Trang

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Lần theo dấu vết Ngày lễ Các Linh Hồn


Lần theo dấu vết Ngày lễ Các Linh Hồn

Lần theo dấu vết Ngày lễ Các Linh Hồn


Tháng 11 có lễ kính nhớ Các Tín Hữu đã ra đi trước, hay lễ “Các Đẳng” vào ngày 2-11. Trong bài này, cha Van Hove sj cung cấp  một cái nhìn gọn gàng đối với việc thực hành cầu nguyện cho những người đã khuất, và cung cấp một lịch sử ngắn gọn về Ngày Lễ Các Đẳng.
Fr. Brian Van Hove, S.J.
trong  Ignatius Insigh, November 1, 2008
Như có lần Hồng y Giuse Ratzinger nói rất rõ về điểm khác biệt chủ yếu giữa người Tin Lành và Công giáo là việc cầu nguyện của người Công giáo cho người đã khuất : "Quan điểm của tôi là nếu Luyện ngục không hiện hữu, thì chúng ta cần phải tạo ra nó." Tại sao vậy ?
"Vì một một số lý do như tính cấp bách, tính người và tính phổ biến – đều có trong mọi thời và mọi nền văn hoá – như là việc “cầu nguyện cho người thân yêu của ta đã ra đi.” Calvin, nhà Cải Cách tại Geneva, đã thấy một người phụ nữ bị đánh đập vì người ta thấy bà đang cầu nguyện tại phần mộ của người con trai và như thế là phạm tội mê tín, theo Calvin. "Về lý thuyết, Phong trào Cải Cách từ chối chấp nhận Luyện tội, và cũng thường xuyên phủ nhận việc cầu nguyện cho cho những người đã khuất. Thực ra các thành viên thuộc của Giáo Hội Lutherô Đức quốc ít nhất trong thực hành đã quay về điểm ấy và đã khám phá ra sự công chính hoá về mặt thần học tại đây. Cầu nguyện cho những người thân yêu đã ra đi là điều hết sức khẩn thiết cần phải được nhấn mạnh; nó là sự chứng thực rất đẹp về tình liên đới, lòng mến và sự trợ giúp, vươn tới bên kia rào cản của cái chết. Hạnh phúc hay nỗi bất hạnh của một người thân yêu đối với tôi, giờ đây đã đi qua bên kia biên bờ, trong chừng mực nào đó tuỳ thuộc vào việc liệu tôi có nhớ đến hay quên người ấy; người ấy không ngớt cần tình yêu của tôi." [1]
Người Công giáo không chỉ là những người cầu nguyện cho người đã khuất. Tập tục này cũng là tập tục của người Do-thái, và theo truyền thống thì người Công giáo đã dựa vào bản văn sau đây từ Kinh Thánh của người Do-thái, cộng với một số đoạn trong Tân ước, để biện minh cho niềm tin của họ : 38 “Thế rồi Ông Giu-đa thu quân và đến thành A-đu-lam. Đã đến ngày thứ bảy, họ thanh tẩy theo tục lệ và mừng ngày sa-bát ở đó.39 Ngày hôm sau, vào lúc phải làm, quân của ông Giu-đa đi thu các tử thi những người bị giết chết và đưa về chôn cất với những người thân trong phần mộ tổ tiên.40 Nhưng bên trong áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy lá bùa của tượng thần ở Giam-ni-a: đó là điều luật cấm; vì thế ai cũng thấy rõ bởi lý do nào những người ấy đã bị giết chết.41 Vậy mọi người chúc tụng Đức Chúa, vì Người là thẩm phán công minh đã phơi bày ra ánh sáng những điều bí ẩn.42 Họ bắt đầu khẩn nguyện, xin Chúa tẩy sạch tội lỗi đã phạm. Vị anh hùng Giu-đa khuyên nhủ toàn quân giữ mình sạch tội, vì họ đã nhìn thấy nhãn tiền những việc xảy ra là do tội của những người đã bị giết chết.43 Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại.44 Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn.45 Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức.46 Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,38-46). [2]
Ngoài người Do-thái, nhiều dân tộc cổ xưa cũng đã cầu nguyện cho những người đã khuất. Một số xã hội như vào thời cổ Ai-cập, mang bộ mặt “đưa đám” và đã dựng nên việc thực hành này. Điều cần phải làm là đào sâu tinh thần con người đối nghịch lại với khái niệm tiêu tan sau khi chết. Mặc dù có một số điều hiển nhiên đối với ngày lễ trong phụng vụ Kitô giáo na ná với Ngày lễ Các Đẳng của chúng ta ngay từ thế kỷ thứ tư, Giáo Hội vẫn từ từ đưa vào một lễ như thế vì tại Âu châu, do sự cố chấp của những nghi thức của lương dân cổ đối với người chết. Thực ra, phản ứng của anh em Tin Lành về việc cầu nguyện cho người quá cố có thể dựa trên những tàn tích này nhiều hơn và lòng mộ đạo đã bị biến dạng từ thời tiền-Kitô giáo hơn là trên  học thuyết Công giáo chân thực như đã được Giáo Hội Tây phương và Đông phương thể hiện. Học thuyết về luyện tội, đúng ra được hiểu như là việc cầu nguyện cho kẻ đã qua đời, lẽ ra không bao giờ gây cớ vấp phạm cho bất cứ ai tuyên xưng đức tin nơi Đức Kitô. Học thuyết này, đúng ra được hiểu là cầu nguyện cho người qua đời, lẽ ra không bao giờ được đưa ra để tấn công những người tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
Khi chúng ta bàn bạc về Lễ Các Đẳng là chúng ta nhìn vào một ngày lễ thuộc phụng vụ mà chính nó đã trở thành công thức thuộc giáo lý đã được xác định, vì Giáo Hội thường chỉ làm sáng tỏ điều chưa được xác định rõ mà bây giờ đang bị xói mòn hay đang bị đe doạ. Tài liệu minh nhiên đầu tiên cho thấy việc cử hành này có từ thời thánh Isidore Seville (+ 636; vị giáo phụ cuối cùng của các Giáo phụ Tây phương) qui luật đan tu bao gồm luật phụng vụ cho tất cả những người qua đời vào ngày sau lễ Ngũ Tuần. [3] Thánh Odilo (962-1049 AD) là viện phụ của đan viện Cluny tại Pháp, đã đặt ngày cho việc cử hành phụng vụ đối với các tín hữu đã ra đi vào ngày mồng hai tháng Mười Một.
Trước đó, các ngày khác đã được thấy quanh khắp thế giới Kitô giáo, và những người Ac-mê-ni vẫn còn sử dụng ngày thứ hai đầu sau Phục Sinh cho mục đích này. Ngài đã cho công bố sắc lệnh là tất cả các đan viện của Dòng Cluny hàng năm phải duy trì ngày lễ này. Vào ngày 1-11 chuông phải được gióng lên và về sau Bộ kinh Thần Vụ cho Người Qua Đời (Office of the Dead) phải được cử hành và vào ngày hôm sau tất cả các linh mục sẽ cử hành Thánh lễ cầu cho sự an nghỉ của các linh hồn nơi luyện ngục. Sự tuân thủ các các tu sĩ Biển đức thuộc Đan viện Cluny đã sớm được thích nghi bởi các tu sĩ Biển Đức khác và bởi các tu sĩ thuộc dòng thánh Brunô (Carthusians) là những người đã được cải tổ từ dòng Biển Đức. Đức giáo hoàng Sylvester vào năm 1003 đã chấp thuận và khuyên thực hành. Cuối cùng các linh mục triều đã giới thiệu việc tuân giữ qui định phụng vụ này, và từ thế kỷ thứ 11 đến 14  việc tuân giữ này đã lan rộng khắp nước Pháp, Đức, Anh và Tây Ban Nha.
Sau cùng, trong thế kỷ 14, Rôma đã đặt ngày tưởng nhớ tất cả các tín hữu đã ra đi trong Các Sách Kinh (Thần vụ) của Tây phương hay Giáo Hội La-tinh. Ngày 2-11 được chọn  để ghi nhớ tất cả các linh hồn thánh thiện, cả các thánh trên trời và cả các linh hồn nơi luyện ngục, lẽ ra nên được cử hành trong hai ngày liên tiếp. Theo cách này, niềm tin Công giáo vào sự hiệp thông các thánh sẽ được thể hiện. Từ nhiều thế kỷ, lễ Các Thánh đã được cử hành vào ngày đầu tháng 11 rồi, việc tưởng nhớ các linh hồn trong nơi Luyện ngục được thiết lập vào ngày sau đó. Ngày lễ Các Thánh có từ thế kỷ thứ 4, nhưng sau cùng được ấn định vào ngày 1-11 do đức giáo hoàng Gregoriô IV vào năm 835. Hai ngày lễ nối kết các vị-đang-là-thánh với các vị gần-như-là-thánh và đã-là-thánh-rồi trước sự phục sinh từ kẻ chết.
Cách ngẫu nhiên, việc thực hành của các linh mục trong việc cử hành ba Thánh Lễ vào ngày này thì có nguồn gốc phần nào gần đây và ngày tháng chỉ lui lại tới khoảng năm 1500 với các tu sĩ Đa-minh vùng. Đức giáo hoàng Benêđictô XIV đã mở rộng tới toàn thể Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và châu Mỹ La-tinh vào năm 1748. Đức giáo hoàng Beneđictô XV vào năm 1915 đã ban : “Đặc ân ba thánh lễ” cho Hội Thánh toàn cầu. [4]
Vào ngày lễ Các Đẳng, phải chăng chúng ta có thể cầu nguyện cho những người trong lâm-bô? Lâm-bô (limbus) không phải là khái niệm cổ xưa trong Giáo Hội, và là một lối hiểu ngoại suy thần học (extrapolation) nhằm cung ứng cho việc giải thích những trường hợp không bao gồm trong bộ ba thiên đàng-luyện ngục-hoả ngục. Hồng y Ratzinger thì thiên về việc đặt thuyết này sang một bên, và nó không xuất hiện như một lý thuyết được dạy trong bộ sách mới Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. [5]
Giáo lý về Luyện tội, có trước cả phụng vụ về Lễ Các Đẳng, được đưa vào một công thức trong các khoản không được công bố bởi công đồng Florence (1439) và Trentô (1545-1563). Chân lý về học thuyết này đã có trước khi nó trở nên rõ ràng, dĩ nhiên, và chỉ từ những nhu cầu về lịch sử đã thúc đẩy cả Công đồng Florence lẫn Trentô phải công bố khi họ đã làm xong. Việc chấp nhận học thuyết này vẫn còn tồn tại một niềm tin cần thiết của đức tin công giáo.
Về các “ân xá” (indulgences) thì thế nào? Các ân xã được rút ra từ kho tàng ân sủng của GH được áp dụng cho những người đã ra đi vào ngày Lễ Các Đẳng, cũng như vào các ngày khác, theo những tiêu chuẩn về luật lệ của Giáo Hội. Người tín hữu thực hiện vai trò chuyển cầu của họ trong việc cầu nguyện nài xin lòng nhân từ của Chúa tuôn đổ trên những người đã qua đời. Chủ yếu, việc thực hành thúc đẩy các tín hữu đảm nhận lấy trách nhiệm. Đây là ý kiến của Michael Morrissey: “Ngược với quan điểm pháp lý và thương mại thông thường, giáo huấn về cơ bản là cố gắng thuyết phục các tín hữu thể hiện trách nhiệm đối với những người đã qua đời và sự hiệp thông của các thánh. Vì Giáo Hội dạy rằng cái chết không phải là sự chấm dứt cuộc sống, nên cả hai đều không chấm dứt các mối tương quan với những người thân yêu đã qua đời, cùng với các thánh tạo nên Thân Mình Đức Kitô trong “Giáo Hội Khải Hoàn.”
Hôm nay mối bận tâm về mặt thần học đang giảm sút đối với học thuyết ân xá là do có sự gia tăng nhấn mạnh đến các bí tích, đến đời sống cầu nguyện của người Công giáo, và sự tham gia tích cực vào thế giới như là những yếu tố cấu thành đời sống tâm linh. Đúng hơn, có lẽ đấy là do quan điểm cá nhân mang tính địa phương trong một nền văn hoá hiện đại làm cho điều ấy nặng nề hơn để có thể thấy trách nhiệm của mình, chứ chưa nói đến sự liên đới với bà con họ hàng và bạn hữu đã quan đời. [6]
Rồi, như với mọi kitô hữu, Ngày Lễ Các Đẳng phải cử hành với mầu nhiệm đức ái, rằng tình yêu Thiên Chúa vượt quá mọi sự, ngay cả cái chết. Các mối dây của tình yêu liên kết chúng ta là những thọ tạo, đang sống và đã chết, và Chúa là Đấng đã phục sinh, được cử hành cả vào ngày lễ Các Thánh và Lễ Các Đẳng mỗi năm.
Tất cả những ai đã được Rửa tội trong Đức Kitô và đã chọn Người thì sẽ tiếp tục sống trong Người. Nấm mồ không ngăn trở tiến trình hướng tới một sự kết hiệp sâu xa hơn với Người.  Nó chỉ là mức độ của sự gần gũi đối với Người mà chúng ta cân nhắc khi chúng ta cử hành ngày lễ Các Thánh một ngày, và lễ Các Đẳng vào ngày sau đó. Luyện ngục là một phúc lành lớn bởi vì nó cho thấy người nào yêu mến Thiên Chúa thì làm thế nào họ lại có thể thất bại trong tình yêu, và sau đó chữa lành nỗi thẹn thùng của họ. Phần lớn chúng ta hoặc không giữ trọn các giới răn hoặc đã không thất bại thực hiện trọn vẹn chúng. Con người rất tầm thường của chúng ta khiến chúng ta xấu hổ. Luyện ngục khoả lấp lỗ hổng ấy. Cuối cùng, chúng ta biết điều gì để hoàn thành tất cả có ý nghĩa. Phần lớn chúng ta hoặc không thù ghét hoặc không hoàn toàn thất bại trong việc thực thi đức ái. Luyện ngục dạy chúng ta tận căn ý nghĩa của tình yêu, khi Thiên Chúa ghi dấu lại sự thất bại của chúng ta đối với tình yêu trong thế giới này tiến tới sự hoàn thiện của tình yêu trong thế giới mai sau.
Như các bí tích trên trần gian này cung cấp cho chúng ta một quá trình biến đổi thành Kitô, cũng thế Luyện ngục tiếp tục tiến trình ấy cho tới khi việc giống Người được hoàn tất. Tất cả đều là ân sủng. Cầu nguyện tích cực cho người qua đời là "giới luật thánh” (holy mitzvah)[1] hay hành động của đức ái trên phần việc/bổn phận của chúng ta thúc đẩy tiến trình ấy. Giáo hội khuyến khích và thực hiện điều ấy với ý thức đặc biệt và trong sự hiệp thông vào Ngày Lễ Các Thánh, cho dẫu đó là điều luôn luôn và bổ ích ở khắp mọi nơi nhất thiết phải cầu nguyện cho người đã qua đời.
Ghi chú:
[1] Xem Joseph Cardinal Ratzinger, The Ratzinger Report: An Exclusive Interview on the State of the Church, với Vittorio Messori (San Francisco: Ignatius Press, 1985) 146-147. Michael P. Morrissey nói về điểm này: "Những nhà Cải Cách Thệ Phản bác bỏ học thuyết về Luyện tội, dựa trên giáo huấn cho rằng ơn cứu độ là bởi đức tin chỉ nhờ ân sủng, lời cầu nguyện chuyển cầu không có tác dụng gì đối với người đã qua đời." Xem "Afterlife" của tác giả trong The Dictionary of Catholic Spirituality, ed. Michael Downey (Collegeville: Michael Glazier/Liturgical Press, 1993) 28.
[2] 2 Maccabees 12:38-46. Từ The Holy Bible, Revised Standard Version, Containing the Old and New Testaments. Catholic Edition. (London: The Catholic Truth Society, 1966) 988-989.
[3] Xem Michael Witczak, "The Feast of All Souls", trong The Dictionary of Sacramental Worship, xb. Peter Fink, SJ, (Collegeville: Michael Glazier/Liturgical Press, 1990) 42.
[4] "Ba thánh lễ được phép chính thức được mỗi linh mục cử hành, nhưng một ý chỉ được qui về cho các Linh hồn Nghèo (mồ côi) và lễ kia cho ý chỉ của đức giáo hoàng. Phép này được đức giáo hoàng Benêđictô ban trong suốt chiến tranh thế giới 1914-1918 vì sự tàn bạo của cuộc chiến ấy và vì kể từ thời Cải Cách và do sự tịch thu tài sản của GH, các đòi buộc đối với các thánh lễ nhân các dịp kỷ niệm đã được thực thi như là những tặng phẩm và tài sản hầu như không thể tiếp tục theo cách thức đã được định sẵn. Một số nhà giáo luật tin rằng khoản Giáo luật 905 của Bản Luật mới đã huỷ bỏ thực hành này. Tuy nhiên, Sách các phép (Sacramentary), đã in ưu tiên đối với Khoản này, cung cấp 3 Thánh lễ tách rời nhau cho ngày này." Xem Jovian P. Lang, OFM, Dictionary of the Liturgy (New York: Catholic Book Publishing Company, 1989) 21. Xem cả Francis X. Weiser, The Holyday Book (New York: Harcourt, Brace and Company, 1956) 121-136.
[5] Đức Ratzinger đã khẳng định: “Lâm-bô (Limbus) chưa bao giờ là một chân lý đức tin được xác định. Cách cá nhân—và ở đây tôi nói thêm trong tư cách là nhà thần học chứ không phải là một Bộ trưởng của Thánh Bộ—tôi bác bỏ điều ấy vì nó chỉ là một giả thuyết thần học. Nó tạo nên bộ phận của một luận đề thứ yếu để ủng hộ một chân lý một cách tuyệt đối về ý nghĩa đầu tiên đối với đức tin, nghĩa là sự quan trọng của bí tích Rửa Tội. Để đặt nó thành những lời của Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: "Thật, tôi nói thật với ông, trừ phi được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, ông không thể vào được Nước Trời" (Ga 3,5). Ta không nên do dự loại bỏ ý niệm “lâm bô" nếu thấy cần (và thật cần lưu ý rằng chính các nhà thần học đã đề nghị “lâm bô", cũng nói rằng các bậc cha mẹ có thể dự phòng cho con cái ý niệm lâm bô bằng việc ước ao phép rửa và qua việc cầu nguyện); nhưng mối bận tâm ở phía sau nó ắt không được bỏ đi. Phép rửa không bao giờ là một vấn đề ngoài rìa đối với đức tin; không phải là lúc này, hoặc sẽ không bao giờ". Xem Ratzinger, The Ratzinger Report, 147-148.
[6] Morrissey, "Afterlife" trong The Dictionary of Catholic Spirituality, 28-29.
Antôn Vũ Hữu Lệ OFM (dịch)
Tháng các linh hồn 2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét