CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - A : Những suy niệm
1. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ
CHO THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa.
Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của
César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời
này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không
thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi
vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với
xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả
cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César
vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình
ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm
việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra
sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần
nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa
đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người
phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu
thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên
hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.
Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa
Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong
bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã
nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và
mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu
kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha
tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết”
(Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con
sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta:
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu
Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu
thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng
không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu
lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người
là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như
Người.
Sống như Chúa là hãy
có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các
con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có
tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ,
sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm
nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường
trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7
lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa
giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu
hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị
trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích
Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng
bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình
yêu Chúa đối với bạn?
2. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH
THIÊN CHÚA
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ
ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác
và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều
Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là
tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn
kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên
tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho
thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng
biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Đức Phật liền
nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận
đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói
tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc
nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra không làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ
rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một
người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt
hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167).
Câu chuyện trên là
một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa
Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn
mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn
Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô
hộ Israel ,
còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền
đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức
Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt
phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê
để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho
Xêda hay không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng
nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng
mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành
với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là
không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng
kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu
khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và
hỏi: hình và danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda"
Đức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả
về Thiên Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng.
Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên
Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ,
nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời
nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị
kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức
Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa
chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh
đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi
bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở
về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất
vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập
trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại
giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong
cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi
sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc
về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương
quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa
thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như
từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý
của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị
hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền
và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng
Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể
hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời
là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp
chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda
hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của
một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham
vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với
mọi người.
Những gì của Thiên
Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con
người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ
tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì
được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26).
Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của
Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận
chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho
con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu
luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và
luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao
dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm
cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
3. Suy niệm của Charles E. Miller.
HÃY DÂNG CHO THIÊN CHÚA NHỮNG GÌ LÀ CỦA THIÊN
CHÚA
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’)
Nếu Đức Giêsu phải
qua một cuộc kiểm tra trong trường học ngày hôm nay, thì Ngài sẽ không Vượt Qua
nổi. Ngài không bao giờ trả lời một câu hỏi, hay ít nhất là không trả lời trực
tiếp. Một số người cũng giống như thế. Các bạn hỏi họ: “Bạn thế nào?”. Và họ
trả lời: “Cám ơn bạn vì đã hỏi”. Đó không phải là một câu trả lời.
Trong bài Phúc Âm
ngày hôm nay Chúa Giêsu đã bị hỏi là để chu toàn Lề Luật có trả thuế cho đế
quốc hay là không? Một câu trả lời có hay là không đủ để trả lời cho câu hỏi
này. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã làm cho đối thủ của Ngài phải đưa cho Ngài đồng
bạc Rôma, tiếp đến Người đòi hỏi họ phải đưa ra chính kết luận của họ. Chúa
Giêsu có một lý do đúng đắn trong việc không đưa ra một câu trả lời trực tiếp
bởi vì những người hỏi Ngài không chân thành; họ cũng đặt bẫy trong câu hỏi của
họ. Nếu Ngài trả lời có, phải chu toàn Lề Luật đóng thuế thì người Pharisiêu sẽ
tố cáo Ngài phản bội lại những người đồng hương Do Thái, xứ sở của chính Ngài.
Mặt khác nếu trả lời không, họ sẽ có thể bắt Ngài bởi chống lại người Rôma.
Từ bài học đồng bạc,
không ngạc nhiên gì khi Chúa Giêsu đã nói với họ hãy trả cho Cesar những gì
thuộc về Cesar. Còn hơn là ngạc nhiên và ngay cả bị sốc nữa, khi Chúa Giêsu nói
thêm hãy trả cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Điều đó giống
như là nói với cổ động viên bóng đá nhiệt thành rằng đừng quên xem một số trò
chơi trên TV, nếu một người nào đó cho anh một vé chơi trò chơi hãy bảo đảm
rằng anh sẽ đi. Loại trò chơi đó đối với một người cổ động viên bóng đá là một
chuyện dư thừa. Vì những người Pharisiêu cũng gần giống như thế nếu nói với họ
hãy trao cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa thì không chỉ là dư thừa
nhưng đúng là một sự nhục mạ.
Ý của Chúa Giêsu thì
không cố ý nhục mạ họ, nhưng là thách đố họ. Không nghi ngờ gì họ đã trả thuế
cho đế quốc cai trị họ. Những người Rôma làm điều đó bằng cưỡng bách, bằng bạo
lực nếu cần thiết. Nhưng Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta bất cứ điều gì.
Ngài tìm kiếm sự phục vụ, trao ban một cách tự do. Trên tất cả Ngài yêu cầu một
tình yêu mà tình yêu đó phải thành thật và không ích kỷ, giống như tình yêu của
Ngài hướng đến chúng ta. Những người cố ý gài bẫy Chúa Giêsu trong bài giảng
của Ngài, tin rằng tôn giáo là một cái gì nhỏ bé hơn qua việc giữ luật bên
ngoài. Họ nghĩ rằng tôn giáo như xây một bức tường, cứ đặt những viên gạch với
nhau thì bức tường sẽ được dựng lên. Họ không nhận ra rằng với cái vẻ đạo đức
bên ngoài đã đặt nên một bức tường giữa họ với Thiên Chúa, và giữa Thiên Chúa
với dân của Người. Họ cũng thành công trong việc cô lập chính họ khỏi những đòi
hỏi cần quảng đại trong việc lạy Thiên Chúa hoặc trong việc phục vụ đồng loại,
những kẻ đang có nhu cầu cần giúp đỡ.
Những thách đố đối
với chúng ta là gì? Chúng ta có trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa không? Chúng ta có xứng đáng được khen ngợi như thánh Phaolô đã khen ngợi
tín hữu Thessalonica: “Chúng tôi đã kiên bền, chú ý… Còn anh em có
chứng minh đức tin của anh em, khổ nhọc trong tình yêu, và trình bày cách kiên
bền trông cậy vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta không?”.
Chứng mình đức tin
của chúng ta: nó có nghĩa là sống theo một cách mà mọi người biết chúng ta là
người Công giáo, những người thực thi tôn giáo của chúng ta một cách nghiêm
chỉnh và sẵn lòng chịu những điều khác nữa. Lao nhọc trong tình yêu: đó là nhận
biết chúng ta phải thực hiện theo cách của mình như chúng ta tử tế với những
người khác, chúng ta tự nguyện thăm viếng đau ốm hoặc đi mua sắm đồ hco những
người không thể đi được. Trình bày niềm hy vọng kiên bền vào Đức Kitô: Thách đố
này là sống cuộc sống của chúng ta không theo cảm tính, như Thiên Chúa không
hiện diện bởi vì chúng ta một là được thúc đẩy bởi cái vĩnh cửu còn không chỉ
là do những giá trị thế lực.
Chúa Giêsu cảm thấy
không cần thiết để trả lời những câu hỏi của người Pharisiêu nhưng chúng ta sẽ
nồng nhiệt và sẵn lòng trả lời với một lòng sốt sắng khi Người hỏi: “Các
con có sẵn lòng trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không?”.
4.
César
Người Do Thái lúc
bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp
những thứ thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba
thái độ khác nhau.
Thái độ thứ nhất của những
người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ đứng của họ và sự bao
bọc của chính quyền Rôma.
Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn cưỡng
chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt của
Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.
Cuối cùng là thái
độ của những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại
bang trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân
và coi việc nộp thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp
nhận để Thiên Chúa thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái
độ của Chúa Giêsu là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình
của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất:
- Thưa Thầy, chúng
tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng
vị nể ai và không đánh giá theo bề ngoài.
Thế nhưng bên trong
những lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì
nếu Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài
trả lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ
cho xem đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong
toàn đế quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công
nguyên vẫn còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế
Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi:
- Hình và dòng chữ
này là của ai?
Và khi biết là của
Xêda, Ngài bèn nói:
- Của Xêda hãy trả
cho Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Câu nói đó có ý
nghĩa: Đồng tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người
chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng
ta cho Thiên Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để
bày tỏ sự phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng
đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối
thượng, mới là Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc
của con người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc
về Thiên Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính
trần gian.
Những gì của Thiên
Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta
phải kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những
đòi hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã
thực sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
5. Nộp thuế cho Xê-da - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong cuộc đời,
bạn có gặp trường hợp xung đột giữa hai “bản tịch” như Đức Giêsu, nghĩa là
trung thành với tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại,
trung thành với đất nước thì bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường
hợp đó, bạn cần phải hành xử thế nào?
2. Bạn có phân biệt
rõ rệt như Đức Giêsu: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là
phân biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối
mình không? Phải coi ý muốn của ai quan trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai “bản tịch”
của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy sự xung đột giữa hai “bản tịch” của Đức Giêsu cũng như của mọi Ki-tô
hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức “giáo
tịch”, vừa là người dân của một đất nước, tức “quốc tịch”. Ngài cũng như chúng
ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng
Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm…), vừa phải yêu quê hương
đồng bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật,
đóng thuế, quân dịch…). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng
cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì
có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu.
Người Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do
Thái, vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn
phe đảng Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ
trương ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối
nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản
quốc; còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong
trứng nước những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong
bài Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức
Giêsu, bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa
hai “bản tịch” ấy. Họ chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay
không?” Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói “được phép”, Ngài sẽ
bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng
thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn
nếu bảo “không được” thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền
Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng
Đức Giêsu đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt
bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai “bản
tịch” trên. Đó là “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Thần quyền hợp với thế quyền
bách hại Đức Giêsu
Người mang hai “bản
tịch” như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo
và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan
tâm đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi
ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi
tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất
là khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế
quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn
giáo đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi.
Lúc đó, những người dân hai “bản tịch” bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một
bên và bỏ một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một
bên nào, bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung
thành với tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị
tôn giáo kết án.
Nhưng cũng có những
trường hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn
thấp cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể
trở thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau
để áp bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh
vực hay tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành
động sai trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như
thế quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và
của các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc
gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc
nào thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ
theo đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Ki-tô
hữu chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cho dù hoạt động
trong thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa,
của đất nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản
thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu
không thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự
ác, và đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của
Thiên Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng
nguyên tắc của Đức Giêsu
Là tín đồ của một
tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai “bản tịch” với hai loại nghĩa vụ:
một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người;
hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Ki-tô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn
chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo
và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó,
cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh
lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa
ra nguyên tắc: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ
Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua” (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi
chung như thế, thánh Phao-lô nói: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì
không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu
là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật
tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2). Đó
chính là áp dụng lời của Đức Giêsu: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa”, nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở
bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng
trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai “bản tịch” sẽ gặp nhiều khó
khăn. Là người Ki-tô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm
con người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa
và ý muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực
này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con
người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân
phục. Đức vâng phục Ki-tô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề
trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên
Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh
ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không
phải tuân phục. Vì “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv
5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt
vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì
hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là
nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là
chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay
thẳng và được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay
thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay
thương mại, mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không
thể vì một bổn phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có
quyền miễn làm theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước
những xung đột như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý
muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con
đang sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không
phải là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau.
Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao
nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng
lời người phàm” (Cv 5,29), hay “Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi” (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ
nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.
6. Xin Thầy cho biết ý kiến
Bài Phúc âm hôm nay
có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêda hãy trả cho Xêda,
của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu
xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính
là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người
này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền
thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm
đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự
hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê
được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người
Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người
Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine . Theo lẽ thường
thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay,
để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên
kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những
người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế
Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với
nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế
cho hoàng đế Xêda hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm
người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho
hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe
Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng là Chúa đi với người ngoại
bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái
nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có
câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu
trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng
thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là:
"Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại
cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho
anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một
cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất
và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo
dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà
chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả
về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì
trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn
của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về
chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu
ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời
Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên
Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài
tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong
cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân
bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó
mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là
Cha: "Hãy trả cho Xêda những gì của Xêda, và hãy trả cho Thiên Chúa những
gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời
gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ
nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội
của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến
từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con
xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây
đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây
chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
7. Chú
giải của Noel Quesson
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu
đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai
các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai
lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có
sự "nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối
nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có
thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự
biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó
sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ.
Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người
Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế
quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri
của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào
từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa
vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng
cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm
Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm
trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh
hữu' hay "cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của
Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng:
"Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường
lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh
giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi
nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng
là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ
tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa
và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược
lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội
trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu
thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ
của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian
để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật...
để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh
hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn
luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá
người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến:
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo
một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn
được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm
lược… Nếu Người trả lời "không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một
kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội
HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò
của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể
đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không",
dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe
khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý
nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa
đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu
cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng
cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần
ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của
những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ
ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao,
việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng
tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: "Hình và
danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã
giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có
mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được
coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần
linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp
thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế
nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh
Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời
gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì
của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức
Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình
dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường
hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời
"Giáo Hội và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn
của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ
của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng
hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế
chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất
cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của
toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã
nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như
Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa
"dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính
nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự
(Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai
có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích
Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như
thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị... như thể tôn
giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô
thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả thật, Đức Giêsu đã
thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người
ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các
cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa
của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm
vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách
Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt
16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô:
"Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời
đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy
một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các
quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một
sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da
là Xê-da... nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên
tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người
phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống
chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những
con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần
thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội
"không Thiên Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi
mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng
Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn
phận của chúng ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong
khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế
tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay.
"Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không
ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ
thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ
yếu nhất của con người. "Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi
chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của
Thiên Chúa" "theo hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số
phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của
mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì
còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa
đóng ấn, con người phải "trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St
1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn
thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng
ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của
Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao
cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về
Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và
có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi
được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
8. Chú giải của Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ NỘP THUẾ CHO CESAR
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Kẻ khéo giăng bẫy…
Ba dụ ngôn về xét xử
mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được sai đi làm
vườn nho, Chúa nhật 26; dụ ngôn những tá điền sát nhân, Chúa nhật 27; dụ ngôn
khách dự tiệc cưới, Chúa nhật 28) vẫn không đủ làm cho các kẻ thù địch Chúa tan
rã hàng ngũ. Trái lại họ còn liên minh với nhau và thay phiên nhau trong cố
gắng làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Sau khi đã "bàn bạc với nhau,
tìm cánh làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy" thì một lần nữa những
người Pharisiêu, không ngại gì sai các môn đệ của họ cùng đi với những người
thuộc phe Hêrôđê. Vấn đề họ đặt ra cho thấy rất rõ những thái độ khác nhau của
họ đối với người Rôma chiếm đóng. Đang khi những người Pharisêu đành phải bằng
lòng coi sự có mặt của quân chiếm đóng như một điều xấu không tránh khỏi được,
miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm - những người phe Hêrôđê là nhóm chính trị
ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với chính quyền Rôma- thì những người thuộc
nhóm quá khích" (zéloté) lại chủ trương bày tỏ sự chống đối công khai, nên
nhóm này cấm các thành viên của nhóm không được đụng chạm đến tiền bạc của
người Rôma. Họ lên tiếng hỏi Đức Giêsu, sau mấy lời mở đầu đầy vẻ phỉnh phờ:
vậy xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho Ceasar hay không? P. de
Surgy đưa ra nhận xét sau: "Vấn đề họ đặt ra này liên can tới sứ vụ thiên
sai, điều đó không làm ta ngạc thiên, bởi lẽ họ chỉ muốn nhắm đả kích việc Đức
Giêsu cho mình là Đấng Cứu Thế mà thôi. Vả lại họ đặt ra vấn đề cũng là vì lòng
thù địch ghen ghét muốn cho dân chúng hay chính quyền thù ghét Người" (“Assemblées
du seigneur" số 60, trang 10).
Họ nghĩ: Dù Đức
Giêsu trả lời đàng nào, thì Người cũng không thể thoát khỏi bẫy. Nếu Người trả
lời "không", nếu Người không nhìn nhận công khai việc phải nộp thuế
này, thì đúng là Người chống lại với hoàng đế César - Và những người phe Hêrôđê
sẽ vội vã tố cáo Người với nhà chức trách Rôma - Trái lại, nếu Người trả lời “Có",
nếu Người công khai thừa nhận là nên nộp thuế cho César, thì Người hợp thức hoá
sự hiện diện vô đạo và bất nhân của người Rôma trên một đất thánh mà Thiên Chúa
đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu ngài; vậy thì trước con mắt của một dân
tộc đang trông đợi một cuộc giải phóng quốc gia, Người mất hết tín nhiệm và
đừng hòng coi mình là Đấng Messia đến thực hiện những ước mơ của họ. Những
người Pharisiêu sẽ không bỏ lỡ cơ hội để đánh trống la làng về chuyện này.
2. … thì chính họ lại mắc bẫy.
Trước khi trả lời
câu hỏi của họ, Đức Giêsu làm cho lộ ra thanh thiên bạch nhật "thói giả
hình" của những kẻ đối thoại với Người. Người yêu cầu họ: "Đem đồng
tiền nộp thuế cho tôi coi. Lạ thay! Họ có đem theo một đồng. Quả là hồi đó
"đồng tiền này", đồng quan Rôma, đều có mang hình tượng hoàng đế
Rôma, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu rõ ràng này: César
Tibeno con của thần Augusto: Augusto". Cl. Tassin chú giải: "Rõ ràng
là có chuyện coi mình như thần thánh, mặc dầu bản thân Tiberio vẫn coi mình là
một người như mọi người". Nhất là từ thời Caligula, thì các hoàng đế Rôma
vẫn hiên ngang đòi cho mình có căn tính thần thánh. Cựu ước đã rõ ràng cấm chỉ
những hình ảnh phàm trần cũng vì xu hướng thần thánh hoá này. Để tôn trọng cái
cảm quan tôn giáo này, các nhà cầm quyền Rôma chỉ đúc những đồng tiền không có
hình ảnh để dùng trên lãnh thổ Do thái. Nhưng, đối với việc nộp thuế trong đế
quốc, thì người ta không tránh khỏi được đồng bạc bất nhân ấy, mà đồng tiền ấy,
theo nét trào phúng của câu chuyện, xem ra lại được móc ra từ túi của những
người Pharisiêu vốn dĩ rất trung thành với những điều cấm đoán của Luật
Chúa" (Phúc Âm thánh Matthêu, NXB Centurion, trang 233).
Chúa hỏi họ: “Hình
và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp: của César. Và Chúa Giêsu nói lên một
câu bất hủ -nhưng lại rất hay bị người ta cắt nghĩa sai- khiến những kẻ đối mặt
với Người phải hết sức ngạc nhiên": "Thế thì của César, trả về César;
của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa? Người không phải là Đấng Messia mà, để chu
toàn công việc của mình, phải nắm lấy quyền chính trị và đảm nhận những trách
nhiệm và chức vụ của César. Và bởi vì chính họ đã được tạo dựng giống hình ảnh
Chúa, nên Người khuyên nhủ họ hành động sao cho trong mọi sự Thiên Chúa phải
được phụng sự trên hết; còn đối với quyền hành chính trị, mặc dầu vẫn hết mực
tôn trọng, nhưng khi quyền ấy ngẫu nhiên tự thần thánh hoá mình mà chiếm đoạt
luôn cả những quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa, thì họ phải lên tiếng phản đối vì:
"Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”? Không muốn để mình kẹt vào thế lưỡng
nan do đối phương bày ra, Đức Giêsu xác định lập trường của Người và xoay
chuyển vấn đề. Nước Thiên Chúa không phải là nước cạnh tranh với nước của César;
Nước ấy thuộc về một trật tự khác và nằm ở một bình diện khác, Đấng Messia
không đến để chiếm chỗ của César và thực hiện một sứ vụ thiên sai có tính tôn
giáo - chính trị; Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa. P. de Surgy kết luận:
khi mời gọi người ta trả về César... cái mà thông thường Người... có thể đòi
hỏi theo như trách nhiệm của chính mình và nhất là khi làm cho hiểu rõ bản chất
của Nước Chúa cũng như sứ vụ cứu thế của người và khi khẳng định quyển ưu tiên
của Thiên Chúa, Đức Giêsu đem vào quan niệm của Người xưa một sự phân biệt rạch
ròi và rất cách mạng: nghĩa là Người làm cho chính trị mất đi tính thần tinh và
thánh thiêng, chống lại với mọi xu hướng tôn thờ nó như một ngẫu tượng; người
trả chính trị cho chính trị, bằng cách nhìn nhận giá trị của nó và quy cho nó
một trách nhiệm riêng. Khi trả chính trị về cho chính trị, Đức Giêsu không có ý
để cho chính trị ở trong một hoàn cảnh trung lập với Phúc âm. "Của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa.Với những lời dứt khoát này Đức Giêsu kêu gọi ta sống
cuộc đời của ta, kể cả đời sống chính trị, trong niềm trung tín với Thiên Chúa,
Đấng đã tỏ mình ra nơi người. Người đòi hỏi đời sống chính trị của ta phải
trung tín với những ước vọng và tinh thần Phúc Âm. Người cũng lêu gọi Giáo Hội
cũng như cộng đồng đức tin phải nắm giữ, không phải là phận vụ thống trị hay
luân lý đối với chính trị, nhưng là vai trò tiên tri về Phúc âm hoá là bằng con
đường hoán cải các tâm hồn sẽ đem lại hiệu quả thực sự: sống giữa lòng lịch sử
nhân loại Giáo Hội phải dùng đời sống và lời nói mà lặp lại cho César, tiếng
gọi của Thiên Chúa hằng sống là và lên tiếng "mời gọi, mời gọi chuyên
chăm, và mời gọi không ngừng tất cả mọi người tiếp tay thực hiện những gợi hứng
tích cực của Phúc âm trong công cuộc xây dựng thành đô của loài người"
(O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hình tượng này là của ai
đây?”
Thánh Augustino bài giảng 24.
Anh em thân mến,
Thiên Chúa đòi chúng ta trả lại hình ảnh Người (hình ảnh mà theo đó chúng ta đã
được tác tạo) Đó chính là điều Người muốn nói cho những người Do Thái khi họ
đưa Người coi một đồng bạc. Trước hết họ muốn thử Người khi hỏi Người rằng:
"Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không để,
nếu Người trả lời: được phép, thì họ có thể tố cáo Người là nhục mạ dân tộc
Israel vì muốn cho dân thần phục bằng việc đóng thuế và trở thành chư hầu dưới
ách thống trị của hoàng đế. Còn nếu Người trả lời là không được phép, thì họ sẽ
có thể tố cáo Người tội phát ngôn chống lại hoàng đế César, là căn cớ cho dân
chúng từ chối nộp thuế mà họ phải nộp, bởi lẽ người ta đang sống dưới ách của
hoàng đế. Đức Giêsu nhìn thấy mưu mô của họ, như sự thật tìm ra điều gian dối,
vì Người đã làm cho họ phải chịt là chính miệng lưỡi họ gian dối. Người không
dùng miệng lưỡi mình mà kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tuyên án cho mình,
như có lời chép rằng: "Vì nhờ lời nói của anh, mà anh sẽ được trắng án, và
cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án" (Mt 12,37). Người nói với
họ: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền
nộp thuế cho tôi coi!. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. "Hình và danh
hiệu này là của ai đây Họ đáp: "Của César". Bấy giờ Đấng Cứu Thế bảo
họ: "Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa" Cũng như César tìm hình ảnh mình trên đồng tiền thế nào, thì Thiên
Chúa cũng tìm hình ảnh của Người-trong hình hồn bạn như vậy. Đấng Cứu chuộc
phán rằng: "của César, trả về César". César đòi bạn trả gì? trả hình
ảnh của ông. Chúa đòi bạn trả gì? Hình ảnh Người. Nhưng hình ảnh của César thì
in trên đồng tiền, hình ảnh của Thiên Chúa ở trong lòng bạn: Nếu mất đồng tiền
khiến bạn phải khóc, vì bạn đã đánh mất hình ảnh César. Thì gây xỉ nhục cho
hình ảnh Chúa trong lòng bạn, lẽ nào điều đó lại không hề làm cho bạn phải nhỏ
lệ sao?".
2. “Hôm nay đến lượt ta làm
chứng Tin Mừng”.
(Sổ tay sinh hoạt
Ngày thế giới Truyền giáo).
"Năm 180, tại
miền đất nay là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt
vì là những người có đạo. Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế
Rôma là Chúa. Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: "chúng tôi kính
trọng César vì là hoàng đế nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Tất
cả đều bị kết án tử, họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời
Chúa mà chúng ta vừa nghe: "Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì
đồng tiền này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự nào, tỉ dụ như
việc nộp thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và
"mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về Chúa"...
Đây chẳng qua là một thí dụ xưa rồi, nhưng ta có thể tìm ra vô vàn những mẫu
tương đương trong tất cả lịch sử Kitô giáo. Cho tới thời hiện đại... Đó chẳng
phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, của Lời Chúa được đón nhận có sức
làm biến đổi đời sống con người như đã thể hiện nơi Giáo Hội trẻ trung ở
Thessalonica mà thánh Phaolô nói tới đó sao? Chính ngài, ngài biết rõ mình được
sai đi rao giảng bí ẩn của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mạc khải... Nhưng điều
làm cho thánh nhân vui mừng là được thấy sống dậy một cộng đồng các người nam
nữ mà đời sống của họ được đổi mới nhờ việc họ đón nhận Tin Mừng này. Họ có một
lòng tin sống động, một lòng mến tích cực và một lòng cậy trông vững vàng như
ta thấy thánh tông đồ nói về họ. Những cộng đồng này, đến lượt mình, trở thành
những nhân chứng giúp mở ra những hàng rào xã hội trong đó con người có nguy cơ
bị giam hãm. Những cộng đồng này móc nối với cộng đồng kia lần lượt nổi lên như
những hoa trái của Lời Đức Giêsu, tạo thành một chuỗi các mắt xích, đã dần dần
thể hiện một sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương và đó chính là Giáo Hội của
Chúa trong thế giới. Các giáo hội ấy cùng nhau thực thi Lời Chúa "Của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
9. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
NỘP THUẾ CHO HOÀNG ĐẾ
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Phải đặt đoạn này
trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào?
2. Có lạ lùng không
khi hai phe Biệt phái và Hêrôđê hợp tác chặt chẽ với nhau ở đây?
3. Phải chăng tiếng
kêu "Thầy" có một cách dùng đặc biệt trong Mt?
4. "Cạm
bẫy" mà các kẻ đối thoại với Chúa Giêsu giăng ra cho Người đúng ra là gì?
5. Biệt phái có phải
là "giả hình" chỉ vì đã giả vờ khen Chúa Giêsu không? Phải chăng họ
cũng không sống giả hình trong chính vấn đề nộp thuế?
6. Câu trả lời của
Chúa Giêsu vượt quá câu hỏi do địch thủ Người đặt ra ở chỗ nào?
*****
1. Trong vụ tranh
tụng diễn ra tại Đền thờ giữa Chúa Giêsu và các địch thủ Người: thượng tế và ký
lục (20,18; 21, 15), thượng tế và niên trưởng trong dân (21, 23), thượng tế và
Biệt phái (21, 45), chúng ta đã thấy điểm tranh chấp dần dần xác định: lai lịch
của Con Đavít và nguồn gốc quyền bính của người hay, nói cách tương đương, bản
chất của Nước Thiên Chúa. Các dụ ngôn đã cho thấy sự cấp bách phải chọn lựa,
đồng thời vẫn còn để cho cơ hội hối cải về sau (21, 32; 21, 45).
Bây giờ đến bốn cuộc
tranh luận móc nối nhau theo chiều hướng đi lên. Chúng xem ra được xếp đặt theo
một lược đồ thông dụng của các giáo sĩ:
- Hokmâh (sự khôn
ngoan): một cuộc tranh luận về phép xử thế nhân cơ hội một vấn đề pháp luật
(22,15-22).
- Haggadâh (lời chú
giải): một dịp giải thích các đoạn Kinh Thánh có vẻ mâu thuẫn (22,41-46).
- Bôrut (điều thô
tục): một cuộc tranh luận nhắm chế nhạo một niềm tin (22, 23-33).
- Dérèk érèts (con
đường thế): một tranh luận về các nguyên tắc căn bản của đời sống luân lý
(22,34-40).
Tuy nhiên Mt đổi thứ
tự cổ truyền bằng cách đặt haggadâh vào phần cuối của cuộc tranh chấp để cho
thấy cuộc tranh chấp tiến đần đến câu hỏi sau cùng của Chúa Giêsu.
Ba cuộc tranh luận
đầu tiên được khỏi xướng do ba nhóm đại diện cho Do thái giáo chính thức, họ
muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu bằng chính lời nói của Người (cc.15 và 35) về
những vấn đề càng lúc càng quan trọng: việc nộp thuế cho hoàng đế vấn đề chia
rẽ phe cánh Hêrôđê, nhóm Biệt phái và đảng Nhiệt thành; kẻ chết sống lại; vấn
đề bị phái Sađucêô chối bỏ; điều răn lớn nhất: mốl bận tâm của những người Do
thái chăm chú giữ luật là nhóm Biệt phái. Các vấn đề này được đặt ra cho một
Rabbi, một "Thầy" (didaskale: cc. 6. 27. 36), tước hiệu cho thấy sự
hiểu biết của họ về Chúa Giêsu đến mức độ đâu, nhưng Người, cứ mỗi lần như vậy,
lại dẫn họ đến một vấn đề căn để hơn. Và sau cùng Người đi bước trước bằng cách
đặt rõ cho họ vấn đề nêu lên do sự có mặt của Người giữa họ trong Đền thờ,
khiến họ bị bắt buộc phải chọn lập trường tối hậu.
2. Đoạn ngắn này bao
gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c. 15), cuộc toan tính của họ bên Người
(16, 17) và câu Người trả lời cho họ (18- 21): trọng tâm của trình thuật nằm
trong lời phán quyết sau cùng, cái lời lưu giữ với những hạn từ rành rẽ một
giáo huấn quan trọng của Chúa Kitô. Đưa ra nhân một cuộc tranh luận với các
tiến sĩ Luật, công thức này quả nổi bật trong khung cảnh đó.
Câu hỏi đặt ra cho
Chúa Giêsu là một câu hỏi hóc búa, nhằm mục đích hại Người hoặc trước dân
chúng, hoặc trước quyền bính dân sự. Như ta biết, nhóm Biệt phái tượng trưng
cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo và một cách chính thức tượng
trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa tước quyền bính
Rôma tại Giuđêa, quyền bính này nằm trong tay một tổng trấn mà đôi lúc, với sự
hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma,
vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hêrôđê Cả đang trị vì
ở Galilê và Pêrê (Hêrôđê Antipas) hoặc Auranitide, Gaulanitide, Batanée, Tratronitide
và lturée (philíp). Nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này
có lợi cho họ.
Các lời nói của
những kẻ được sai phái thật sảo quyệt. Câu đầu tiên, rất dài, với dụng ý đánh
tan mọi ngờ vực, là một lời khen đầy tôn kính giả vờ đối với Chúa Giêsu (c.
18). Họ chào Người với tước hiệu Rabbi. Họ khen Người thành thật. Có thẩm quyền
và bất thiên vị. Họ năn nỉ xin Người phán một lời để giải quyết một vấn đề phức
tạp mà họ không thể nào đồng ý với nhau. Sau câu xã giao rườm rà và thơn thớt
ấy là đến một liều thuốc độc (c. 17), một câu hỏi sắt như dao và bất ngờ:
"Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?".
Ngoài các loại thuế
gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương
chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum)
cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của
việc lệ thuộc; người Do thái ghét thứ thuế đó lắm và đảng Nhiệt thành coi việc
từ chối nộp nó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, nó đã được giòng tộc
Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế
điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có
nhiệm vụ thâu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn,
được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính.
Thành thử câu hỏi
đặt ra cho Chúa Giêsu hàm chứa một lưỡng đao: nếu Người chấp nhận nguyên tắc
trả thuế thì dân chúng sẽ xem Người như một tên Do thái gian, một người bạn của
Rôma và nhóm Biệt phái sẽ có cơ hội đạp đổ uy tín của Người trên dân chung. Nếu
tuyên bố chống nộp thuế, nhóm Hêrôđê sẽ phản ứng tức thì và sẽ có cớ để làm
Người bị tổng trấn lên án bằng cách trình bày Người như một tên phá rối trật tự
chung. Cổ võ việc chống đối nộp thuế điều mà chính Người sẽ thực sự bị gán ghép
trong vụ xử án trước tòa Philatô sau này. (x Lc 23, 2).
Câu trả lời của Chúa
Giêsu gồm ba yếu tố:
1. Trước tiên Người
tuyên bố rằng mình không phải là kẻ dễ bị lừa gạt. Người biết mình bị giăng bẫy
và biết các kẻ đối thoại (đều nham hiểm và tà tâm).
2. Người trả đũa một
cách khéo léo bằng cách hỏi vặn lại. Vì những kẻ nói với Người đều đã trả lời,
qua các sự kiện, cho chính câu hỏi họ nêu lên. Chúa Giêsu bắt buộc họ tỏ ra cho
thấy là họ đang mang trong mình đồng tiền của đế quốc (người Do-thái không được
quyền đúc tiền bằng đồng đỏ hay bằng bạc mà chỉ bằng đồng thau, những thứ ít
giá trị này không được dùng để nộp thuế thân hoặc thuế điền thổ). Theo lời
Người yêu cầu họ liền đưa ra một đồng quan. Đồng quan chính là thứ tiền dùng
nộp thuế. Ngoài ra, đồng này lại còn được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị
(lúc ấy là Tibêriô). Làm thế, Chúa Giêsu muốn ngầm hỏi họ rằng tại sao họ ngại
ngùng khi phải trả lại cho hoàng đế (qua việc nộp thuế) đồng tiền có nguồn gốc
Rôma và ngoại giáo ấy hơn là khi nhận nó với cùng thế giá của hoàng đế trong
các giao dịch bán buôn của họ? Nếu đã có một vấn đề thì từ lâu họ đã giải quyết
bằng cách chấp nhận rồi. Trong lãnh vực tiền tệ, họ đã tự nhận mình lệ thuộc
hoàng đế Rôma.
3. Bấy giờ Chúa
Giêsu mới đi xa hơn câu hỏi được đặt: Nói cho cùng, chỉ có một điều quan trọng
mà người ta có thể thực hiện cách hoàn toàn ngay dưới ách thống tn của ngoại
bang, đó là trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Điều này, Người
không ngừng nói từ khi bắt đầu hoạt cộng và cả Tin Mừng đầy dấy: hãy tìm kiếm
Thiên Chúa trước hết mọi sự hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Nước ấy
trước tiên... Nếu ta thực sự quan tâm đến điều đó, thì mọi vấn đề khác đầu trở
thành phụ thuộc, không quan yếu; cơm ăn, áo mặc và công lý dưới trần gian (x.
5, 39-42). Tuy thế, câu nói này không muốn thiết lập hai trật tự khác biệt mà
mỗi thứ sẽ là một điều quy chiếu tối hậu: Giáo Hội và quốc gia, và lại càng
không muốn đề cao thái độ tùng phục hoàng đế. Nó chỉ đặt các vấn đề vào đúng
chỗ của chúng thôn. Các vấn đề liên quan tài hoàng đế đến sau các vấn đề liên
hệ tới Nước Trời. Người ta đã đặt vấn đề nộp thuế cho Chúa Giêsu, nhưng lại
không hỏi gì Người về những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người đã chẳng tìm cách
tránh né vấn đề vì có thể gây nên nguy hiểm cho bản thân. Người chỉ đặt lại mọi
sự vào đúng chỗ của chúng khiến các địch thủ không còn cách nào theo đuổi câu
chuyện, chẳng còn biết làm sao để đun sôi cuộc tranh luận lên. Quyền lợi của
hoàng đế đã không bị động chạm, nhưng nhất là quyền lợi của Thiên Chúa đã được
đề cao. Người ta có thể hoàn toàn thỏa mãn các yêu sách của Thiên Chúa mà vẫn
nộp thuế cho hoàng đế. Chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà con người phải yêu
mến hết sức lực mình (x. 22, 37)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ sai đến với Người môn đồ
của họ": một câu
khó hiểu: trong Tin Mừng (và hầu như trong văn chương Do thái), người ta chỉ đề
cập đến "môn đồ của Biệt phái" ở đây và ở Mc 2, 13 thôi; trong
"môn đồ" hàm chứa giả thuyết có một tôn sư, thế mà các người Biệt
phái không dạy dỗ bao giờ, trừ ra một số trong bọn họ là Ký lục. Phải chăng
Biệt phái đã sai môn đồ của những ký lục như thế. Điều đó rất có thể. Một Biệt
phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp thuế thì chắc chắn không phải là
chuyện tự nhiên và có thể làm cho Chúa Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ về
vấn đề này đã quá rõ đối với dân chúng Palestine.
"Thầy": Trong Mt, các môn đồ chẳng bao giờ dùng
tiếng Thầy khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng “Ngài" (Kyrie);
chỉ có các Ký lục, Biệt phái, phe Saducêô (8, 19; 9, 11; 12, 38; 22, 16. 25.
36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh niên giàu có (19, 16)
sử dụng thôi. Giuđa, người duy nhất trong đám 12, hai lần dùng danh xưng,
"Thầy" (26, 25.49), trong mà Chúa Giêsu yêu cầu tránh trong cộng đoạn
huynh đệ (23, 7- 8).
“Chúng tôi biết...": Lời khen lớn nhất tặng cho một rabbi, nghĩa
là một kẻ cắt nghĩa Lề luật cho đời sống hằng ngày, là khen họ trung thành với
Lề luật (cách dịch của BJ và Nguyễn Thế Thuấn: "ngay thật” (franc) và “chân
thành" (franchise) kể ra quá yếu, cách của Osty hay hơn: "Chúng tôi
biết Thầy là người chân thật và Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa trong chân
lý") và không thiên vị ai; các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai
yêu sách này. Sau Cựu ước, Tân ước thường tố cáo tội thiên tư, những thói trọng
người theo địa vị và giai cấp xã hội (Cv 10, 34; Gc 2, 1.9; Rm 2,11; Ep 6. 9;
Cl 3, 25...).
"Có được phép nộp thuế cho
hoàng đế không?":
Kiểu nói đặc thù này của Mt (12, 24. 10. 12; 14, 4; 19, 3; 20, 15; 27, 6) là
câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo
sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường
nhật; nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của
lề luật có được phép nộp thuế không? thành thử câu hỏi không được đặt ra trong
phạm vi dân luật hay chính trị, vì trong trường hợp đó, nó sẽ được phát biểu:
"Có được phép không nộp thuế chăng?"
"Đồ giả hình": Các người đối thoại với Chúa Giêsu giả hình
trong hai chuyện. trước hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời
sự trong lúc chỉ cốt đặt nó ra để làm cho Chúa Giêsu lúng lúng. Thứ đến là khi
sử dụng đồng quan ("đồng tiền của hoàng đế") trong các giao dịch
thương mại của họ, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của hoàng đế từ lâu rồi.
"Hãy trả cho hoàng
đế": câu trả lời
này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong
đường hướng của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng những người làm
lớn nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn 8, 15-16; Ga
19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các
triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng luỵ chỉ
tạrn thời. Đối với các quyền bính chính trị, thì Chúa Giêsu, trong toàn bộ Tin
Mừng, đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng
chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ
sứ đồ và các thánh thư, cũng nằm trong chiều hướng ấy.
KẾT LUẬN
Qua câu trả lời,
Chúa Giêsu không phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lãnh vực trong đó
Thiên Chúa và hoàng đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình. Người
chẳng có ý bảo rằng sự vâng phục nhà nước có thể được quan niệm một cách độc
lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Người không phủ nhận việc có thể xảy ra những
tranh chấp giữa Thiên Chúa và hoàng đế và có nhiều trường hợp cần phải chọn lựa
giữa việc vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người ta (x Cv 4, 18-20). Người chỉ
bảo sự xung đột này chẳng có ở nơi mà Biệt phái muốn thấy. Kẻ nào thực sự tùng
phục Thiên Chúa và sống trong niềm mong đợi Nước Trời và sự công chính của nó,
thì có thể thừa nhận tính cách chính đáng và đồng thời những giới hạn của quyền
lợi hoàng đế. Sở dĩ Biệt phái đã đặt câu hỏi, là vì họ không lấy làm quan trọng
sự hiện hữu của họ trong thế giới của hoàng đế cũng như sự hiện hữu của Thiên
Chúa mà thế giới của hoàng đế cũng lệ thuộc vào. Chính vì Chúa Giêsu đích thực
là vua các vua và Chúa các chúa (1Tm 6,15) mà mệnh lệnh của người: hãy trả cho
hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế..." làm cho việc tùng phục quyền bính
thế gian này có một ý nghĩa, một nội.dung ki tô giáo: "Anh em hãy vì Chúa
là tùng phục mọi thể chế trong nhân loại hãy hành động như tôi tớ của Thiên
Chúa" (1 Pr 2, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta có thể
lấy lại, nhưng phải gột rửa khỏi mọi ý hướng mỉa mai trong đó, lời Biệt phái
khen ngợi Chúa Giêsu, một lời thật xứng hợp cho Người Chúa Giêsu là Đấng chân
thật: Người không để cho những đòi hỏi của sự thật hay của luân lý tùy thuộc
vào những toan lính "xu thời", chỉ cốt mưu sự thánh công; người nói
thẳng thắn trước mặt địch thủ; câu trả lời của Người là có hoặc không (2Cr 1,
18-20), tùy như sự việc đúng hay sai, tốt hay xấu; Người tự xác định chính mình
là Sự thật (Ga 14,6). Chúa Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa không phải luật
Môisen (Ga 1,17) cũng chẳng phải sự khôn ngoan nhân trần (1Cr 2,1-16) của các
triết gia hay nhà luân lý định hướng cuộc đời chúng ta nhưng là giáo huấn Chúa
Giêsu; Người là ánh sáng mà chúng ta phải theo để khỏi lạc đường; Người cũng đã
xác định mình là "ánh sáng thế gian" (Ga 8, 12) và quả quyết rằng
"ai theo Ta, không phải bước đi trong tăm tối” Chúa Giêsu chẳng thiên vị
ai: Người là Cứu Chúa của mọi người (x.1Tm 2, 3-6); đối với Người, những khác
biệt về chủng tộc phái tính, gốc tích và địa vị xã hội không quan trọng (Gl 3,
28). Với Người, mỗi người là một cá vị độc đáo.
2. Mối bận tâm lớn
của Chúa Giêsu, trong câu Người trả lời là biểu lộ tính cách siêu việt và tuyệt
đối của những quyền lợi Thiên Chúa. Trước đòi hỏi nộp thuế, Người không chối
từ, trái lại còn nhìn nhận việc ấy có tính cách chính đáng. Nhưng Người lại nêu
lên một đòi hỏi còn sâu xa hơn, triệt để hơn, của một trật tự hoàn toàn khác
hẳn: người ta phải trả cho Chúa không phải một vật nào đó, nhưng là chính bản
thân của mình.
3. Thành thử quyền
bính dân sự chỉ chuyên trách trong trật tự trần thế là trật tự lệ thuộc vào
những thực tại của trật tự tôn giáo. Trong phạm vi này, mà Chúa Giêsu không
muốn xác định rõ hơn, Người đã nhìn nhận rằng việc người Do thái nộp thuế cho
chính quyền rôm đương thời không có gì là vô luân và phạm thánh cả. Dù chẳng
xác quyết bổn phận nộp thuế xem ra Người vẫn giả thiết nó như một hậu quả của
tính cách chính đáng của thuế má; nhưng Người không, đi sâu vào trong các quan
điểm này, những quan điểm mà thánh Phaolô sẽ minh giải về sau: "Nợ gì với
ai hãy trả cho người ấy: sưu cho kẻ đòi sưu, thuế cho kẻ đòi thuế" (Rm 13,
6-7).
4. Kiểu nói: “Hãy
trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế" muốn diễn lả những đòi buộc
của đời sống cộng đồng trong số những đòi buộc của đời sống luân lý. người
Ki-tô hữu không thể nào tự miễn cho mình những bổn phận đối với quốc gia và
trong quốc gia, lấy cớ là chỉ thực hiện những bổn phận thuần túy tôn giáo. Việc
vấn tâm của chúng ta do đó phải xét đến các bổn phận của người công dân. Vì dù
là công dân của Nước Trời (Pl 3, 19-20), chúng ta cũng là công dân của một quê
hương trần thế mà chúng ta mang trách nhiệm về trong mức độ quê hương ấy đòi
chúng ta phải dấn thân phục vụ (Cv 21,39: Phaolô, công dân thành Tarsê; Cv 16,
37-39 và 22, 25-29; Phaolô, công dân Rôma).
5. Thánh Phaolô nói
rõ mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà ra, và ta phải tùng phục chính quyền
trong những gì thuộc địa hạt của nó, không những vì sợ hãi và vì lợi ích, nhưng
còn vì bổn phận lương tâm (Rm 13,1-7; Tt 3, 1). Ngài cũng khuyên nhủ cầu nguyện
cho các nhà đương quyền, để hòa bình được ngự trị trong thế gian (1Tm 2, 1-4).
Nguồn: WHĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét