài mời chúng ta loan
báo, một ánh mắt biến đổi và phát huy những điều tốt nhất ở người khác.
Đối với những đánh động đầu tiên trong ơn gọi của anh chị em, nhiều người
trong những năm đầu tham gia vào các hoạt động của những người trẻ, những người
muốn đưa Tin Mừng vào thực tế và đi ra khỏi thành phố để thăm những người túng
thiếu, bị bỏ rơi và thậm chí bị coi thường, trẻ mồ côi và người già. Chắc chắn
nhiều người trong số anh chị em đã lần lượt được Chúa đến thăm, Ngài đã khiến
anh chị em thấy rằng: Ngài đang kêu gọi anh chị em từ bỏ tất cả, từ bỏ chính
mình trong từng giây phút để tìm lại chính mình. Trong khuôn mặt của những
người chúng ta bắt gặp trên đường phố, chúng ta có thể khám phá vẻ đẹp khi coi
nhau như anh chị em. Chúng ta thấy họ không còn là trẻ mồ côi, vô chủ, bị ruồng
bỏ hay bị coi thường. Bây giờ mỗi người trong số họ có khuôn mặt của “một anh
chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Đó là những gì làm nên một Kitô hữu đích
thực! Sự thánh thiện, cách nào đó, có thể được hiểu từ ngoài sự công nhận sống
động này về phẩm giá của mỗi con người” (Gaudete et Exsultate, 98). Tôi muốn
khuyến khích tất cả anh chị em, những người hàng ngày dành cả cuộc đời phục vụ
Chúa Giêsu trong anh chị em mình, như Đức cha Joseph tự hào chỉ ra khi giới
thiệu về anh chị em. Rất nhiều anh chị em đang nhìn thấy vẻ đẹp nơi những
người, mà người khác chỉ nhìn thấy sự khinh miệt, từ bỏ hoặc một đối tượng của
sự thỏa mãn tình dục. Theo cách này, anh chị em là một dấu chỉ cụ thể về lòng
thương xót của Chúa, anh chị em đang sống và thi hành việc xức dầu của Đấng
Thánh trên vùng đất này.
Việc xức dầu như vậy cần việc cầu nguyện. Thành quả việc tông đồ đòi hỏi và
được duy trì bởi lòng trung thành với lời cầu nguyện sâu sắc. Cầu nguyện sâu
sắc như những người cao tuổi không ngừng cầu nguyện Mân côi. Có bao nhiêu người
trong chúng ta đã nhận được đức tin từ ông bà của chúng ta, từ việc nhìn thấy
họ làm việc nhà với chuỗi tràng hạt trong tay, để thánh hóa ngày sống của họ.
Đây là sự suy ngẫm trong hành động, làm cho Thiên Chúa trở thành một phần của
những điều nhỏ nhặt mỗi ngày. Điều quan trọng là Giáo hội ngày nay có thể loan
báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi, trong mọi dịp, không do dự và
không sợ hãi (x. Evangelii Gaudium, 23); như một người mà mỗi buổi
sáng, trò chuyện với Chúa, rồi được sai đi lần nữa. Không có cầu nguyện, cuộc
sống và sứ mệnh của chúng ta sẽ mất tất cả ý nghĩa, sức mạnh và lòng nhiệt
thành.
Thánh Phaolô VI nói rằng một trong những trở ngại tồi tệ nhất đối với việc
truyền giáo là thiếu lòng nhiệt thành (x. Evangelii Nuntiandi, 80).
Đối với tu sĩ, linh mục và giáo lý viên, lòng nhiệt thành đó được nuôi dưỡng
bằng một cuộc gặp gỡ sóng đôi: vừa với Chúa, và vừa với anh chị em. Chúng ta
cũng cần tìm không gian để có thể trở về nguồn và uống nước hằng sống. Đắm chìm
trong vô số trách nhiệm, chúng ta cần tìm kiếm nơi yên tĩnh để cầu nguyện và
nhớ rằng Chúa đã cứu thế giới và chúng ta được mời gọi, kết hợp với Ngài, để
mọi người cảm thấy sự cứu rỗi ấy.
Một lần nữa, tôi cảm ơn anh chị em vì cuộc sống của anh chị em, vì chứng tá
và sự dấn thân quảng đại của anh chị em. Tôi xin anh chị em, vui lòng, không bị
cám dỗ nghĩ rằng anh chị em là số ít. Nhưng thay vào đó, hãy nghĩ về bản thân
anh chị em như những công cụ nhỏ bé trong bàn tay sáng tạo của Thiên Chúa. Ngài
sẽ viết cho cuộc đời của anh chị em những trang đẹp nhất về lịch sử cứu độ ở
vùng đất này.
Hãy nhớ cầu nguyện cho tôi, và yêu cầu những người khác cũng làm như vậy.
Cảm ơn anh chị em.
Đức Giáo
Hoàng Phanxicô
+++++++++++++++++++++
Phụ lục 3
Bài nói chuyện của Đức Phanxicô
với hàng Giám Mục Thái Lan và Á Châu
Tôi
cảm ơn Đức Hồng Y Francis Xavier Kriengsak Kovithavanij vì những lời giới thiệu
và chào mừng tốt đẹp của ngài. Tôi rất vui khi được ở bên các hiền huynh và
chia sẻ, dù ngắn gọn, những niềm vui và hy vọng của các hiền huynh, những dự án
và ước mơ của các hiền huynh, nhưng cũng là những thách thức mà các hiền huynh
phải đối mặt với tư cách là mục tử của dân thánh thiện và trung thành của Thiên
Chúa. Cảm ơn các hiền huynh vì cuộc nghinh đón huynh đệ của các hiền huynh.
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay diễn ra tại Đền thờ Chân phúc Nicholas Bunkerd Kitbamrung, người đã hiến cả cuộc đời của ngài để truyền giảng tin mừng và dạy giáo lý, đào tạo các môn đệ của Chúa, chủ yếu ở đây tại Thái Lan và cũng là một phần của Việt Nam và dọc biên giới với Lào, và đã đội triều thiên cho việc làm chứng cho Chúa Kitô của mình bằng phúc tử đạo. Chúng ta hãy đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta dưới ánh mắt quan tâm của ngài, để tấm gương của ngài truyền cảm hứng cho chúng ta với lòng nhiệt thành tuyệt vời cho công việc truyền giảng tin mừng trong mọi Giáo hội địa phương của Châu Á, để chúng ta ngày càng trở thành các môn đệ truyền giáo của Chúa, giúp Tin mừng của Người lan rộng như dầu thơm tỏa khắp lục địa vĩ đại và xinh đẹp này.
Tôi nhận ra rằng các hiền huynh đang lên kế hoạch cho Đại hội đồng Liên đoàn các Giám mục Châu Á năm 2020, một đại hội sẽ đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm thành lập. Đây là một dịp thích hợp để viếng thăm lại “những ngôi đền” đó, nơi những gốc rễ truyền giáo, vốn để lại dấu ấn của chúng trên những vùng đất này, đã được bảo tồn, một dịp để được Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo các bước chân của tình yêu ban đầu của chúng ta, và là một dịp để chào đón một cách can đảm, một cách dũng cảm, một tương lai mà chính các hiền huynh phải giúp khai triển và tạo ra. Nhờ cách này, cả Giáo hội lẫn xã hội ở Châu Á sẽ được hưởng lợi ích từ việc nối vòng tay lớn truyền giáo đổi mới và chia sẻ. Trong tình yêu với Chúa Kitô và khả năng đem người khác đến chung chia cùng một tình yêu đó.
Các hiền huynh đang sống giữa một lục địa đa văn hóa và đa tôn giáo, với vẻ đẹp và sự phong phú tuyệt vời, nhưng đồng thời cũng gặp khó khăn bởi nghèo đói và bóc lột ở nhiều bình diện khác nhau. Những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng có thể mở ra những khả thể to lớn giúp cuộc sống dễ dàng hơn nhưng có thể dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tiêu thụ và duy vật chất, nhất là nơi giới trẻ. Các hiền huynh đã tự mang vào mình các mối quan tâm của dân tộc: tai họa của ma túy và buôn bán người, chăm sóc số lượng lớn các di dân và người tị nạn, điều kiện làm việc tồi tệ và sự bóc lột nơi nhiều người lao động, cũng như sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa người giàu và người nghèo.
Giữa những căng thẳng này là người mục tử biết tranh đấu và làm môi giới với nhân dân và cho nhân dân mình. Ký ức về các nhà truyền giáo đầu tiên từng đi trước chúng ta một cách can đảm, hân hoan và sức chịu đựng phi thường có thể giúp chúng ta nắm vững tình hình và nhiệm vụ hiện tại của chúng ta từ một quan điểm có tính biến đổi rộng lớn hơn nhiều. Đầu tiên, ký ức đó giải phóng chúng ta khỏi niềm tin cho rằng thời đã qua luôn thuận lợi hoặc tốt hơn cho việc loan báo Tin Mừng. Nó cũng giúp chúng ta tránh việc núp phía sau những cuộc thảo luận vô bổ và những cách suy nghĩ cuối cùng khiến chúng ta tự quay vào chính mình, làm tê liệt bất cứ loại hành động nào. “Chúng ta hãy học hỏi từ các vị thánh đã đi trước chúng ta, những vị đã đương đầu với các khó khăn trong thời của các ngài” (Evangelii Gaudium, 263). Chúng ta hãy gạt sang một bên tất cả những thứ gì “bám chặt” vào chúng ta trên đường đi và làm chúng ta khó tiến về phía trước. Chúng ta biết rằng một số cơ cấu và não trạng giáo hội có thể cản trở các nỗ lực truyền giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả các cơ cấu tốt lành cũng chỉ hữu ích khi có một cuộc sống liên tục thúc đẩy, duy trì và đánh giá cao chúng. Cuối cùng, nếu không có cuộc sống mới và tinh thần Tin Mừng, không có lòng “trung thành của Giáo hội với ơn gọi riêng của mình, bất cứ cơ cấu mới nào cũng sẽ sớm chứng tỏ là không hữu hiệu (x. Ibid., 26) và làm ta sao lãng thừa tác vụ quan trọng là cầu nguyện và cầu bầu của chúng ta. Đôi khi điều này có thể giúp chúng ta một quan điểm khi xử lý các phương pháp năng nổ mặc dù không khôn ngoan bề ngoài có vẻ thành công đấy, nhưng cung cấp rất ít về cách sống.
Khi chúng ta suy ngẫm về sự tiến bộ truyền giáo ở những vùng đất này, một trong những bài học đầu tiên chúng ta học được là tin vào việc biết rằng chính Chúa Thánh Thần đi trước chúng ta và tập hợp chúng ta lại với nhau. Chúa Thánh Thần là người đầu tiên mời Giáo hội đi đến tất cả những nơi hình thành ra những câu chuyện và mô hình mới, đem lời của Chúa Giêsu vào tận đáy linh hồn các thành phố và nền văn hóa của chúng ta (x. Evangelii Gaudium, 74). Chúng ta đừng quên rằng Chúa Thánh Thần đến trước các nhà truyền giáo và ở lại với họ. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ và thúc đẩy các Tông đồ và vô số nhà truyền giáo không coi thường bất cứ vùng đất, con người, nền văn hóa hay tình huống nào. Họ không tìm những nơi “bảo đảm thành công”; ngược lại, “bảo đảm” của họ hệ ở việc chắc chắn rằng không ai hay nền văn hóa nào là tiên thiên không thể nhận được hạt giống của sự sống, của hạnh phúc và trên hết của tình bạn, mà Chúa muốn gieo nơi họ. Họ không mong đợi một nền văn hóa xa lạ để dễ dàng tiếp nhận Tin Mừng; đúng hơn, họ lao đầu vào những thực tại mới mẻ này, tin chắc vào vẻ đẹp mà họ là người mang theo. Mọi sự sống đều có giá trị trong tầm mắt của Thầy Chí Thánh. Họ đã táo bạo và can đảm vì họ biết rằng đầu tiên, Tin Mừng là một quà phúc để chia sẻ với mọi người: chia sẻ giữa mọi người, các luật sĩ, các tội nhân, người thu thuế, gái mãi dâm. Với và cho mọi tội nhân, lúc đó và bây giờ. Tôi thích nhận xét rằng, ngay cả trước khi sự việc cần được làm hoặc dự án cần được thực hiện, truyền giáo đòi hỏi phải trau dồi ánh mắt và khứu giác. Truyền giáo kêu gọi phải có mối quan tâm của người cha và người mẹ bởi vì con chiên chỉ bị mất khi người chăn để mặc nó bị mất, chứ không trước đó. Ba tháng trước đây, tôi có tiếp một nhà truyền giáo người Pháp tới thăm; vị này đã làm việc bốn mươi năm ở phía bắc Thái Lan, giữa các bộ lạc. Ngài đi cùng một nhóm gồm hai mươi hoặc hai mươi lăm người, tất cả đều là các bà mẹ, và ông bố, những người trẻ, không quá hai mươi lăm tuổi. Chính ngài đã rửa tội cho họ, thế hệ đầu tiên, và bây giờ ngài rửa tội cho con cái của họ. Người ta có thể nghĩ: ông đã hiến cuộc sống của ông cho năm mươi hoặc một trăm người. Nhưng đó là hạt giống, và Thiên Chúa ban cho ngài niềm an ủi được rửa tội cho con cái của những người đầu tiên ngài rửa tội. Nói một cách đơn giản, ngài cảm nghiệm những người bản địa từ phía bắc Thái Lan ấy như một nguồn của cải để truyền giảng Tin Mừng. Ngài không bỏ cuộc đối với những con chiên đó; ngài nhận họ vào trách nhiệm của ngài.
Một trong những khía cạnh tuyệt vời nhất của việc truyền giảng Tin Mừng là chúng ta nhận ra rằng sứ mạng được Giáo hội giao phó cho chúng ta không chỉ hệ ở việc loan báo Tin Mừng mà còn ở việc học cách tin vào Tin Mừng. Có bao nhiêu người - đôi khi chúng ta công bố, trong những giờ phút bị cám dỗ - công bố Tin Mừng, nhưng chúng ta không tin Tin Mừng, không để cho mình được nó nắm giữ và biến đổi. Điều này có nghĩa phải sống và bước đi trong ánh sáng của lời Chúa, lời mà chúng ta có trách nhiệm công bố. Chúng ta nên ghi nhớ lời lẽ của Thánh Phaolô VI: “Giáo Hội là một nhà truyền giảng Tin Mừng, nhưng Giáo Hội bắt đầu bằng việc tự truyền giảng Tin Mừng cho mình. Giáo Hội là cộng đồng của những người tin, cộng đồng của niềm hy vọng được sống và được truyền đạt, cộng đồng của tình yêu anh em, và Giáo Hội cần lắng nghe không ngừng những gì Giáo Hội phải tin, các lý do khiến Giáo Hội hy vọng, điều răn mới phải yêu thương” (Evangelii Nuntiandi, 15). Nhờ cách này, Giáo hội đi vào cuộc hoán cải - công bố đầy năng động đòi hỏi nơi từng môn đệ. Được Chúa thanh tẩy, Giáo Hội trở nên nhân chứng do ơn gọi. Một Giáo hội lên đường, không ngại ra đường phố và giáp mặt với cuộc sống của những người được giao phó cho mình chăm sóc, là một Giáo hội có thể mở lòng ra với Chúa một cách khiêm nhường. Với Chúa, Giáo Hội có thể cảm nghiệm sự kỳ diệu, sự lạ lùng, của cuộc phiêu lưu truyền giáo mà không cần, có ý thức hay vô thức, trước nhất tìm kiếm hoặc chiếm giữ bất cứ vị trí ưu tú nào có thể. Chúng tôi đã có thể học hỏi đến bao nhiêu từ các hiền huynh, những người chỉ là thiểu số ở nhiều quốc gia hoặc khu vực của các hiền huynh, và đôi khi bị làm ngơ hoặc bị cản trở hoặc bị bách hại, nhưng vẫn không để mình bị cuốn hút hoặc sa đọa bởi mặc cảm tự ti hoặc phàn nàn rằng các hiền huynh không được nhìn nhận thích đáng! Hãy tiến lên phía trước: hãy công bố, gieo hạt, cầu nguyện và chờ đợi. Và các hiền huynh sẽ không đánh mất niềm vui của các hiền huynh!
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay diễn ra tại Đền thờ Chân phúc Nicholas Bunkerd Kitbamrung, người đã hiến cả cuộc đời của ngài để truyền giảng tin mừng và dạy giáo lý, đào tạo các môn đệ của Chúa, chủ yếu ở đây tại Thái Lan và cũng là một phần của Việt Nam và dọc biên giới với Lào, và đã đội triều thiên cho việc làm chứng cho Chúa Kitô của mình bằng phúc tử đạo. Chúng ta hãy đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta dưới ánh mắt quan tâm của ngài, để tấm gương của ngài truyền cảm hứng cho chúng ta với lòng nhiệt thành tuyệt vời cho công việc truyền giảng tin mừng trong mọi Giáo hội địa phương của Châu Á, để chúng ta ngày càng trở thành các môn đệ truyền giáo của Chúa, giúp Tin mừng của Người lan rộng như dầu thơm tỏa khắp lục địa vĩ đại và xinh đẹp này.
Tôi nhận ra rằng các hiền huynh đang lên kế hoạch cho Đại hội đồng Liên đoàn các Giám mục Châu Á năm 2020, một đại hội sẽ đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm thành lập. Đây là một dịp thích hợp để viếng thăm lại “những ngôi đền” đó, nơi những gốc rễ truyền giáo, vốn để lại dấu ấn của chúng trên những vùng đất này, đã được bảo tồn, một dịp để được Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo các bước chân của tình yêu ban đầu của chúng ta, và là một dịp để chào đón một cách can đảm, một cách dũng cảm, một tương lai mà chính các hiền huynh phải giúp khai triển và tạo ra. Nhờ cách này, cả Giáo hội lẫn xã hội ở Châu Á sẽ được hưởng lợi ích từ việc nối vòng tay lớn truyền giáo đổi mới và chia sẻ. Trong tình yêu với Chúa Kitô và khả năng đem người khác đến chung chia cùng một tình yêu đó.
Các hiền huynh đang sống giữa một lục địa đa văn hóa và đa tôn giáo, với vẻ đẹp và sự phong phú tuyệt vời, nhưng đồng thời cũng gặp khó khăn bởi nghèo đói và bóc lột ở nhiều bình diện khác nhau. Những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng có thể mở ra những khả thể to lớn giúp cuộc sống dễ dàng hơn nhưng có thể dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tiêu thụ và duy vật chất, nhất là nơi giới trẻ. Các hiền huynh đã tự mang vào mình các mối quan tâm của dân tộc: tai họa của ma túy và buôn bán người, chăm sóc số lượng lớn các di dân và người tị nạn, điều kiện làm việc tồi tệ và sự bóc lột nơi nhiều người lao động, cũng như sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa người giàu và người nghèo.
Giữa những căng thẳng này là người mục tử biết tranh đấu và làm môi giới với nhân dân và cho nhân dân mình. Ký ức về các nhà truyền giáo đầu tiên từng đi trước chúng ta một cách can đảm, hân hoan và sức chịu đựng phi thường có thể giúp chúng ta nắm vững tình hình và nhiệm vụ hiện tại của chúng ta từ một quan điểm có tính biến đổi rộng lớn hơn nhiều. Đầu tiên, ký ức đó giải phóng chúng ta khỏi niềm tin cho rằng thời đã qua luôn thuận lợi hoặc tốt hơn cho việc loan báo Tin Mừng. Nó cũng giúp chúng ta tránh việc núp phía sau những cuộc thảo luận vô bổ và những cách suy nghĩ cuối cùng khiến chúng ta tự quay vào chính mình, làm tê liệt bất cứ loại hành động nào. “Chúng ta hãy học hỏi từ các vị thánh đã đi trước chúng ta, những vị đã đương đầu với các khó khăn trong thời của các ngài” (Evangelii Gaudium, 263). Chúng ta hãy gạt sang một bên tất cả những thứ gì “bám chặt” vào chúng ta trên đường đi và làm chúng ta khó tiến về phía trước. Chúng ta biết rằng một số cơ cấu và não trạng giáo hội có thể cản trở các nỗ lực truyền giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả các cơ cấu tốt lành cũng chỉ hữu ích khi có một cuộc sống liên tục thúc đẩy, duy trì và đánh giá cao chúng. Cuối cùng, nếu không có cuộc sống mới và tinh thần Tin Mừng, không có lòng “trung thành của Giáo hội với ơn gọi riêng của mình, bất cứ cơ cấu mới nào cũng sẽ sớm chứng tỏ là không hữu hiệu (x. Ibid., 26) và làm ta sao lãng thừa tác vụ quan trọng là cầu nguyện và cầu bầu của chúng ta. Đôi khi điều này có thể giúp chúng ta một quan điểm khi xử lý các phương pháp năng nổ mặc dù không khôn ngoan bề ngoài có vẻ thành công đấy, nhưng cung cấp rất ít về cách sống.
Khi chúng ta suy ngẫm về sự tiến bộ truyền giáo ở những vùng đất này, một trong những bài học đầu tiên chúng ta học được là tin vào việc biết rằng chính Chúa Thánh Thần đi trước chúng ta và tập hợp chúng ta lại với nhau. Chúa Thánh Thần là người đầu tiên mời Giáo hội đi đến tất cả những nơi hình thành ra những câu chuyện và mô hình mới, đem lời của Chúa Giêsu vào tận đáy linh hồn các thành phố và nền văn hóa của chúng ta (x. Evangelii Gaudium, 74). Chúng ta đừng quên rằng Chúa Thánh Thần đến trước các nhà truyền giáo và ở lại với họ. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ và thúc đẩy các Tông đồ và vô số nhà truyền giáo không coi thường bất cứ vùng đất, con người, nền văn hóa hay tình huống nào. Họ không tìm những nơi “bảo đảm thành công”; ngược lại, “bảo đảm” của họ hệ ở việc chắc chắn rằng không ai hay nền văn hóa nào là tiên thiên không thể nhận được hạt giống của sự sống, của hạnh phúc và trên hết của tình bạn, mà Chúa muốn gieo nơi họ. Họ không mong đợi một nền văn hóa xa lạ để dễ dàng tiếp nhận Tin Mừng; đúng hơn, họ lao đầu vào những thực tại mới mẻ này, tin chắc vào vẻ đẹp mà họ là người mang theo. Mọi sự sống đều có giá trị trong tầm mắt của Thầy Chí Thánh. Họ đã táo bạo và can đảm vì họ biết rằng đầu tiên, Tin Mừng là một quà phúc để chia sẻ với mọi người: chia sẻ giữa mọi người, các luật sĩ, các tội nhân, người thu thuế, gái mãi dâm. Với và cho mọi tội nhân, lúc đó và bây giờ. Tôi thích nhận xét rằng, ngay cả trước khi sự việc cần được làm hoặc dự án cần được thực hiện, truyền giáo đòi hỏi phải trau dồi ánh mắt và khứu giác. Truyền giáo kêu gọi phải có mối quan tâm của người cha và người mẹ bởi vì con chiên chỉ bị mất khi người chăn để mặc nó bị mất, chứ không trước đó. Ba tháng trước đây, tôi có tiếp một nhà truyền giáo người Pháp tới thăm; vị này đã làm việc bốn mươi năm ở phía bắc Thái Lan, giữa các bộ lạc. Ngài đi cùng một nhóm gồm hai mươi hoặc hai mươi lăm người, tất cả đều là các bà mẹ, và ông bố, những người trẻ, không quá hai mươi lăm tuổi. Chính ngài đã rửa tội cho họ, thế hệ đầu tiên, và bây giờ ngài rửa tội cho con cái của họ. Người ta có thể nghĩ: ông đã hiến cuộc sống của ông cho năm mươi hoặc một trăm người. Nhưng đó là hạt giống, và Thiên Chúa ban cho ngài niềm an ủi được rửa tội cho con cái của những người đầu tiên ngài rửa tội. Nói một cách đơn giản, ngài cảm nghiệm những người bản địa từ phía bắc Thái Lan ấy như một nguồn của cải để truyền giảng Tin Mừng. Ngài không bỏ cuộc đối với những con chiên đó; ngài nhận họ vào trách nhiệm của ngài.
Một trong những khía cạnh tuyệt vời nhất của việc truyền giảng Tin Mừng là chúng ta nhận ra rằng sứ mạng được Giáo hội giao phó cho chúng ta không chỉ hệ ở việc loan báo Tin Mừng mà còn ở việc học cách tin vào Tin Mừng. Có bao nhiêu người - đôi khi chúng ta công bố, trong những giờ phút bị cám dỗ - công bố Tin Mừng, nhưng chúng ta không tin Tin Mừng, không để cho mình được nó nắm giữ và biến đổi. Điều này có nghĩa phải sống và bước đi trong ánh sáng của lời Chúa, lời mà chúng ta có trách nhiệm công bố. Chúng ta nên ghi nhớ lời lẽ của Thánh Phaolô VI: “Giáo Hội là một nhà truyền giảng Tin Mừng, nhưng Giáo Hội bắt đầu bằng việc tự truyền giảng Tin Mừng cho mình. Giáo Hội là cộng đồng của những người tin, cộng đồng của niềm hy vọng được sống và được truyền đạt, cộng đồng của tình yêu anh em, và Giáo Hội cần lắng nghe không ngừng những gì Giáo Hội phải tin, các lý do khiến Giáo Hội hy vọng, điều răn mới phải yêu thương” (Evangelii Nuntiandi, 15). Nhờ cách này, Giáo hội đi vào cuộc hoán cải - công bố đầy năng động đòi hỏi nơi từng môn đệ. Được Chúa thanh tẩy, Giáo Hội trở nên nhân chứng do ơn gọi. Một Giáo hội lên đường, không ngại ra đường phố và giáp mặt với cuộc sống của những người được giao phó cho mình chăm sóc, là một Giáo hội có thể mở lòng ra với Chúa một cách khiêm nhường. Với Chúa, Giáo Hội có thể cảm nghiệm sự kỳ diệu, sự lạ lùng, của cuộc phiêu lưu truyền giáo mà không cần, có ý thức hay vô thức, trước nhất tìm kiếm hoặc chiếm giữ bất cứ vị trí ưu tú nào có thể. Chúng tôi đã có thể học hỏi đến bao nhiêu từ các hiền huynh, những người chỉ là thiểu số ở nhiều quốc gia hoặc khu vực của các hiền huynh, và đôi khi bị làm ngơ hoặc bị cản trở hoặc bị bách hại, nhưng vẫn không để mình bị cuốn hút hoặc sa đọa bởi mặc cảm tự ti hoặc phàn nàn rằng các hiền huynh không được nhìn nhận thích đáng! Hãy tiến lên phía trước: hãy công bố, gieo hạt, cầu nguyện và chờ đợi. Và các hiền huynh sẽ không đánh mất niềm vui của các hiền huynh!
Các hiền huynh thân mến, “trong hợp nhất với Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm những gì Người tìm kiếm và chúng ta yêu những gì Người yêu thương” (Evangelii Gaudium, 267). Chúng ta đừng ngại biến các ưu tiên của Người thành ưu tiên của chúng ta. Các hiền huynh nhận thức rõ rằng Giáo Hội của các hiền huynh là một Giáo hội nhỏ bé về số lượng và tài nguyên, nhưng đầy nhiệt huyết và háo hức muốn trở thành khí cụ sống động cho mối quan tâm yêu thương của Chúa đối với tất cả người dân trong thị trấn và thành phố của các hiền huynh (x. Lumen Gentium, 1). Cam kết của các hiền huynh để thúc đẩy tính sinh hoa trái của Tin Mừng bằng cách công bố sơ truyền (kerygma) bằng việc làm và lời nói trong các lĩnh vực khác nhau nơi các Kitô hữu có mặt là một hình thức làm chứng nổi bật.
Một Giáo hội truyền giáo biết rằng thông điệp tốt nhất của nó là sự sẵn sàng để được biến đổi bởi lời ban sự sống, làm cho việc phục vụ trở thành dấu ấn của nó. Chúng ta không phải là những người điều khiển việc truyền giáo, và càng không phải là những người làm chủ các kế hoạch và chiến lược của chúng ta. Chúa Thánh Thần là nhân vật chủ đạo thực sự; Người thúc đẩy chúng ta, như những tội nhân đã được tha thứ; Người liên tục sai chúng ta ra đi để chia sẻ kho báu đựng trong các bình bằng đất (xem 2 Cr 4: 7). Chúng ta đã được Chúa Thánh Thần biến đổi để biến đổi bất cứ nơi nào chúng ta được đặt vào. Phúc tử đạo của cam kết hàng ngày và thường im lặng sẽ mang lại những hoa trái mà dân tộc các hiền huynh đang cần.
Điều này thúc đẩy chúng ta khai triển một nền linh đạo chuyên biệt. Mục tử là người, trước nhất, yêu thương dân mình cách sâu sắc và biết những phong cách riêng, điểm yếu và điểm mạnh của họ. Truyền giáo vừa là một niềm đam mê đối với Chúa Giêsu Kitô vừa là một niềm đam mê đối với dân tộc của mình. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu của tình yêu của Người, một tình yêu nâng cao và nâng đỡ chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng ánh mắt của Chúa Giêsu, bừng cháy yêu thương, mở rộng để ôm lấy toàn thể Dân Người (x. Evangelii Gaudium, 268).
Chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta cũng là một phần của dân này; chúng ta không phải là chủ nhân ông, chúng ta là một phần của dân; chúng ta được chọn làm người đầy tớ, không phải là chủ nhân ông hay quản trị viên. Điều này có nghĩa chúng ta phải đồng hành với những người chúng ta phục vụ một cách kiên nhẫn và nhân từ, lắng nghe họ, tôn trọng phẩm giá của họ, luôn cổ vũ và qúy giá các sáng kiến tông đồ của họ. Chúng ta đừng quên sự kiện này nhiều vùng đất của các hiền huynh đã được truyền giảng tin mừng bởi các tín hữu giáo dân.
Chúng ta đừng giáo sĩ hóa việc truyền giáo của chúng ta, xin vui lòng đừng, và càng không nên giáo sĩ hóa hàng ngũ giáo dân. Những giáo dân này đã có thể nói được thổ ngữ của dân tộc họ, một việc thực thi đơn giản và trực tiếp việc hội nhập văn hóa, không phải là lý thuyết hay ý thức hệ, mà là kết quả của lòng nhiệt thành muốn chia sẻ Chúa Kitô của họ. Dân thánh và trung thành của Thiên Chúa sở hữu việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, điều mà chúng ta được mời gọi phải nhìn nhận, quý trọng và mở rộng. Chúng ta đừng bao giờ đánh mất ân sủng biết nhìn thấy Chúa đang làm việc giữa dân của Người, như Người đã làm trong quá khứ, cũng như Người đang làm bây giờ và còn tiếp tục làm như thế mãi. Một hình ảnh xuất hiện trong đầu không có trong chương trình của chúng ta, nhưng...: cậu bé Samuel thức dậy vào ban đêm. Chúa kính trọng vị linh mục cao tuổi, có tính nết hơi yếu đuối, Người để cụ tiếp tục nhiệm vụ, nhưng Người không nói chuyện với cụ. Người nói chuyện với một cậu bé, một người trong dân.
Một cách đặc biệt, tôi khuyến khích chư huynh luôn mở rộng cửa cho các linh mục của chư huynh. Cánh cửa và trái tim. Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng người hàng xóm gần nhất của giám mục là linh mục. Hãy gần gũi với các linh mục của chư huynh, lắng nghe họ và tìm cách đồng hành với họ trong mọi tình huống, nhất là khi chư huynh thấy họ nản lòng hoặc tờ ơ, vốn là điều tồi tệ nhất trong những cám dỗ của ma quỷ. Sự thờ ơ, tuyệt vọng. Hãy làm như vậy không phải với tư cách phán quan mà như những người cha, không như những quản trị viên triển khai họ, mà như những người anh em lớn tuổi thực thụ. Hãy tạo bầu không khí tin cậy để đối thoại trung thực, đối thoại cởi mở; hãy tìm kiếm và cầu xin ân sủng để tỏ bầy cùng một lòng kiên nhẫn với họ mà Chúa, người có lòng kiên nhẫn rất lớn, đã tỏ bầy với mỗi chúng ta, và đó là mộtviệc tuyệt vời, rất tuyệt vời.
Các chư huynh thân mến, tôi biết rằng có nhiều vấn đề chư huynh phải đối diện trong cộng đồng của chư huynh, cả hàng ngày lẫn khi chư huynh nhìn về tương lai. Xin cho chúng ta không bao giờ quên sự kiện này trong một tương lai thường không chắc chắn đó, chính Chúa là Đấng sẽ tới mang theo sức mạnh phục sinh để biến mọi vết thương thành một suối nguồn sự sống. Chúng ta hãy nhìn về tương lai với sự tin chắc rằng chúng ta không cô đơn, chúng ta không hành trình một mình; Chúa ở đó, chờ đợi chúng ta và mời gọi chúng ta nhận ra Người trên hết trong việc bẻ bánh.
Chúng ta hãy xin sự bầu cử của Chân phước Nicholas và của tất cả các vị thánh truyền giáo, để dân chúng ta có thể được đổi mới với cùng một sự xức dầu đó.
Vì sự hiện diện của nhiều Giám mục từ Châu Á, tôi mượn cơ hội này để mở rộng phước lành và tình âu yếm của tôi đến tất cả các cộng đồng của chư huynh và, một cách đặc biệt, đến người bệnh và tất cả những ai đang gặp khó khăn. Cầu xin Chúa ban phước, chăm sóc và luôn đồng hành cùng anh chị em. Và chư huynh, xin Người nắm tay chư huynh; và xin chư huynh để cho mình được Chúa nắm tay, và đừng tìm kiếm những bàn tay khác.
Và xin vui lòng, đừng quên cầu nguyện cho tôi và yêu cầu các cộng đồng của chư huynh cũng làm như vậy, vì mọi điều tôi nói với chư huynh, tôi cũng cần nói với chính mình.
Cảm ơn chư huynh ơn nhiều.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét