Trang

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

HỘP THƯ GỬI MẸ CHÚA TRỜI VI : KÍNH GỬI ĐỨC MẸ NAJU (HÀN QUỐC)





HỘP THƯ GỬI MẸ CHÚA TRỜI VI : KÍNH GỬI ĐỨC MẸ NAJU (HÀN QUỐC)

I. Ý CẦU NGUYỆN

1. Cầu cho các linh mục và tu sĩ đang gặp thử thách về đức khiết tịnh

- Vì đức khiết tịnh biểu hiện tình yêu trọn vẹn dâng hiến cho Chúa, không thể chia sẻ cho bất cứ ai khác nữa.

- Vì đức khiết tịnh của linh mục và tu sĩ động viên tín hữu sống trọn vẹn hơn đời sống hôn nhân và gia đình.

- Vì đức khiết tịnh của linh mục và tu sĩ giúp tuổi trẻ hiểu và sống đức khiết tịnh trước và sau hôn nhân của họ; đồng thời giúp họ suy nghĩ về ơn gọi tận hiến.

2. Cầu cho các linh mục, tu sĩ biết sống đức khó nghèo

- Không sống khó nghèo vật chất, linh mục và tu sĩ sẽ xa lìa Chúa Kitô và Hội Thánh, dễ sa ngã, khó trung thành với bổn phận và làm gương sống cho tín hữu.

3. Cầu cho các linh mục và tu sĩ (nhất là các linh mục và tu sĩ Việt Nam) hiểu và sống ý nghĩa của đức vâng lời

- Không vâng lời là dấu hiệu của kiêu ngạo, ngược với lời thề hứa khi nhận chức thánh hoặc khấn trọng và đi xa Thập giá Chúa Kitô, đi ngược sự hiệp nhất, gây chia rẽ, dẫn tín hữu đi đường lầm lạc.

II. ĐỨC MẸ KHÓC TẠI NƯỚC ĐẠI HÀN

1. Linh địa Naju, nơi xảy ra phép lạ Đức Mẹ khóc

Naju là một thị trấn nhỏ với khoảng 90.000 dân thuộc miền Tây Nam bán đảo Triều Tiên (Korea - Đại Hàn), cách Thử đô Seoul (Hán Thành) chừng 320km về phía nam. Naju thuộc Giáo phận Kwangju.

Triều Tiên có lịch sử lâu dài với hơn 5.000 năm lịch sử, chịu ảnh hưởng truyền thống Phật giáo và Khổng giáo.

Triều Tiên đón nhận ánh sáng Đức tin Công giáo từ đầu thế kỷ 18 và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 19, khiến sinh ra cuộc bách hại Kitô giáo với trên 10.000 Kitô hữu đã hy sinh mạng sống để minh chứng đức tin. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong 89 vị lên bậc hiển thánh vào năm 1984. Triều Tiên cũng đã bị chia đôi đất nước vào năm 1950. Ngày nay số tín hữu Công giáo lên tới trên 3 triệu trong số 43 triệu dân trên đất Nam Hàn.

2. Hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt

Thánh tượng Đức Mẹ ban ơn lành chảy huyết lệ liên tiếp tại thành phố Naju, miền Nam Triều Tiên từ ngày 30-6-1985, đã gây chấn động cho cả nước.

Thánh tượng này là sở hữu của gia đình ông bà Julia Kim (Tên bà là Hong Sun Yoon và tên ông là Man Box Julio Kim), một gia đình Công giáo công chức trong thành phố. Bà Julia chính là người được Đức Mẹ hiện ra để mời gọi mọi người cầu nguyện cho có sự an bình trên thế giới.

3. Giáo quyền địa phương công khai hoá

Đức Tổng Giám mục Gong Hee Victorius Yoon đã để tâm nghiên cứu và nghiệm xét những sự lạ xảy ra tại đây và đã công bố với các cha trong ngày tĩnh tâm của các linh mục Giáo phận: “Sự kiện Đức Mẹ khóc chảy nước mắt không thể chối được. Chúng tôi thường xuyên quan sát các sự kiện và diễn tiến của biến cố... Và tôi cũng đang tiếp tục nghiên cứu các hậu quả...” (tháng 7-1989).

Ngài cũng nói với Cha Raymond Spies Chánh sở xứ đạo Naju rằng: “Tôi hết sức tin tưởng vào hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại Naju này. Tôi chấp nhận như là một sự có thật. Tôi chưa thấy nơi bà Julia nói điều gì trái với Tín lý của Giáo Hội. Xin cha cho tôi biết rõ tình hình bằng cách cung cấp cho tôi cả những thông điệp, nhật ký của bà Julia, các hình ảnh và băng hình nữa”.

Đức Tổng Giám mục Ivan Dias, Khâm sứ Toà Thánh tại Nam Triều Tiên cũng công khai bày tỏ: “Tôi xin phó dâng sứ mạng Khâm Sai của tôi qua lời cầu nguyện của Cha Raymond Spies, bà Julia và cũng cậy nhờ vào những sự đau khổ bí nhiệm mà bà chịu nữa” (ngày 22-12-1991).

4. Lược chuyện về bà Julia và pho tượng Đức Mẹ khóc

Julia sinh năm 1947, là ái nữ của một vị học giả cổ điển Trung Hoa. Cụ thân sinh của Julia đã bị mất tích trong thời Nam Bắc phân tranh 1950 và cô em út cũng qua đời khi mới lên 2 tuổi. Julia sống với mẹ, một người mẹ can đảm và lam lũ nuôi con ăn học qua hết bậc trung học. Đến năm 25 tuổi (1972), cô kết hôn với Juliô, người con cả trong gia đình. Ông bà sinh được 4 cháu (Rosa, Tomas, Térèsa và Philip). Ông bà đã lãnh nhận được ơn đức tin và đã trở thành con Giáo Hội vào Lễ Phục Sinh 1981.

Sau lần trở lại, bà dành hết thì giờ vào việc phục vụ khách hàng (nơi cửa tiệm hớt tóc của bà), lo cơm nước cho chồng con và săn sóc gia đình.

Ông Lubino Park là khách hàng quen thuộc của bà. Ông bị chứng bệnh sưng phổi từ khi ông phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện lao trị. Ông xin bà Julia cầu nguyện cho trước khi khám nghiệm giải phẫu. Vốn có tinh thần tông đồ, nên bà đã dâng một tuần 7 ngày với các việc hy sinh và kinh nguyện để cầu cho ông. Kết quả sau 3 lần tái khám, bác sĩ cho hay ông đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Để trả ơn bà Julia, ông xin tặng bà một món quà tôn giáo bày bán trong tiệm ảnh tượng của nhà thờ. Bà Julia chọn bức tượng Đức Mẹ ban ơn lành làm kỷ vật và cũng là để nhớ ơn Mẹ đã nhậm lời bà cầu nguyện.

Sau khi sinh cháu thứ tư, bà mắc một chứng bệnh thập tử nhất sinh. Trước cảnh tượng đau đớn nằm chờ chết, bà đã nhiều lần “chấp nhận cái chết” với chồng con. Bà cũng cố gượng viết một chúc thư dành cho người sẽ làm vợ kế của chồng bà. Bà cũng được cha sở xứ đạo Naju thường xuyên đến cho bà lãnh nhận Mình Thánh Chúa và khuyên nhủ, ủi an trong khi chờ chết. Hôm ấy, trong giấc ngủ mơ, bà thấy mình được Chúa chỉ dẫn đọc Thánh Kinh. Bà mở nhằm đoạn sách nói về người đàn bà loạn huyết lâu năm được Chúa chữa lành nhờ lòng tin. Sau giấc chiêm bao ấy, cũng nhờ lòng tin, bà được Chúa cho hoàn toàn bình phục, lại ban cho hết những điều bà khẩn cầu. Vì thế, nghĩ đến ơn Chúa ban, bà quyết định biến nhà mình thành nơi cư trú cho mọi kẻ nghèo hèn. Từ tháng 5-1985, cơn bệnh của bà lại tái phát, nhưng Chúa vẫn cho bà đủ sức để làm việc phục vụ.

5. Lần đầu tiên Đức Mẹ khóc

Bà Julia viết: “Sau khi đi thăm Kwangju, tôi đến Naju lúc 11g20 khuya ngày 30-6-1985. Tôi đọc kinh Mân Côi xin cho kẻ có tội được ơn trở lại và cho những người đang đau khổ tại Kwangju. Đang khi đọc kinh, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt chảy dài trên đôi mắt tượng Mẹ. Tôi hồ nghi không phải là nước mắt Mẹ nên tôi đánh thức chồng tôi đang ngủ gục, để nhìn cho rõ. Hai chúng tôi nhìn sát mắt Mẹ và chúng tôi xác định là nước mắt thật sự đã chảy ra từ khoé mắt Mẹ.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy từ 6 giờ và đi thẳng đến chân tượng Mẹ để quan sát lại. Tôi thấy những giọt nước Phép tôi vẩy lên tượng tối hôm trước đã khô sạch, nhưng vệt nước chảy từ khoé mắt Mẹ hôm qua, giờ vẫn còn chảy đều. Trước khi rời nhà đi làm, Juliô bảo tôi: “Đừng tiết lộ cho ai biết về hiện tượng lạ này”. Anh lại bảo tôi “phải cầu nguyện sốt sắng hơn” nữa.

Suy đến lời Chúa nói trong Phúc Âm: “Sự gì kín đáo đến đâu rồi cũng bị phơi bày trên mái nhà”. Vì thế, chẳng bao lâu sự kiện Đức Mẹ khóc tại Naju được loan đi khắp nơi và thiên hạ kéo đến đông nghẹt cả đường phố. Gia đình ông bà Juliô đã trở thành nơi cầu nguyện suốt đêm ngày. Sinh hoạt gia đình hoàn toàn bị xáo trộn, nhưng ông bà và các con đều chấp nhận cách vui vẻ. Nước mắt Đức Mẹ lần đầu tiên này chảy liên tiếp suốt 3 tháng trời.

6. Bà Julia đón nhận thông điệp

Từ ngày 18-7-1985, bà Julia bắt đầu đón nhận những thông điệp của Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Các thông điệp này là những phương thế linh đạo, một số dành cho bà để giúp bà thăng tiến trên đường thánh thiện và một số dành cho những người bà có bổn phận phải loan truyền sứ điệp của trời cao cho thế giới.

Đức Mẹ đã tỏ cho biết về con đường thiêng liêng theo thánh Têrêsa thành Lisieux: cầu nguyện, sinh hoạt chung, chịu đựng hy sinh, làm việc đền tội dâng lên Thiên Chúa vì yêu mến và sống khiêm nhường hiệp ý với Mẹ thì rất có giá trị trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Những thông điệp Đức Mẹ dạy mà bà Julia được đón nhận

Đức Mẹ đã dùng bà như sứ ngôn nói lên những điều Mẹ muốn loan báo cho các con của Mẹ. Sau đây là một vài điều quan trọng được ghi lại:

1. Cầu nguyện để ngăn chặn tội ác ngoài xã hội và trong gia đình

Bà Julia thuật lại: “Khi tôi cầu nguyện, Mẹ rất thánh cho tôi được thông phần vào những đau khổ của lòng Mẹ. Sau 30 phút chịu những đau đớn âm ỉ tột độ trong người, tôi hầu như không chịu nổi được, lúc ấy Đức Mẹ bắt đầu nói qua pho tượng với một giọng nói thật buồn rầu, tiếng Mẹ thật dịu dàng và ấm cúng vô cùng. Mẹ nói:

“Thật đáng buồn khi thấy nhiều người vẫn còn nghi ngờ, sau khi đã chứng kiến máu, mồ hôi và nước mắt Mẹ chảy ra và vẫn nghĩ rằng đó chỉ là những giọt nước lạnh. Mẹ yêu cầu con nói cho họ biết thật rằng Trái Tim Chúa Giêsu Con Mẹ đã tan nát vì tội lỗi loài người đang xúc phạm mỗi ngày một gia tăng. Con hãy truyền bá việc đọc kinh Mân Côi trên khắp thế giới, để ngăn chặn chiến tranh và hoán cải các linh hồn tội lỗi. Trái Tim Mẹ cũng buồn đau, ray rứt đến nát tan, khi thấy người ta quá liều lĩnh phá hại thai nhi, giết các con trẻ vừa thành hình trong lòng mẹ. Tội ngừa thai cách bừa bãi... Con hãy cầu nguyện để họ biết đáp lại tiếng cảnh giác của lương tâm, mà chặn lại những hành động quái gỡ ấy.

Con cũng hãy cho họ biết rằng: Trái Tim Mẹ hằng mong muốn loài người được hạnh phúc, và mong muốn cho các gia đình đã được Thiên Chúa tác hợp, luôn sống trong an bình. Nhưng khốn nỗi nhiều người lại chất chứa trong lòng đầy những tư tưởng oán trách, hận thù, ghét bỏ, ly thân, ly dị...

Làm sao các con có thể nói được rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại thiếu yêu thương ngay những phần tử trong gia đình mình? Hãy thánh hoá gia đình chúng con bằng chính sự yêu thương, hoà thuận. Hãy thực hiện tinh thần hiệp nhất với nhau, ngay cả những người làm việc cho Chúa Giêsu” (ngày 18-7-1985).

2. Mẹ kêu gọi cầu nguyện cho hàng linh mục, tu sĩ

“Các con hãy cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ. Trong thời đại này, nhiều người được ví như ngọn đèn dầu lắt leo trước gió. Họ trở nên như mục tiêu bị xã hội nhòm ngó, chê bai, rủ rê và mê hoặc, cốt ý làm cho họ bỏ ơn kêu gọi, bỏ lý tưởng. Các con hãy tình nguyện trở nên những lễ vật hy sinh để cầu nguyện cho họ. Hãy hỗ trợ họ đến cùng, vì họ là những người con quý báu và thân thương nhất của Mẹ” (ngày 11-8-1985).

3. Hãy tiếp nhận Thánh Thể

“Con hãy nhấn mạnh cho mọi người biết về tầm quan trọng của Phép Thánh Thể. Qua Phép Thánh Thể, Thiên Chúa ngự giữa các con, sống trong các con và ở lại mãi mãi nơi trần gian. Nếu các con mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài với tâm hồn thanh sạch. Làm sao Chúa có thể vào nhà các con được, nếu lòng các con không thanh sạch, thiếu thành tâm, cửa tâm hồn các con khép kín” (ngày 31-10-1986).

4. Hãy trở nên tông đồ của Mẹ

Hỡi các con của Mẹ, hãy gắng đón chịu những phiền nhiễu người ta gây nên trên thế giới. Hãy khiêm nhu đón nhận những đau khổ ấy và hiến dâng lên Chúa như một của lễ đền tội nhân loại. Hãy trở nên tông đồ của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ mà cứu rỗi các linh hồn bệnh hoạn. Mẹ mong muốn các con hợp nhất, yêu thương, tin tưởng, kính trọng, thành tín với nhau và làm trọn bổn phận của các con (ngày 13-2-1987).

7. Bà Julia xuất thần và nhận 5 dấu thánh

Cha Spicé đã chứng kiến vài lần xuất thần của bà giữa lúc bà được cảm nhận những cơn đau đớn của Chúa Giêsu trên Thánh giá.

Ngày 19-10-1987, kỷ niệm lần thứ nhất Đức Mẹ hiện ra với đầy nước mắt máu. Bà Julia đã xuất thần lúc 1 giờ 20 phút và lần đầu tiên bà cảm nhận nỗi đau đớn của cuộc khổ nạn của Chúa. Dấu đanh ở chân xuất hiện và máu chảy toát ra từ nơi dấu đanh chân phải của bà.

Ngày 29-1-1988, Bà Julia cũng xuất thần và cảm nhận nỗi đau khổ của Chúa và lãnh nhận 2 dấu đanh nơi lòng 2 bàn tay. Cơn đau đớn khủng khiếp kéo dài hơn 1 giờ đồng hồ.

Ngày 4-2-1988, sau khi cử hành Thánh lễ, bà Julia từ từ ngã người xuống và xuất thần. Hai mươi phút sau cơn ngất, bà Julia hét lên một cách thảm thiết và chuyển động thân mình giống như Chúa Giêsu trên cây Thánh giá. Chúa đã cho bà cảm nhận sự đau đớn của Người khiến những người hiện diện không cầm được nước mắt.

Sau khi Cha Spices ban phép lành cho bà, vài phút sau cơn xuất thần chấm dứt, bà mở mắt ra và trỗi dậy. Bà Julia còn tiếp tục cảm nhận những đau đớn kinh khủng mà Đức Mẹ yêu cầu bà lãnh nhận để cầu nguyện xin ơn cứu rỗi cho các linh hồn phạm tội giết hại thai nhi trong lòng mẹ.

Tại Nazu, nước mắt Đức Mẹ thường như mọi người, nhưng nhiều lần chảy ra máu và nước, để lôi kéo sự chú ý của nhân loại, và Giáo Hội biết Mẹ đã khóc vì người đời gây ra quá nhiều tội giết người mà không áy náy. Tội ác này có thể đưa đến sự trừng phạt của Thiên Chúa trên thế giới và trầm luân trên chính họ.

TÔN VINH CẢM TẠ MẸ MARIA

LÒNG KHIÊM HẠ CỦA ĐỨC  NỮ TRINH MARIA (I)

Chúng ta đọc thấy trong sách Công vụ [Tông đồ] rằng khi các môn đệ trở về từ Núi Cây Dầu, họ cùng nhau miệt mài cầu nguyện. “Họ” đây là những ai vậy? Nếu Đức Maria hiện diện, thì Mẹ là người đầu tiên phải được nêu tên, bởi vì Mẹ lớn hơn hết mọi người khác, về đặc ân sinh một người con như vậy, cũng như vì sự thánh thiện của riêng Mẹ. Bản văn này viết: “Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan - và các môn đệ khác - tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Maria thân mẫu Đức Giêsu” (Cv 1,13-14). Chẳng phải vì Đức Maria tự xếp mình là người phụ nữ cuối cùng nên tên Mẹ được nêu lên cuối cùng? - Ôi, các môn đệ này còn hết sức phàm tục - họ chưa nhận Thánh Thần, vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh.

(Bài giảng về 12 Ngôi Sao - Thánh Bernađô ở Clairvaux)

BTGH

Nguồn: truyenthongconggiao 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét