Ý nghĩa các con số
trong Sách Khải Huyền
Sau khi quan sát các
con số qua bài viết “Những con số trong Sách Khải Huyền”, bài viết này trình
bày ý nghĩa tổng quát các con số. Không phải tất cả các con số đều có nghĩa
biểu tượng, vì thế khi áp dụng ý nghĩa các con số vào một câu văn cụ thể, cần
quan sát bối cảnh văn chương và bối cảnh thần học của mạch văn để tìm ra cách
hiểu thích hợp về các con số trong câu văn.
Phần sau sẽ trình bày
ý nghĩa biểu tượng của các con số: “1/3 bị phá hại”, “1 giờ”, “42 tháng”,
“1.260 ngày”, “1 thời, 2 thời và nửa thời”, “số 3”, “số 4”, “6 cánh”, “số 7”,
“số 12”, “24 vị kỳ mục”, “1.000 năm”, “12.000 người”, “144.000 người”, “12.000
dặm”, “200.000.000 kị binh”, “vạn vạn, ngàn ngàn”. Riêng mã số 666 hay 616, có
nhiều cách giải thích con số này, nên được trình bày trong một mục riêng.
I. Ý nghĩa các con số
“1/3 (một phần ba)”
là kiểu nói giảm nhẹ, theo nghĩa 1/3 bị thiêu huỷ, còn 2 phần thì không. Hình
phạt giáng xuống trên 1/3 loài người, còn 2/3 được thoát khỏi. Qua kiểu nói
1/3, bản văn mời gọi độc giả sám hối để được cứu.
“1 giờ” tượng trưng
cho sự chóng qua, ngắn ngủi. Các vua chúa khóc than thành Babylon
sụp đổ như sau: “Khốn thay, khốn thay, thành phố vĩ đại, Babylon , thành phố hùng cường, vì trong một
giờ, án phạt dành cho ngươi đã đến” (Kh 18,19). Các trích dẫn lấy trong Sách
Khải Huyền Hy Lạp - Việt.
42 tháng = 1.260 ngày
(= 3 năm rưỡi), tương đương kiểu nói: “1 thời, 2 thời và nửa thời”. Những con
số thời gian này gợi đến thời kỳ vua Antiôkhô IV Êpiphanê đã bách hại người Do
Thái 3 năm rưỡi (x. Đn 7,25; 12,7). Những con số trên trong sách Khải Huyền
biểu tượng cho cuộc bắt bớ các Kitô hữu trong một khoảng thời gian không kéo dài
(x. Lc 4,25; Gc 5,17).
“Số 3” biểu tượng sự
hoàn hảo. Thành Giêrusalem mới được mô tả như sau: “Hướng đông 3 cổng, hướng
bắc 3 cổng, hướng nam 3 cổng và hướng tây 3 cổng” (Kh 21,13). Trong câu này
3+3+3+3 = 12.
“Số 4” biểu tượng địa
cầu, 4 hướng: đông, tây, nam, bắc; 4 hướng gió. 4 thiên sứ tượng trưng cho 4
thiên sứ cai quản thế giới. Tác giả Sách Khải Huyền kể: “Sau điều ấy, tôi thấy
bốn thiên sứ đứng ở 4 phương của mặt đất, giữ lại 4 ngọn gió của đất để không
ngọn gió nào thổi trên đất, trên biển cũng như trên mọi cây cối” (7,1).
“6 cánh” gợi đến các
Xêraphim trong Is 6,1-3: “1Năm vua Útdigiahu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự
trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. 2Phía bên trên Người, có
các thần Xêraphim đứng chầu. Mỗi vị có 6 cánh: 2 cánh để che mặt, 2 cánh để che
chân và 2 cánh để bay. 3Các vị ấy tung hô với nhau rằng: ‘Thánh, Thánh, Thánh,
ĐỨC CHÚA các đạo binh. Cả mặt đất đầy vinh quang của Người’.”
“số 7”, biểu tượng sự
hoàn hảo, trọn vẹn. Chẳng hạn, thư gửi đến 7 Hội Thánh (1,4.11.20a.20b), với 7
hoàn cảnh khác nhau ám chỉ đến tất cả các Hội Thánh qua mọi thời đại. Trong lời
tung hô ở Kh 7,12, liệt kê 7 đặc tính của Thiên Chúa: “Amen, lời chúc tụng,
vinh quang, khôn ngoan, lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh thuộc về Thiên
Chúa chúng ta đến muôn thuở muôn đời. Amen.” nhằm diễn tả sự trọn hảo nơi Thiên
Chúa.
“Số 12” ám chỉ 12 chi
tộc Israel ,
12 Tông đồ. Số 12 tượng trưng sự viên mãn, hoàn hảo. 12 Tông đồ của Con Chiên
là nền móng của Hội Thánh. Con số 12 biểu tượng của Hội Thánh được dùng để mô
tả Thành Giêrusalem mới: 12 nền móng thành Giêrusalem mới (21,14), 12 cổng, 12
viên ngọc trai (21,21).
“24 vị kỳ mục”, có lẽ
ám chỉ 12 chi tộc Israel
(Cựu Ước) và 12 Tông đồ (Tân Ước). Các vị “mặc áo trắng” và “đội triều thiên
bằng vàng” (4,4) là biểu tượng của những kẻ chiến thắng. Tác giả Sách Khải
Huyền mô tả: “Chung quanh ngai có 24 ngai khác, và trên những ngai đó có 24 vị
kỳ mục đang ngồi, mình mặc áo trắng, và trên đầu của các vị có triều thiên bằng
vàng” (4,4). Các chữ in nghiêng trong Kh 4,4 là không có trong tiếng Hy Lạp,
xem quy ước trong trích đoạn Sách Khải Huyền Hy Lạp - Việt.
“1.000 năm” không
hiểu theo nghĩa đen (10 thế kỷ) mà hiểu theo nghĩa tượng trưng: 1.000 năm chỉ
một giai đoạn lâu dài (Đnl 7,9; Tv 105,8; 2 Pr 3,8). Có thể hiểu 1.000 năm ở Kh
20,1-6 là giai đoạn hiện thời, kể từ lúc Đức Giêsu Phục Sinh cho đến nay. Trong
giai đoạn này, Đức Giêsu đã ban tặng cho các Kitô hữu sự sống mới, sự sống đích
thực, sự sống của Thiên Chúa (Kh 2,7; Ga 6,40; 20,31; Cl 2,12; 3,1.3).
“12.000 người” được
đóng ấn (7,5) là số người cho mỗi chi tộc trong 12 chi tộc Israel, đây là con
số tượng trưng sự viên mãn, hoàn hảo.
“144.000 người” = 12
chi tộc x 12.000 người, chỉ “số sót” (những người còn sót lại) của dân Chúa và
của Hội Thánh. Tác giả Sách Khải Huyền cho biết: “Rồi tôi nghe con số những
người được đóng ấn: 144.000. Những người được đóng ấn thuộc mọi chi tộc con cái
Israel ”
(7,4).
“12.000 dặm”. Đây là
số đo mỗi chiều (dài, rộng, cao) của thành Giêrusalem mới (21,16): 12.000 dặm =
12 x 1.000. Trong đó, con số 12 là biểu thị dân Israel mới và con số 1.000 chỉ
sự đông đảo.
“200.000.000 kị binh”
(9,16), dịch sát: “Một vạn lần hai vạn” = 10.000 x 20.000 = 200.000.000. Có lẽ
con số này ám chỉ đạo quân kị binh người Pácthy. Đây là một số quân quá lớn so
với thực tế thời Sách Khải Huyền, vì thế, nên hiểu con số này theo nghĩa biểu
tượng, diễn tả một sức mạnh vô cùng lớn.
“Vạn vạn, ngàn ngàn”
(5,11) là kiểu nói diễn tả một số lượng rất lớn, không thể đếm xuể. Tác giả mô
tả cảnh hùng vĩ trong thị kiến: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng của nhiều thiên sứ
ở chung quanh ngai, các sinh vật và các kỳ mục. Số các thiên sứ là vạn vạn,
ngàn ngàn” (5,11).
II. Ý nghĩa con số
666 và 616
Kh 13,18, nói đến mã
số của Con Thú là con số 666, tác giả viết: “Ai có trí khôn hãy tính ra mã số
của Con Thú, vì đó là mã số của một người, và mã số của người ấy là 666” (Kh
13,18). Một số thủ bản Hy Lạp như C, Irmss viết con số đó là 616. (Xem ký hiệu
các thủ bản trong Nestle-Aland, Novum Testamentum Graece, (27è édition),
Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996). Có lẽ dị bản con số 616 xuất hiện
muộn thời hơn và đã sửa lại con số 666.
Có thể giải thích hai
con số 666 và 616 như thế nào? Có nhiều cách giải thích, nhưng tất cả đều ám
chỉ các hoàng đế của đế quốc Rôma vào thế kỷ I. Điều này phù hợp với bối cảnh
sách Khải Huyền: Các Kitô hữu bị bắt bớ vì không chấp nhận tôn thờ hoàng đế như
một vị thần.
1. Hai cách hiểu mã
số 666
1) Các mẫu tự Hípri
và Hy Lạp tương đương với một con số. Con số 666 là mã số tên của hoàng đế
Nêrô. Tên Hy Lạp của hoàng đế: “NERON KAISAR”. Tên gọi này chuyển sang phụ âm
Hípri: QSR NRWN, các con số tương ứng của mẫu tự Hípri: (200+60+100) +
(50+6+200+50) = 666. (Xem bảng mẫu tự Hípri và Hy Lạp với con số tương ứng của
từng mẫu tự ở cuối Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt).
2) Cách hiểu thứ hai
là số 6 = 7-1. Số 7 biểu tượng sự hoàn hảo, vì thế, 7-1 = 6 là biểu tượng của
sự không hoàn hảo. Số 6 lặp lại 3 lần làm thành 666 cho thấy Con Thú hoàn toàn
không có sự hoàn hảo. Nó sẽ thất bại hoàn toàn và phải lãnh án phạt (x. Kh
19,20).
2. Bốn cách hiểu mã
số 616
1) Tên gọi hoàng đế
Nêrô theo Latinh: “NERO CAESAR” (hoàng đế năm 54–68), chuyển sang phụ âm Hípri:
QSR NRW, các con số tương ứng của mẫu tự Hípri: (200+60+100) + (6+200+50) =
616.
2) Hoàng đế CALIGULA
còn được gọi là GAIOS (hoàng đế năm 37–41). Tên gọi “GAIOS KAISAR” có các con
số tương đương của mẫu tự Hy Lạp: (3+1+10+70+200) + (20+1+10+200+1+100) = 616.
3) Danh xưng: “THEOS
KAISAR” có các con số tương đương theo mẫu tự Hy Lạp: (9+5+70+200) +
(20+1+10+200+1+100) = 616. Danh xưng “THEOS KAISAR” có nghĩa: “Hoàng đế Thiên
Chúa”, danh xưng này áp dụng cho tất cả các hoàng đế tự xưng mình là một vị thần, là Thiên Chúa.
4) Hoàng đế
Đômixianô, tiếng Latinh: DOMITIANUS CAESAR (hoàng đế năm 81–96), có ghi trên
con ấn của mình ký hiệu: DC XVI, có nghĩa là trị vì (DC) năm thứ 16 (XVI). Nếu
xem DC là con số Lamã, thì DCXVI = 500+100+10+5+1 = 616.
Ghi chú: Tên các
hoàng đế Rôma, thế kỷ I và đầu thế kỷ II: Octavien Auguste (-27–+14), Tibère
(14–37), Gaios Caligula (37–41), Claude (41–54), Néro (54–68), Galba (68),
Vespasien (69–79), Titus (79–81), Domitien (81–96), Nerva (96–98), Trajan
(98–117), Hadrien (117–138).
Kết luận
Ý nghĩa của các con
số trên đây giúp hiểu nội dung mặc khải trong Sách Khải Huyền, không nên áp
dụng ý nghĩa các con số cách máy móc. Hiểu các con số theo nghĩa nào còn tuỳ
thuộc bối cảnh văn chương và bối cảnh thần học riêng của đoạn văn, cũng như bối
cảnh văn chương và bối cảnh thần học chung của toàn bộ sách Khải Huyền. Vì thế,
cần áp dụng ý nghĩa các con số cách uyển chuyển và sáng tạo.
Chẳng hạn, khi bản
văn mô tả “Con Mãng Xà có 7 đầu 10 sừng” (Kh 12,3), có thể hiểu bản văn ám chỉ
sức mạnh của nó. Số 7 biểu tượng sự hoàn hảo: “7 đầu” nghĩa là rất khôn ngoan.
10 sừng (= 7 + 3 sừng), nói lên sức mạnh tàn phá lớn lao của nó, vì số 3 cũng
biểu tượng sự hoàn hảo. Với sức mạnh như thế nó có khả năng “mê hoặc toàn thể
địa cầu” (12,9). Tuy thế, sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa vẫn lớn hơn, cụ
thể là một thiên sứ đã “bắt lấy Con Mãng Xà và xích nó lại 1.000 năm...”
(20,1-2).
Kiểu trình bày trên
đề cao quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa. Qua những con số, bản văn vừa là
lời cảnh báo về sức tàn phá của thế lực sự dữ, vừa là lời động viên các Kitô
hữu trong hoàn cảnh khó khăn. Kết luận thần học có thể rút ra là: dù thế lực sự
dữ có mạnh mẽ tới đâu cũng sẽ thất bại trước quyền năng của Thiên Chúa. Qua đó,
các Kitô hữu được mời gọi kiên vững trong thử thách. Sách Khải Huyền mạc khải
cho độc giả biết về quyền năng của Thiên Chúa, đồng thời thần học Sách Khải
Huyền khẳng định: Chiến thắng chung cuộc thuộc về Thiên Chúa và thuộc về những
ai trung tín với Người cho đến cùng. Tóm lại, ý nghĩa biểu tượng của các con số
góp phần trình bày mạc khải.
Ngày 23 tháng 10 năm
2011
Giuse Lê Minh Thông,
OP
Nguồn:
truyenthongconggiao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét