Trang

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2011

HỘP THƯ GỬI MẸ CHÚA TRỜI V : KÍNH GỬI ĐỨC MẸ LAVANG





HỘP THƯ GỬI MẸ CHÚA TRỜI V : KÍNH GỬI ĐỨC MẸ LAVANG

I. Ý CẦU NGUYỆN


1. Cầu nguyện cho TGP. Sài Gòn

Xin Mẹ Hoà Bình Vương cung Thánh đường Sài Gòn cho tín hữu kiên vững trong đức tin, trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, nhiệt tâm và quảng đại trong các việc tông đồ, bác ái và truyền giáo.

2. Cầu cho các nhà truyền giáo đang hiến thân rao giảng Tin Mừng Nước Trời

Xin cho mọi Kitô hữu ý thức bổn phận truyền giáo của chính mình, để góp công, góp sức và lời cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.

3. Cầu cho những ai đang đau khổ vì gia đình tan nát, hôn nhân đổ vỡ

Xin cho mọi tín hữu Công giáo nêu gương sống đời hôn nhân và gia đình gương mẫu, tránh xa lối sống ích kỷ, buông thả, hưởng thụ.

II. ĐỨC MẸ LAVANG

NHỮNG NIÊN HIỆU VỀ LA VANG

1798 - Truyền khẩu nói rằng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng hiện ra nhiều lần để an ủi các giáo dân trốn chạy những cuộc bách hại của triều Tây Sơn vào trong rừng sâu Lá Vằng, thuộc địa hạt Dinh Cát, nay là Quảng Trị. Trong cuộc bách hại đạo năm 1798 có Cha Thánh Triệu tử đạo tại Huế và Cha Thánh Gioan Đạt tử đạo tại Thánh Hoá.

1801 - Sau khi Gia Long thống nhất, người bên lương cũng nghe biết có Bà Linh Thiêng hiện ra ở rừng Lá Vằng. Khi họ đi làm trong rừng thường ghé tới cây đa vái lạy và đắp một nền cao, có rào cây chung quanh.

1823 - Đầu đời Minh Mạng, 3 làng Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trừ chung nhau làm một cái miếu trên nền đất cao nơi cây đa chỗ Đức Mẹ hiện ra nhưng gặp nhiều dấu lạ (mộng mị, tượng bị lật đổ), họ đành thôi và truyền tụng nhau rằng: “Bà ấy là bà bên lương mà bên giáo đã dành đi đó”. Ngày nay có người cho rằng dân bên lương gọi Bà Linh Thiêng đó là Phật Bà Quan Âm cứu đời. Cả làng đồng lòng nhường đất và chùa lại cho bên Công giáo. Cha bổn sở ở Dinh Cát đồng ý cho người Công giáo biến chùa thành nhà thờ. Đó là nhà thờ đầu tiên tại La Vang.

1830 - Một giai thoại kể rằng Đức Mẹ đã mua vải để trang hoàng bàn thờ (xem Ơn Lạ của Đức Mẹ La Vang).

1852 - Đức cha Pellerin kêu gọi các cha hô hào cho giáo dân nhập Hội Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu. Tước hiệu này, năm 1901, Đức cha Gaspar đã chính thức tuyên bố là tước hiệu của Đức Mẹ La Vang.

1866 - Sau khi vua Tự Đức ký sắc lệnh tự do tôn giáo, Đức cha Sohier coi Địa phận Huế có chương trình mở rộng Linh địa La Vang: xây chủng viện, tu viện Mến Thánh Giá, cô nhi viện, nhà dưỡng lão cho các linh mục. Chương trình không thành vì địa phương Cổ Vưu không cho đất. Tuy nhiên, hằng năm vào Tết Nguyên Đán, giáo dân các vùng Dinh Cát, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa... họp nhau vài ba chục người cầm dùi, giáo mác xua thú dữ để vào Linh địa La Vang kính viếng.

1885 - Văn Thân nổi loạn ở triều đình Huế với khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả, giáo dân Cổ Vưu vào trốn ở La Vang. Khi nhóm người đuổi theo thì họ trốn lên núi. Có 30 người bị bắt và được đặc ân và được đặc ân thiêu sống trên nền nhà thờ Đức Mẹ. Nhóm Văn Thân đốt hết các nhà của dân trừ ngôi nhà tranh nhỏ bé của Đức Mẹ. Sau đó, có người tên Thơ ở Xóm Bốc xuống xem, thấy còn một nhà tranh cũng nổi lửa đốt luôn. Chiều hôm ấy, nhà của người này bị Văn Thân đến đốt, cả nhà bị cháy hết.

1886 - Sau biến cố Văn Thân, Linh địa La Vang trở nên nơi hành hương đông người, vì thế Đức cha Gaspar quyết định làm lại nhà thờ. Đây là nhà thờ thứ hai tại La Vang. Nhà thờ làm trong 15 năm.

1901 - Khánh thành nhà thờ và tổ chức đại hội 6-8/8/1901. Chính thức công nhận tước hiệu Đức Mẹ La Vang là Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu và chọn kiểu tượng Đức Mẹ chiến thắng: Đức Mẹ đứng trên đám mây và hai tay nâng Chúa Hài Đồng đứng trên quả địa cầu. Định lệ cứ 3 năm kiệu Đức Mẹ La Vang từ Cổ Vưu vào La Vang ngày mồng 3 Tết Nguyên Đán.

1923 - Đức cha Lý (Allys) giao cho Cha Morineau xây nhà thờ bằng ngói rộng lớn hơn. Thư quyên tiền được gửi cho toàn quốc.

1928 - Khánh thành nhà thờ mới và đại hội với sự tham dự của nhiều đức cha và nhiều phái đoàn. Đây là đại hội có tính cách toàn quốc đầu tiên và số tham dự khoảng 30.000 người. La Vang chính thức thành một xứ và có cha sở đầu tiên, Cha Thới, tách khỏi Cổ Vưu.

1932 - Trong đại hội này, Đức cha Giáo (Chabanon) định rằng đại hội kéo dài trong 3 ngày và tổ chức tại Linh địa La Vang.

1935 - Đại hội.

1938 - Đại hội long trọng các ngày 17,18 và 19-8. Đặc biệt có sự hiện diện của Đức Khâm sứ Drapier.

1946 - Trong thời gian 2 cuộc thế chiến, không có đại hội, nhưng các cuộc lễ vẫn được tổ chức như thường tại La Vang. Ngày 12-9-1946, Lễ Cầu An cho tổ quốc đã được cử hành tại La Vang, có sự hiện diện của Nam Phương Hoàng Hậu.

1945-1954 - La Vang dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, mọi di chuyển bị hạn chế. Tượng Đức Mẹ La Vang được đưa ra Quảng Trị.

1953 - Năm Thánh Mẫu trên thế giới. Ngày 8-12-1953, Đức cha Thi (Urutia) làm lễ trước tượng Đức Mẹ La Vang, khai mạc chương trình thánh du tượng Đức Mẹ La Vang.

1954 - Rước kiệu Đức Mẹ La Vang trong các ngày 16, 17 và 18-5. Khi Việt Nam bị chia đôi (20-7-1954), La Vang thuộc vùng tự do. Một số linh mục và giáo dân di cư đến La Vang và mở thành những xứ La Vang Thượng, La Vang Trung, La Vang Tả, La Vang Hữu. Ngày 6-12-1954, rước tượng Đức Mẹ La Vang từ Quảng Trị trở về Linh địa và bế mạc Năm Thánh Mẫu, có Đức cha Urritia, 40 linh mục và khoảng 20.000 giáo dân.

1955 - Trùng tu Nhà thờ La Vang. Tháng 8-1955, đại hội lần thứ 13 được tổ chức với tuần tam nhật. Có 3 đức cha (Đức cha Urritia, Đức cha Chi, Đức cha Từ), 100 linh mục và 20.000 giáo dân đến tham dự.

1958 - Năm Thánh Mẫu kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Trong năm này có khoảng 600.000 tín hữu đến hành hương. Lần lượt các phái đoàn do các đức cha hướng dẫn: Đức cha Hiền, Đức cha Bình, Đức cha Chi, phái đoàn Kontum. Tam Nhật Đại hội từ ngày 19 đến 22-8. Đức Khâm sứ Caprio đến chủ toạ ngày Công giáo Tiến hành 18-8.

18/3/1959 - Khởi sự trùng tu.

25/3/1960 - Rước nến do ĐTC Gioan XXIII tặng. Nến này được làm phép trong dịp Lễ Nến 2-2 và được gửi đi đến các đền thánh để cầu nguyện cho Công đồng Chung Vatican II.

13/4/1961 - Các giám mục miền Nam họp tại Huế đã định chọn Đền thờ Đức Mẹ La Vang làm “Đền thờ toàn quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ” theo lời khấn ngày 18-12-1960 trong Lễ Tạ ơn thành lập Hàng Giáo phẩm. Ngày 22-8-1961, quyết định trên đã được công bố.

8/8/1961 - Các giám mục miền Nam họp tại Đà Lạt quyết định:

1. Xin Toà Thánh nâng đền thờ lên hàng Vương cung Thánh đường (Toà Thánh chấp thuận ngày 20-8-1961).

2. Xây dựng những cơ sở mới tại La Vang: Bàn thờ chính dâng hiến Giáo Hội và tổ quốc, các bàn thờ phụ dâng kính các Thánh Tử đạo Nam, Trung, Bắc - công trường rộng lớn hơn - nhà trọ cho các tín hữu hành hương - tu viện gồm các linh mục chuyên lo chầu Mình Thánh Chúa tại La Vang.

3. Kêu gọi đóng góp để trùng tu và xây cất.

4. Năm Trái Tim Đức Mẹ kéo dài trong 3 năm, thực hiện 3 mệnh lệnh Fatima.

5. Chỉ định một uỷ ban phụ trách Trung tâm Hành hương và Năm Trái Tim Đức Mẹ.

17-22/8/1961 - Đại hội và xức dầu cung hiến Đền thờ La Vang. Khánh thành Đài Đức Mẹ có 3 cây đa cổ thụ bằng xi măng cốt sắt do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ làm.

1968 - Đền thờ La Vang bị pháo kích nặng do chiến cuộc.

1972 - Chiến cuộc Mùa Hè Đỏ Lửa đã san bằng La Vang, ngoại trừ Đài Đức Mẹ còn nguyên. Các giáo dân di tản hết.

NHỮNG ĐẠI HỘI GẦN ĐÂY

1. Đại hội 1961 và Lễ Xức dầu Đền thờ La Vang

Ngày 1-6-1961, Toà Tổng Giám mục Huế đã gửi hiệu triệu thư như sau:

Kính các cha, anh chị em tín hữu, tôi vui mừng ban phép và truyền tổ chức Đại hội kính Đức Mẹ La Vang 1961 từ ngày 17 đến 22-8. Đồng thời, Đức TGM đã ban phép cho uỷ ban chuẩn bị cuộc đại hội được phép quyên tiền theo Giáo luật để chi phí trong cuộc đại hội, thư của uỷ ban đã được gửi đi khắp nơi trên toàn quốc.

Sau đó, Nha Chiến tranh Tâm lý thuộc Bộ Quốc phòng gửi đến La Vang số tiền của đồng bào Hà Nội, Hải Phòng gửi nhờ chuyển giao với 2 bức điện tín như sau:

1. Sùng kính Thánh Mẫu La Vang, 5 đồng bào Hà Nội gửi qua Thuỵ Sĩ 475 đồng nhờ chuyển đến đại hội.

2. Với lòng tin cậy Đức Mẹ La Vang cứu thoát ách cộng sản bạo tàn, 15 đồng bào lao động Hải Phòng gửi qua Pháp 1.200 đồng nhờ chuyển đến đại hội.

Đã từ lâu Địa phận Huế chuẩn bị cho cuộc Đại hội về mặt thiêng liêng như cầu nguyện, về mặt tinh thần như học tập về Đức Mẹ, về mặt vật chất như sắm sửa đồ đạc.

Đại hội đã được tổ chức trong 6 ngày liên tiếp, mỗi ngày được dành riêng cho mỗi việc khác nhau: Ngày các Bà Mẹ, Ngày các Bệnh nhân, Ngày các Công chức, Ngày Giáo hội Thầm lặng, Ngày Công giáo Tiến hành và Quân đội và Ngày Cầu nguyện cho Tổ quốc.

Đêm 21-8 có kiệu Thánh Thể bằng đèn với hơn 100.000 người tham dự. Ban sáng ngày 22-8 có tới hơn 300.000 người tham dự. Trong Đại hội này có 3 vị tổng giám mục, 10 giám mục, 300 linh mục thuộc các địa phận: Huế, Kontum, Nha Trang, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sài Gòn, Qui Nhơn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Đà Lạt, PhnomPenh và Ai Lao. 1.000 tu sĩ nam nữ cùng với hơn 300.000 giáo dân và rất đông người lương.

Ngày 22-8-1961, Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ, cũng là ngày bế mạc Đại hội, Đức TGM Ngô Đình Thục đã cử hành lễ xức dầu thánh cho Đền thờ La Vang, tức là ngày làm phép nhà thờ long trọng theo Giáo luật, để được nâng lên bậc Vương cung Thánh đường.

Líc 4 giờ chiều ngày 21-8, Đức TGM đến quỳ nguyện tại Linh đài Đức Mẹ trước 4 khảm xương Thánh Tử đạo, trong nghi lễ làm phép sẽ chôn vào trong huyệt đục sẵn trên 4 bàn thờ đá hoa 4 hộp bạc nhỏ, trong mỗi hộp có xương Thánh Tử đạo. Đức cha bắt đầu làm các nghi thức cung hiến đền thờ.

Lúc 4 giờ sáng ngày 22-8, Đức TGM Huế lại tiếp tục cử hành phần chính của việc cung hiến đền thờ là xức dần bàn thờ chính và 12 cột của đền thờ. Bốn bàn thờ được cung hiến do 4 giám mục cùng xức một lượt. 

TÔN VINH CẢM TẠ MẸ MARIA

ĐỨC MARIA, GƯƠNG MẪU ĐỜI SỐNG THÁNH THỂ

Ngày 27-2-1868, theo lời khuyên của Cha Calage, Dòng Tên, linh hướng của Chị Chân phước Maria Chúa Giêsu (tên tục là Maria Deluil-Martiny, sáng lập Dòng Tữ Tử Thánh Tâm Chúa Giêsu), phác thảo chương trình công việc tương lai của Chị. Nhà Dòng mới sáng lập của Chị sẽ hoàn thành những ý muốn mà Chúa Giêsu đã tỏ bày với Thánh Margaret Maria. Gương mẫu cho đời sống phạt tạ Thánh Thể này sẽ là cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria sau khi Chúa Giêsu vinh hiển lên trời. Trên núi Calvê, Đức Maria đã dâng hy lễ Con Trai mình và đã kết hiệp với của lễ ấy. Sau khi Phục Sinh, Mẹ cũng đã dâng cùng hy lễ ấy nhờ tay của Thánh Gioan Tông Đồ, giúp đỡ Giáo Hội và các Tông đồ bằng lời cầu nguyện và bằng sự thinh lặng của Mẹ. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Đức Maria ở lại dưới thế một mình với những điều Mẹ hằng ghi nhớ trong lòng, một mình với kho tàng ẩn giấu trong Thánh Thể, một mình với Vị Hiền Thê mới khai sinh, là Giáo Hội, được phó thác cho Mẹ. Điều gì đã lấp đầy tâm hồn và cuộc sống của Đức Maria trong những năm tháng bị che phủ trong bí ẩn và hiếm khi được suy gẫm tới này? Đó là Thánh Thể, Calvê và Giáo Hội.

BTGH

N Nguồn: truyenthongconggiao

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét